Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Tiêu chuẩn nước uống_WHO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 52 trang )

TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ CHO NƯỚC UỐNG – WHO- 3RD EDITION
1. Giới thiệu ................................................................................................................................................. 3
1.1.Mục đích ............................................................................................................................................ 3
1.2. Phạm vi ............................................................................................................................................. 3
1.3. Sắp xếp .............................................................................................................................................. 4
1.4. Thể hiện kết quả ............................................................................................................................... 5
1.5. Giám sát ............................................................................................................................................ 5
1.5.1. Lựa chọn nguồn nước ............................................................................................................... 6
1.5.1. Sự thích hợp của xử lý ............................................................................................................... 6
1.5.2. Bảo trì mạng lưới phân phối ..................................................................................................... 7
2. Kiểm tra vi khuẩn ................................................................................................................................... 7
2.1. Các vi sinh vật xem là chỉ thị của sự ô nhiễm ................................................................................ 8
2.1.1. các vi sinh vật chỉ thị của sự ô nhiễm phân .............................................................................. 8
2.1.2 Tổng hàm lượng vi sinh vật ........................................................................................................ 9
2.1.3. Kiến nghị .................................................................................................................................... 9
2.2. Kiến nghị phương pháp phát hiện và ước tính chỉ thị vi sinh vật của ơ nhiễm ........................ 10
2.2.1. Phát hiện vi sinh vật coliform và E.coli .................................................................................. 10
2.2.2. Phát hiện liên cầu khuẩn trong phân và các sinh vật hình thành bào tử kỵ khí .................. 12
2.3. Tiêu chuẩn chất lượng vi khuẩn áp dụng cho nguồn cung cấp nước uống............................... 13
2.3. Tiêu chuẩn chất lượng vi khuẩn áp dụng cho nguồn cung cấp nước uống............................... 14
2.3.1. Cung cấp đường ống ................................................................................................................ 14
2.3.2. Nguồn cung cấp cá nhân hoặc công cộng nhỏ....................................................................... 16
3. Kiểm tra virus ....................................................................................................................................... 16
4. Kiểm tra sinh học .................................................................................................................................. 17
5. Kiểm tra phóng xa ................................................................................................................................ 18
5.1 Mức độ phóng xạ trong nước uống ............................................................................................... 18
6. Kiểm tra tính chất hóa lý...................................................................................................................... 20
6.1. Mục đích ......................................................................................................................................... 20
6.2. Các chất hóa học độc hại ............................................................................................................... 20
6.3. Thuốc trừ sâu ................................................................................................................................. 23
6.4. Những hóa chất đặc biệt có thể ảnh hưởng đến sức khỏe .......................................................... 23



1


6.4.1. Flouride .................................................................................................................................... 23
6.4.1. Nitrat ......................................................................................................................................... 24
6.4.3. Hydrocacbon thơm đa nhân .................................................................................................... 25
6.5. Các chất và đặc tính ảnh hưởng đến khả năng chấp nhận của nước ........................................ 25
6.6. Kiểm tra tổng qt về các đặc tính vật lý, hóa học và thẩm mỹ của nước ............................... 25
7. Lấy mẫu ................................................................................................................................................. 33
7.1. Lấy mẫu cho thí nghiệm vi sinh .................................................................................................... 33
7.1.1. Tần suất lấy mẫu ...................................................................................................................... 33
7.1.1. Thu thấp, vận chuyển và lưu trữ mấu cho kiểm tra vi sinh ................................................... 36
7.2 lấy mẫu cho kiểm tra vi rút ............................................................................................................ 37
7.2.1. Tầng suất lấy mẫu .................................................................................................................... 37
7.2.2. Thu thập, vận chuyển và lưu trữ mấu cho kiểm tra vi rút ..................................................... 37
7.3. Lấy mẫu kiểm tra sinh học ............................................................................................................ 37
7.3.1. Thu thập, vận chuyển và lưu trữ mấu kiểm tra sinh học ....................................................... 37
7.4. Lấy mẫu kiểm tra phóng xạ .......................................................................................................... 38
7.4.1. Thu thập mẫu kiểm tra phóng xạ ............................................................................................ 38
7.5.lấy mẫu kiểm tra hóa lý .................................................................................................................. 38
7.5.1. Tần suất lấy mẫu ...................................................................................................................... 38
7.5.2. Thu thập, vận chuyển và bảo quản mấy kiểm tra hóa lý ........................................................ 39
Phục lục 1 ................................................................................................................................................... 40
Phụ lục 2 .................................................................................................................................................... 44

2


1. Giới thiệu

Nước dùng cho nhu cầu của con người phải khơng có vi sinh vật và các hóa chất,
cái có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe. Bên cạnh đó, nước uống được cung cấp phải được
dễ uống trong hồn cảnh cho phép. Mát, khơng đục, khơng màu, và khơng có bất cứ vijvij
và mùi khó chịu nào là điều quan trong trong cung cấp nước uống. Tình hình, việc xây
dựng, vận hành và giám sát nguồn cung cấp nước, các hồ chứa và hệ thống phân phối của
nó phải đảm bảo loại trừ mọi khả năng gây ô nhiễm nước.
Một số quốc gia đã thiết lập các tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng và đã đạt được
mức độ đồng nhất nhất định trong các phương pháp phân tích và trong việc thể hiện kết
quả của các phân tích đó. Tuy nhiên, những nước khác vẫn thiếu các tiêu chuẩn chính thức
về chất lượng hoặc khơng có các phương pháp được công nhận để đánh giá chất lượng. Tại
các hội nghị khu vực và quốc tế do Tổ chức Y tế Thế giới tài trợ, các vấn đề về thiết lập
các tiêu chuẩn chất lượng cho nguồn cung cấp nước an tồn và có thể chấp nhận được và
đưa ra các phương pháp phù hợp để kiểm tra nước đã được thảo luận bởi các nhóm chuyên
gia và kỹ sư. Tiến bộ vượt bậc có thể đạt được trên toàn thế giới nếu các phương pháp kiểm
tra khác nhau có thể dễ dàng so sánh được bằng cách áp dụng các phương pháp thống nhất
để biểu thị kết quả; hơn nữa, có thể tránh được bùng phát dịch bệnh do nước gây ra thơng
qua việc kiểm sốt chặt chẽ hơn của các cơ quan y tế có trách nhiệm về chất lượng nước
được phân phối cho mục đích uống. Do đó, Tổ chức Y tế Thế giới đã nghiên cứu tình hình,
phối hợp với các chính phủ thành viên và với sự hỗ trợ của một số chuyên gia, trong nỗ lực
đưa ra hướng dẫn kỹ thuật cho các cơ quan y tế của các quốc gia muốn sửa đổi các quy
định của họ về kiểm soát chất lượng nước và đưa chúng cập nhật.
1.1.Mục đích
Hy vọng rằng ấn phẩm này sẽ có giá trị đối với những người vận hành hệ thống cấp
nước và những người khác liên quan đến việc xử lý và phân phối nước, và nó sẽ giúp ích
cho các quốc gia muốn thiết lập tiêu chuẩn quốc gia của mình hoặc sửa đổi các tiêu chuẩn
hiện có. Người ta cũng hy vọng rằng nó sẽ có giá trị đặc biệt đối với các cơ quan y tế trong
việc đảm bảo rằng nguồn cung cấp nước đến tay người dân được an toàn và dễ chịu khi sử
dụng. Một số hướng dẫn được đưa ra về các nguyên tắc được áp dụng trong việc lựa chọn
nguồn nước được sử dụng làm nguồn cung cấp công cộng.
1.2. Phạm vi

Ấn phẩm này liên quan đến các yêu cầu tối thiểu về chất lượng hóa chất và vi khuẩn
của nguồn cung cấp nước cho mục đích sinh hoạt, cái có thể được mong đợi đáp ứng một
cách hợp lý. Mặc dù mong muốn rằng chất lượng của nước cung cấp cho các cá nhân và
cộng đồng nhỏ không được thua kém chất lượng của nước cung cấp cho cộng đồng trong
các cộng đồng lớn, nó khơng được xem xét rằng tất cả nguồn nước có thể được mong đợi
một cách hợp lý để phù hợp với các tiêu chuẩn được đề xuất. đối với các nguồn cung cấp
được phân phối thông qua hệ thống phân phối đường ống. Tuy nhiên, điều quan trọng là
các cơ quan y tế địa phương nên thực hiện một số kiểm soát ít nhất đối với chất lượng vi
khuẩn trong nước cung cấp cho các cá nhân và cộng đồng nhỏ.

3


Một số quốc gia may mắn có được nguồn cung cấp nước dồi dào từ giếng sâu và
suối ngầm, trong khi những quốc gia khác phải sử dụng rộng rãi sông, hồ và các nguồn
nước mặt khác. Trong các lĩnh vực khác, việc cung cấp đủ lượng nước là vấn đề cấp bách
nhất. Tuy nhiên, chúng tôi cảm thấy rằng các khuyến nghị về chất lượng hóa học và vi
khuẩn được đưa ra trong phần chính của ấn phẩm nên được áp dụng, bất kể nguồn nước
ban đầu có thể là gì.
Các tiêu chuẩn về chất lượng hóa học và vi khuẩn và các phương pháp khác nhau
được khuyến nghị ở đây không phải là và không thể là từ cuối cùng về chủ đề này. Các
phương pháp mới liên tục được giới thiệu và phát triển, và người ta hy vọng rằng các
phương pháp được đề xuất, và thậm chí cả các tiêu chuẩn, sẽ được sửa đổi theo thời gian.
Các phần về kiểm tra virus học, chất diệt khuẩn và hydrocacbon thơm đa nhân đã
được thêm vào ấn bản này. Cần có thêm nhiều thơng tin về các chủ đề này và cả về nguy
cơ đối với sức khỏe của chất độc hại hoặc các chất độc hại tiềm tàng có thể được tìm thấy
trong nước - đối với một số trong số này, các giới hạn dự kiến đã được đề xuất trong phần
sau. Trong phần sau cũng đề cập đến các hóa chất mới được đưa vào sử dụng để xử lý nước
theo thời gian, và điều cần thiết là phải đảm bảo rằng khơng có nguy cơ độc hại nào phát
sinh từ việc sử dụng chúng.

1.3. Sắp xếp
Ấn phẩm này chủ yếu liên quan đến các phương pháp đảm bảo rằng nguồn cung cấp
nước uống không gây nguy hiểm cho sức khỏe của người tiêu dùng. Nó được chia thành
các phần về kiểm tra và lấy mẫu vi khuẩn học, virus học, sinh học, phóng xạ học, vật lý và
hóa học.
Phần 2 về kiểm tra vi khuẩn liên quan đến: (I) lựa chọn các sinh vật được sử dụng
làm chỉ thị ô nhiễm; (2) các phương pháp được đề xuất nên được sử dụng để phát hiện các
sinh vật này; và (3) các tiêu chuẩn về chất lượng vi khuẩn có thể được thiết lập một cách
hợp lý cho nguồn cung cấp nước uống.
Tiếp theo là phần 3 và 4 cho kiểm tra virus học và kiểm tra sinh học tương ứng. Mặc
dù không thể coi đó là một phần của việc kiểm tra nước uống thông thường, nhưng đôi khi
cần phải thực hiện các cuộc kiểm tra như vậy đối với nước và hiện nay người ta đã biết
nhiều hơn về chúng so với khi các ấn bản trước đó được chuẩn bị.
Phần 5 về kiểm tra phóng xạ đối với nước uống sau đây.
Phần 6 về kiểm tra vật lý và hóa học chủ yếu liên quan đến giới hạn nồng độ dự kiến
được đặt ra đối với một số chất độc hại có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe; các phương
pháp đã được khuyến nghị để phát hiện và ước tính các chất này. Trong Phần 6 cũng đã
xem xét các nồng độ tới hạn gần đúng mà các chất hóa học khác có thể ảnh hưởng đến sức
khỏe của người tiêu dùng. Nồng độ mong muốn cao nhất và nồng độ tối đa cho phép của
các chất hóa học ảnh hưởng đến khả năng chấp nhận của nước cho mục đích sinh hoạt cũng
đã được liệt kê. Các phương pháp có thể được sử dụng để ước tính các chất hóa học này
được chỉ ra và tài liệu tham khảo được cung cấp cho các ấn phẩm có đầy đủ các chi tiết kỹ
thuật có thể được tìm thấy. Trong phần 6 đề cập đến việc kiểm tra hóa chất, chúng tôi đề
xuất rằng nên sử dụng một số phương pháp nhất định trong việc kiểm tra tổng quát vật tư
4


về các đặc tính thẩm mỹ, vật lý và hóa học của chúng, để làm cho kết quả thu được trong
các phịng thí nghiệm khác nhau dễ dàng so sánh hơn.
Trong Phần 7 về lấy mẫu, các phương pháp lấy mẫu cho các mục đích kiểm tra lơgic

vi khuẩn, virus học, sinh học, phóng xạ học và vật lý và hóa học được nêu ra, đồng thời
đưa ra lời khuyên về thời điểm và tần suất lấy mẫu cho từng mục đích. Một số lời khuyên
về bảo quản và vận chuyển mẫu cũng được đưa ra trong phần này. Ví dụ về các biểu mẫu
báo cáo kết quả kiểm tra vi khuẩn và hóa học được nêu trong Phụ lục I; bảng Các số có thể
xảy ra nhất-với giới hạn tin cậy-để sử dụng trong kiểm tra vi khuẩn học, được đưa ra trong
Phụ lục 2
1.4. Thể hiện kết quả
Do tầm quan trọng của tính đồng nhất trong các phương pháp biểu thị kết quả kiểm
tra vật lý, hóa học và vi khuẩn học của nước, nên mô tả các thuật ngữ trong đó các kết quả
này trước tiên nên được mô tả.
Mặc dù việc biểu thị kết quả phân tích hóa học dưới dạng mili đương lượng trên lít
(mEq/l) là cần thiết để tạo ra sự cân bằng giữa anion và cation, người ta coi rằng kết quả
phân tích hóa học nói chung phải được biểu thị bằng mg/l, vì phương pháp này của biểu
thức được nhiều người biết đến và sử dụng rộng rãi. Các mEq/l nên được sử dụng để biểu
thị tổng độ cứng và tổng độ kiềm, mà mg/l là khơng thích hợp. Bất cứ khi nào có thể, các
thành phần hóa học phải được biểu thị dưới dạng ion; thể tích phải được biểu thị bằng
mililít (ml) và nhiệt độ phải được đo bằng độ C (oC). Trong kiểm tra vi khuẩn, tổng số vi
sinh vật phát triển trên môi trường rắn phải được biểu thị bằng các khuẩn lạc đếm được
trên 1 ml nước, môi trường, thời gian và nhiệt độ nuôi cấy được nêu. Các ước tính về số
lượng sinh vật coliform, Escherichia coli (E. coli) và các sinh vật khác có dấu hiệu ô nhiễm
phải được đưa ra dưới dạng số lượng có thể xảy ra cao nhất (MPN) trên 100 ml, khi được
đếm bằng phương pháp nhiều ống hoặc dưới dạng khuẩn lạc trên 100 ml , khi tính trên một
bộ lọc màng. Trong các xét nghiệm phóng xạ, hoạt độ phóng xạ phải được biểu thị bằng
đơn vị picocam trên lít (pCi/ l). Trong kiểm tra vật lý, độ dẫn điện phải được biểu thị bằng
micromet trên centimet (µS/cm). Để biết kết quả kiểm tra độ đục, màu sắc, mùi và vị, xem
Bảng 3
1.5. Giám sát
Tầm quan trọng của một cuộc khảo sát vệ sinh đối với các nguồn nước không thể
được nhấn mạnh quá mức.
Dù cẩn thận đến đâu, khơng có cuộc kiểm tra vi khuẩn hoặc hóa học nào có thể

chiếm được vị trí của kiến thức đầy đủ về các điều kiện tại các nguồn cung cấp và trong
toàn bộ hệ thống phân phối. Mọi nguồn cung cấp phải được các chuyên gia kiểm tra thường
xuyên từ nguồn đến đầu ra, và việc lấy mẫu, đặc biệt là cho mục đích kiểm tra vi khuẩn
nên được lặp lại trong các điều kiện khí hậu khác nhau, đặc biệt là sau khi mưa lớn và sau
công việc sửa chữa hoặc xây dựng lớn. Cần nhấn mạnh rằng, khi việc kiểm tra vệ sinh cho
thấy nước, khi đã được phân phối, có khả năng gây ơ nhiễm, thì cần phải lên án bất kể kết
quả kiểm tra hóa chất hay vi khuẩn. Sự nhiễm bẩn thường không liên tục và có thể khơng
được tiết lộ bằng cách kiểm tra hóa học hoặc vi khuẩn của một mẫu đơn lẻ, chỉ có thể cung
5


cấp thông tin về các điều kiện hiện hành tại thời điểm lấy mẫu; một kết quả thỏa đáng
không thể đảm bảo rằng các điều kiện tìm được sẽ tồn tại trong tương lai. Với nguồn cung
cấp mới, việc khảo sát vệ sinh phải được thực hiện cùng với việc thu thập dữ liệu kỹ thuật
ban đầu về tính phù hợp của một nguồn cụ thể và khả năng của nó để đáp ứng các nhu cầu
hiện tại và tương lai. Cuộc khảo sát vệ sinh cần bao gồm việc phát hiện các nguồn ô nhiễm
tiềm ẩn của nguồn cung cấp và đánh giá tầm quan trọng hiện tại và tương lai của chúng.
Trong trường hợp có nguồn cung cấp hiện có, một cuộc khảo sát vệ sinh nên được thực
hiện thường xuyên theo yêu cầu để kiểm soát các nguy cơ ơ nhiễm và duy trì chất lượng
của nước. Người ta coi trách nhiệm của cơ quan giám sát vượt ra ngồi trách nhiệm của
việc thơng báo rằng nước được giao đáp ứng hoặc không đáp ứng một tiêu chuẩn chất
lượng nhất định. Việc giám sát nên bao gồm việc cung cấp dịch vụ về cách có thể loại bỏ
các lỗi và cải thiện chất lượng; đến lượt nó, điều này ngụ ý kiến thức về hệ thống cấp nước,
bao gồm các quy trình xử lý, và liên hệ chặt chẽ với các nhân viên phịng thí nghiệm và
các nhà điều hành cấp nước có liên quan.
1.5.1. Lựa chọn nguồn nước
Khi phải lựa chọn giữa các nguồn thay thế, chất lượng của nước thơ (và do đó là
mức độ xử lý cần thiết) cũng như mức độ đầy đủ và độ tin cậy của các nguồn, từ quan điểm
về số lượng, cùng với khả năng mở rộng trong tương lai, phải được xem xét. Việc lựa chọn
một nguồn yêu cầu mức xử lý tối thiểu phải luôn được coi là ưu tiên hơn so với việc lắp

đặt nhà máy lọc tinh vi. Việc loại bỏ các chất ô nhiễm khỏi nước thải công nghiệp trước
khi thải vào vùng nước thường đơn giản và đáng tin cậy hơn so với nỗ lực loại bỏ chúng
khỏi nước dành cho mục đích sinh hoạt được lấy từ một số điểm khác trong cùng một vùng
nước. Khơng có điều gì trong các tiêu chuẩn này được coi là ngụ ý sự chấp thuận về sự
xuống cấp về bất kỳ khía cạnh nào của nguồn nước hiện có có chất lượng vượt trội hơn so
với khuyến nghị. Các nguồn nước hiện có và tiềm năng phải được bảo vệ chống ô nhiễm
càng nhiều càng tốt, mặc dù có thể khơng có ý định phát triển chúng ngay lập tức.
1.5.1. Sự thích hợp của xử lý
Việc xử lý nước có thể yêu cầu trước khi được phân phối như một nguồn cung cấp
công cộng không nằm trong phạm vi của ấn phẩm này; Tuy nhiên, việc xử lý phải phù hợp
để đối phó với những thay đổi về chất lượng của nước thô và tạo ra thành phẩm có chất
lượng liên tục cao cho dù nhu cầu về nguồn cung có thể lớn.
Bản thân việc khử trùng bằng clo, hay hình thức khử trùng khác, không phải lúc nào
cũng như một phương pháp cung cấp đủ chất lượng từ mọi nguồn nước thơ. Các hình thức
xử lý khác - chẳng hạn như đông tụ và lọc - được yêu cầu, trước khi khử trùng, để làm cho
nước thô phù hợp để phân phối như nguồn cung cấp cơng cộng. Ngồi ra, cần nhấn mạnh
rằng chất lượng của nước uống phụ thuộc vào chất lượng của nước thơ, đặc biệt là đối với
những thành phần khống chất thường khơng được loại bỏ trong xử lý nước.
Ngồi tác dụng như một chất khử trùng trong giai đoạn cuối của q trình xử lý, clo
cịn có hai tác dụng có lợi khi được thêm vào với số lượng đủ để duy trì nồng độ cịn lại.
Thứ nhất là phần cịn lại có thể đủ khả năng bảo vệ chống lại sự ô nhiễm tiếp theo của nước
đã xử lý trong hệ thống phân phối; Nồng độ bình thường, thường được đề nghị 0,2 mg /l,
6


là quá thấp để có nhiều tác dụng của loại này, nhưng liều lượng lớn hơn, chẳng hạn như
dùng trong trường hợp khẩn cấp, có thể cung cấp một số biện pháp bảo vệ chống lại sự
xâm nhập lớn của ô nhiễm. Thứ hai là khả năng hỗ trợ thử nghiệm vi khuẩn với thử nghiệm
so màu đơn giản hơn nhiều đối với clo dư kết hợp và tự do. Sự biến mất của clo dư là một
dấu hiệu tức thời cho thấy sự xâm nhập của chất có thể oxy hóa, hoặc sự trục trặc của quy

trình xử lý mà lẽ ra phải loại bỏ nó trước khi khử trùng bằng clo. Vì các xét nghiệm dư
lượng clo có thể được thực hiện trong vài phút (so với vài giờ cần thiết để kiểm tra vi
khuẩn) và bởi nhân viên khơng có tay nghề khơng có các phương tiện phịng thí nghiệm,
nên sử dụng tối đa các tiềm năng của các xét nghiệm clo dư này như một biện pháp bổ
sung, mặc dù không phải là một phương án thay thế cho chương trình thử nghiệm vi khuẩn
được mơ tả sau trong ấn phẩm này. Khi tồn dư chất khử trùng đang được duy trì trong hệ
thống phân phối, cần lưu ý hai điểm sau: (I) nồng độ cao của chất khử trùng oxy hóa có thể
gây ra sự phát triển sau đó trong hệ thống vì chất hữu cơ bị oxy hóa có thể duy trì sự phát
triển của vi khuẩn sau đó sẽ có sẵn khi chất còn lại đã được hấp thụ; (2) sự thay đổi theo
mùa, ví dụ về nhiệt độ, có thể ngăn cản tốt phần còn lại đến vùng ngoại vi của hệ thống
phân phối, do đó gây ra những khó khăn được mơ tả trong (1).
1.5.2. Bảo trì mạng lưới phân phối
Các bề mặt bên trong của thiết bị chính và đường ống dẫn nước bao gồm hệ thống
phân phối ngầm của nhiều nguồn cấp nước thường được phủ một lớp sinh học có thể bao
gồm chất nhờn, tảo, bọt biển, Dreissena và các loài nhuyễn thể khác, vi khuẩn sắt và các
sinh vật khác có thể chứa giun trịn, Daphniae, và các dạng sống tương tự. Khơng có bằng
chứng nào cho thấy bất kỳ điều nào trong số này tạo thành mối nguy hiểm trực tiếp cho
sức khỏe, mặc dù người ta cho rằng vi rút có thể tập trung, chẳng hạn như trong ruột của
Asellus.
Khả năng chấp nhận của nước có thể bị ảnh hưởng khi bất kỳ sinh vật nào trong số
này xuất hiện từ vòi của người tiêu dùng và ln có nguy cơ lớp sinh học có thể bị nới lỏng
do sự gia tăng vận tốc nước (ví dụ, khi nước được sử dụng cho mục đích chữa cháy), bằng
cách thay đổi liều lượng clo (ví dụ, khi nồng độ tăng lên trong một trận dịch, hoặc sau khi
sửa chữa nguồn điện), hoặc bằng cách trộn lẫn các loại nước có các đặc tính chất lượng
khác nhau (ví dụ, như hậu quả của việc khử muối hoặc tái sử dụng nước). Trong những
trường hợp như vậy, sự đổi màu, mùi hơi hoặc độ đục có thể khiến nước không thể uống
được. Nên thường xuyên xả nước hoặc ngốy bọt cho ống chính để ngăn chặn sự hình
thành lớp sinh học này, kết hợp với một liều lượng pyrethrins hoặc thuốc trừ sâu vơ hại
khác để kiểm sốt sự sống của động vật, nếu nhiều sinh vật đã trở nên quá vững chắc để
loại bỏ bằng cách xả nước. Việc khử trùng bằng clo và hồ chứa sau khi làm sạch hoặc sửa

chữa là một biện pháp phòng ngừa bổ sung, và việc ngăn ngừa kết nối chéo hoặc kết hợp
ngược là điều cần thiết nếu tránh được sự nhiễm bẩn của hệ thống.
2. Kiểm tra vi khuẩn
Ấn phẩm này chủ yếu liên quan đến việc giám sát thường xuyên nguồn cung cấp
nước. Khi một nguồn nước mới đang được xem xét, điều quan trọng là phải tiến hành kiểm
tra vi khuẩn đầy đủ. Việc kiểm tra như vậy phải bao gồm số lượng khuẩn lạc của vi sinh
vật trên môi trường không chọn lọc và kiểm tra liên cầu khuẩn trong phân và có thể cả
7


Clostridium perfringens (Cl. Welchii), cũng như các sinh vật coliform và Escherichia coli.
Việc kiểm tra tính chất này cũng nên được thực hiện vào những thời điểm khác khi trưởng
phòng thí nghiệm của cơ quan có thẩm quyền coi chúng là cần thiết. Các trường hợp đặc
biệt có thể yêu cầu tiến hành các cuộc kiểm tra thêm, ví dụ đối với các sinh vật gây bệnh
hoặc vi khuẩn "gây phiền tối". Ví dụ về biểu mẫu báo cáo kết quả kiểm tra vi khuẩn được
nêu trong Phụ lục 1.
2.1. Các vi sinh vật xem là chỉ thị của sự ô nhiễm
2.1.1. các vi sinh vật chỉ thị của sự ô nhiễm phân
Mối nguy lớn nhất liên quan đến nước uống là gần đây nó có thể đã bị ơ nhiễm bởi
nước thải hoặc phân người; ngay cả những nguy cơ ô nhiễm môi trường cũng không được
coi thường. Nếu ô nhiễm đã xảy ra gần đây và nếu nó đã được gây ra một phần bởi các
trường hợp hoặc người mang các bệnh truyền nhiễm như sốt ruột hoặc kiết lỵ, thì nước có
thể chứa các mầm bệnh sống của những bệnh này. Việc uống nước như vậy có thể dẫn đến
các bệnh liên quan. Mặc dù các phương pháp vi khuẩn học hiện đại đã cho phép phát hiện
những vi khuẩn gây bệnh này trong nước thải đô th, nhưng việc cố gắng phân lập chúng
như một quy trình thường quy từ các mẫu nước uống là khơng khả thi. Khi các sinh vật
gây bệnh có trong phân hoặc nước thải, chúng hầu như luôn luôn đông hơn rất nhiều so với
các sinh vật bài tiết bình thường, và các sinh vật bình thường này dễ phát hiện hơn trong
nước. Nói chung, chúng khơng được tìm thấy trong nước nên có thể suy ra rằng các sinh
vật gây bệnh cũng khơng có, và việc sử dụng các sinh vật bài tiết bất thường như một dấu

hiệu ô nhiễm ngồi phân tự nó tạo ra một mức độ an toàn.
Các sinh vật thường được sử dụng làm chỉ thị ô nhiễm là E. coli và nhóm coliform
nói chung. Không nghi ngờ gì nữa, E. coli có nguồn gốc từ phân, nhưng ý nghĩa chính xác
của sự hiện diện trong nước của các thành viên khác thuộc nhóm coliform đã được tranh
luận nhiều. Tất cả các thành viên của nhóm coliform có thể có nguồn gốc khơng phải từ
phân, và do đó cách giải thích tồi tệ nhất có thể xảy ra là sự hiện diện của chúng trong
nước; do đó, từ quan điểm thực tế, nên giả định rằng tất cả chúng đều có nguồn gốc từ phân
trừ khi có thể chứng minh được nguồn gốc khơng phải là phân. Hoàn toàn khác với câu hỏi
về việc sử dụng chúng làm chất chỉ thị ô nhiễm phân, các sinh vật thuộc nhóm coliform
nói chung đều xa lạ với nước và sự hiện diện của chúng ít nhất phải được coi là dấu hiệu ô
nhiễm theo nghĩa rộng nhất của nó. Tìm kiếm liên cầu khuẩn trong phân, loại đặc trưng
nhất là Streptococcus faecalis, có thể có giá trị trong việc xác nhận tính chất ơ nhiễm của
phân trong những trường hợp nghi ngờ. Liên cầu khuẩn trong phân thường xuyên xuất hiện
trong phân với số lượng khác nhau nhưng thường nhỏ hơn đáng kể so với E. coli. Trong
nước, chúng có thể chết và biến mất với tốc độ xấp xỉ như E. coli, và thường nhanh hơn
các thành viên khác của nhóm coliform. Do đó, khi các sinh vật thuộc nhóm coliform,
nhưng khơng phải E. coli, được tìm thấy trong mẫu nước, thì việc tìm thấy liên cầu khuẩn
ngoài phân là bằng chứng khẳng định quan trọng về bản chất phân của ơ nhiễm. Sinh vật
kỵ khí sinh bào tử, trong đó đặc trưng nhất là Cl. perjringens (Cl. Welchii), cũng thường
xuyên xuất hiện trong phân, mặc dù nhìn chung với số lượng ít hơn nhiều so với E. coli.
Các bào tử có thể tồn tại trong nước lâu hơn so với các sinh vật thuộc nhóm coliform và
thường chống lại sự khử trùng bằng clo ở liều lượng thường được sử dụng trong thực hành
8


cơng trình nước. Sự hiện diện của bào tử Cl. perfringens trong nước tự nhiên cho thấy rằng
sự ô nhiễm phân đã xảy ra và, trong trường hợp khơng có các sinh vật thuộc nhóm coliform,
sự ơ nhiễm đó đã xảy ra cách đây một thời gian đáng kể. Việc kiểm tra các liên cầu khuẩn
trong phân và các sinh vật hình thành bào tử kỵ khí cũng có thể có giá trị khi các mẫu nước
được kiểm tra trong khoảng thời gian không thường xuyên và khi một nguồn cung cấp mới

đang được xem xét, để thu được càng nhiều thông tin về chất lượng của nước càng tốt.
2.1.2 Tổng hàm lượng vi sinh vật
Số lượng khuẩn lạc trên thạch dinh dưỡng ở 37 ° C và ở 20 ° C không thường xuyên
được sử dụng trong việc kiểm tra vi khuẩn của nước. Số lượng khuẩn lạc chỉ có giá trị nhỏ
trong việc phát hiện sự hiện diện ơ nhiễm ngồi phân, vì các sinh vật thuộc mọi loại có khả
năng phát triển ở nhiệt độ này sẽ được tính. Một loạt số lượng khuẩn lạc từ một nguồn như
giếng sâu hoặc suối có thể có giá trị đáng kể - sự gia tăng đột ngột số lượng khuẩn lạc từ
nguồn như vậy có thể cho thấy dấu hiệu sớm nhất về sự nhiễm bẩn. Số lượng khuẩn lạc
thường xuyên lặp lại cho một loạt các điểm trong nhà máy xử lý có giá trị đáng kể trong
việc kiểm sốt xử lý cơng trình nước; chúng cũng có giá trị khi một nguồn cung cấp mới
đang được xem xét và càng thu thập càng nhiều thông tin về chất lượng nước càng tốt. Do
đó, một số lượng khuẩn lạc bị cơ lập hiếm khi có giá trị; ngay cả một loạt số lượng khuẩn
lạc cũng khơng có giá trị gì trong trường hợp nước bề mặt thơ, vì sự biến đổi lớn xảy ra do
sự thay đổi của điều kiện khí hậu, chẳng hạn. Các đĩa thạch dinh dưỡng và gelatin rất hữu
ích trong việc kiểm tra nước đối với một số vi khuẩn "phiền toái", chẳng hạn như vi khuẩn
giả phát quang màu xanh lá cây và các sinh vật hóa lỏng gelatin nhanh chóng; những điều
này, mặc dù chúng không quan trọng theo quan điểm an tồn, nhưng có thể dẫn đến khó
khăn trong chế biến sữa và chế biến thực phẩm
2.1.3. Kiến nghị
Nước tuần hoàn trong hệ thống phân phối, dù đã qua xử lý hay khơng, khơng được
chứa bất kỳ sinh vật nào có thể có nguồn gốc từ ngồi phân. Sự vắng mặt của các sinh vật
thuộc nhóm coliform, như được định nghĩa dưới đây, nên được coi là một dấu hiệu khá
đáng tin cậy rằng khơng có ơ nhiễm. Sự hiện diện của chúng nên được giả định là do ô
nhiễm phân trừ khi có thể chứng minh được nguồn gốc khơng phải do phân. Nếu các sinh
vật coliform được tìm thấy, cần phải điều tra thêm để xác định nguồn gốc của chúng. Nhóm
coliform bao gồm tất cả các que Gram âm, khơng hình thành bào tử có khả năng cung cấp
lactose với việc sản xuất axit và khí ở 37 ° C trong vòng chưa đầy 48 giờ. E. coli chắc chắn
có nguồn gốc từ ngồi phân và sự hiện diện của nó nên được coi là một dấu hiệu chắc chắn
về ô nhiễm phân kêu gọi để hành động ngay lập tức. Đối với mục đích phân tích hợp vệ
sinh của nước, E. coli được coi là một que Gram âm, khơng hình thành bào tử, có khả năng

lên men lactose tạo ra axit và khí ở cả 37 ° C và 44 ° C trong vòng chưa đầy 48 giờ; nó tạo
ra indole trong nước peptone có chứa tryptophane và khơng có khả năng tận dụng natri
xitrat như là nguồn cacbon duy nhất của nó. Kiểm tra vi khuẩn thường xuyên là điều cần
thiết để kiểm soát vệ sinh. Các bài kiểm tra thường xuyên bằng các phương pháp đơn giản
được ưu tiên hơn nhiều so với một loạt các bài kiểm tra phức tạp hơn ở những khoảng thời
gian dài hơn. Thể tích của mẫu phải đủ để thực hiện các thử nghiệm cần thiết và tốt nhất là
không được nhỏ hơn 100 ml. Khi tiến hành sửa chữa hoặc mở rộng hệ thống cấp nước hoặc
9


hệ thống phân phối, điều cần thiết là phải kiểm tra vi khuẩn của nước sau khi bộ phận của
hệ thống liên quan đã được khử trùng và trước khi đưa vào sử dụng.
2.2. Kiến nghị phương pháp phát hiện và ước tính chỉ thị vi sinh vật của ơ nhiễm
2.2.1. Phát hiện vi sinh vật coliform và E.coli
Hai phương pháp cơ bản được sử dụng để phát hiện và định lượng các sinh vật dạng
sống trong nước là phương pháp nhiều ống, trong đó thể tích nước đo được được thêm vào
thể tích của một mơi trường lỏng thích hợp và phương pháp lọc màng, trong đó thể tích
nước đo được được lọc qua một màng lọc. Hai phương pháp khơng cho kết quả hồn tồn
có thể so sánh được, một lý do cho điều này là số lượng trên màng lọc khơng cho thấy dấu
hiệu sản sinh khí từ lactose.
a) phương pháp nhiều ống
Việc kiểm tra trong môi trường lỏng bắt đầu bằng phép thử coliform giả định, trong
đó mẫu nước được cấy vào chai hoặc ống có chứa mơi trường lỏng thích hợp; sau đó chúng
được ủ và sau khoảng thời gian thích hợp, được kiểm tra phản ứng của các sinh vật
coliform. Thử nghiệm được gọi là giả định vì phản ứng quan sát được đơi khi có thể là do
sự hiện diện của một số sinh vật khác hoặc sự kết hợp của các sinh vật và giả thiết rằng
phản ứng là do các sinh vật coliform phải được xác nhận. Tỷ lệ các phản ứng dương tính
thu được phụ thuộc cả vào vi khuẩn trong nước được kiểm tra và môi trường được sử dụng.
Bằng cách cấy các thể tích nước thích hợp vào một số ống, có thể thu được ước tính về số
lượng sinh vật dạng khuẩn lạc có trong một thể tích nước nhất định từ các bảng thống kê.

Các bảng thể hiện số lượng vi sinh vật có khả năng xảy ra cao nhất trong mẫu ban đầu cho
các kết hợp khác nhau của kết quả dương tính và âm tính được đưa ra trong Phụ lục 2
(Anex 2). Trước đây, nhiều loại môi trường khác nhau đã được sử dụng ở các quốc gia
khác nhau để thử nghiệm coliform giả định. Nhiều nghiên cứu về môi trường được xác
định về mặt hóa học đã được thực hiện trong 15 năm qua và hiện có thể đề xuất rằng dung
dch MacConkey với bromcresol tím làm chất chỉ thị và nồng độ muối mật (bile salts) hoặc
môi trường glutamat được chuẩn hóa được ủ ở 37 ° C để lên đến 48 giờ nên được sử dụng
cho các xét nghiệm này. Một số môi trường glutamate đang được sử dụng, nhưng các so
sánh gần đây cho thấy rằng môi trường glutamate lactose formate cải tiến, được mô tả ban
đầu bởi Grey, nhưng với các khống chất được sửa đổi, nói chung là đạt yêu cầu.
Các thử nghiệm xác nhận. Thử nghiệm giả định phải được theo sau ít nhất là thử
nghiệm khẳng định nhanh đối với các sinh vật coliform và E. coli, thích hợp nhất là ni
cấy con của mỗi ống dương tính được cho là vào hai ống chứa nước mật màu xanh lục rực
rỡ, nước dùng lactose-ricinoleat, hoặc dung dịch MacConkey, một trong số đó phải được
ủ ở 37 ° C trong tối đa 48 giờ để xác nhận sự hiện diện của các sinh vật dạng khuẩn, và cái
kia được ủ ở 44 ° C và kiểm tra sau 6 và sau đó sau 24 giờ để quyết định xem có E. coli
hay khơng. . Xác nhận thêm về sự hiện diện củaE. coli, nếu mong muốn, có thể thu được
bằng cách thử sản xuất indol ở 44 ° C. Khi cần xác nhận đầy đủ, các ống dương tính được
cho là có thể được mạ lên môi trường rắn, chẳng hạn như thạch lactose, môi trường Endo,
thạch eosin xanh methylen hoặc thạch MacConkey, và các khuẩn lạc riêng lẻ được chọn
để nhận biết bằng indole và các phép thử sử dụng citrate và bằng cách thử nghiệm lên men
oflactose ở 37 ° C và 44 ° C.
10


Khối lượng nước cần kiểm tra. Cần ít nhất 100 ml nước để kiểm tra vi khuẩn. Các
thể tích được sử dụng trong các thử nghiệm trong môi trường lỏng sẽ phụ thuộc vào chất
lượng của nước được kiểm tra và loạt được sử dụng trong một trường hợp cụ thể sẽ phụ
thuộc vào kinh nghiệm của nhà vi khuẩn học với nước đó. Với các loại nước được mong
đợi là có chất lượng tốt, thì có thể sử dụng 1 thể tích 500 ml và 5 thể tích 10 ml, trong khi

với các loại nước có chất lượng đáng ngờ thì có thể sử dụng 1 thể tích 50 ml, 5 thể tích 10
ml và 5 thể tích 1 ml. Với các vùng nước bị ô nhiễm nặng, nước ban đầu có thể phải được
pha lỗng bởi hệ số 100, 1000 hoặc thậm chí hơn, để thu được một số phản ứng tiêu cực
trong chuỗi được đưa ra, và do đó thu được một con số hữu hạn cho MPN. Dù sử dụng
dịng nào, thể tích nước trong các ống riêng lẻ và số lượng ống chứa mỗi thể tích nước phải
sao cho ước tính MPN của các sinh vật dạng đồng màu có trong 100 ml nước ban đầu có
thể thu được từ các bảng thống kê.
b) Phương pháp lọc màng
Phương pháp thay thế để đếm các sinh vật coliform trong nước là lọc một thể tích
đo được của mẫu qua màng bao gồm các este xenluloza hoặc một số chất khác. Tất cả các
vi khuẩn hiện diện được giữ lại trên bề mặt của màng và bằng cách ủ màng hướng lên trên
và trên mơi trường thích hợp và ở nhiệt độ thích hợp, sau đó đếm các khuẩn lạc phát triển
trên bề mặt màng, có thể thu được sau tổng thời gian ủ thời gian 18 giờ trực tiếp số lượng
coliform giả định và số lượng E. coli trực tiếp không phụ thuộc vào việc sử dụng bảng xác
suất. Tuy nhiên, số lượng trên màng tùy thuộc vào các biến thể thống kê và số lượng lặp
lại của cùng một mẫu nước nói chung sẽ khơng hiển thị cùng một số lượng sinh vật (để
biết các giới hạn tin cậy, hãy xem phần Kiểm tra vi khuẩn của Nguồn cung cấp nước)
Cả vi khuẩn kỵ khí mang bào tử, có thể là nguyên nhân gây ra phản ứng giả định sai
trong môi trường MacConkey, cũng như hỗn hợp sinh vật có thể gây ra phản ứng giả định
sai trong bất kỳ môi trường lỏng nào, gây ra kết quả giả trên màng. Tuy nhiên, không thể
phát hiện ra khí trên màng. Bộ máy lọc và phác thảo kỹ thuật. Về cơ bản, thiết bị lọc bao
gồm một đĩa carbon xốp hoặc thủy tinh thiêu kết được hỗ trợ trong các miếng đệm cao su
silicone được lắp trong một đế có thể được kẹp vào một phễu hình trụ có chia vạch ở 50
ml và I00 ml. Bộ lọc màng được hỗ trợ trên đĩa xốp. Để lọc, cụm giữ bộ lọc được gắn trên
bình lọc với một cánh tay bên có thể được kết nối với bơm chân không điện, bơm lọc hoạt
động nhờ áp lực nước hoặc bơm hút vận hành bằng tay đơn giản. Sau khi một thể tích nước
đo được đã được lọc qua màng dưới, nước này được lấy ra và đặt ở vị trí, hướng lên trên,
trên mơi trường rắn thích hợp trong đĩa Petri hoặc trên một miếng đệm ngâm trong môi
trường lỏng trong đĩa Petri. Các mô tả và hình ảnh minh họa về thiết bị và phương pháp sử
dụng của nó được đưa ra trong Phương pháp Chuẩn để Kiểm tra Nước và Nước thải và

trong Kiểm tra Vi khuẩn đối với Nguồn cung cấp Nước. 26 Chi tiết về việc khử trùng thiết
bị và màng, môi trường có thể sử dụng, và quy trình ủ cũng được đưa ra trong hai ấn phẩm
này. Màng riêng biệt và các quy trình ủ khác nhau được yêu cầu để kiểm tra tổng số sinh
vật coliform và E. Coli
Sau khi ủ, màng phải được kiểm tra bằng ống kính cầm tay dưới ánh sáng tốt. Sự
xuất hiện của các khuẩn lạc sẽ phụ thuộc vào môi trường được sử dụng, nhưng tất cả các
khuẩn lạc có bề ngồi thích hợp phải được đếm bất kể kích thước. Nếu cần thiết, các khuẩn
11


lạc riêng lẻ có thể được chuyển từ màng vào môi trường lỏng để khẳng định, hoặc sang
môi trường rắn để từ đó có thể lấy các khuẩn lạc cho các phép thử khẳng định đầy đủ. Khối
lượng nước cần kiểm tra. Số lượng coliform và số lượng E. coli được thực hiện cho các thể
tích nước riêng biệt. Nếu các mẫu dự kiến chứa ít hơn 100 vi khuẩn coliform trong 100 ml,
thì việc lọc 100 ml cho mỗi lần thử là cần thiết. Thể tích của các mẫu ô nhiễm phải được
chọn sao cho số lượng khuẩn lạc đếm được trên màng nằm trong khoảng từ 10 đến 100.
Khi thể tích cần lọc nhỏ hơn 10 ml, mẫu phải được pha lỗng bằng nước pha lỗng vơ trùng
sao cho nhỏ nhất 10 ml được lọc.
Ưu nhược điểm của phương pháp lọc màng. Ưu điểm nổi bật của phương pháp lọc
màng là tốc độ thu được kết quả, bao gồm cả số lượng E. coli. Điều này cho phép nhanh
chóng thực hiện hành động khắc phục khi được yêu cầu; nó cũng cho phép nhà máy cấp
nước được đưa vào hoạt động trở lại nhanh hơn khi thu được kết quả âm tính. Trong phịng
thí nghiệm, tiết kiệm được lao động kỹ thuật và số lượng phương tiện và dụng cụ thủy tinh
cần thiết. Cũng có thể, trong trường hợp khơng thể lấy mẫu ngay đến phịng thí nghiệm
được trang bị đầy đủ, mẫu phải được lọc qua màng lọc tại địa điểm thu thập hoặc trong
phịng thí nghiệm địa phương với các phương tiện hạn chế và được gửi trên đường vận
chuyển. trung bình đến một phịng thí nghiệm được trang bị đầy đủ để kiểm tra. Sẽ tham
khảo các quy trình như vậy trong Phần 7, liên quan đến việc lấy mẫu.
Màng không phù hợp với nước có độ đục cao kết hợp với số lượng sinh vật dạng
khuẩn thấp vì trong những trường hợp như vậy, màng sẽ bị tắc trước khi có thể lọc đủ nước.

Màng cũng khơng thích hợp cho nước có chứa ít sinh vật coliform khi có nhiều sinh vật
khơng phải coliform có khả năng phát triển trên mơi trường được sử dụng, vì khi đó các
sinh vật khơng phải coliform có trách nhiệm bao phủ toàn bộ màng và cản trở sự phát triển
của sinh vật coliform. Các sinh vật lên men lactose tạo khí khơng sinh khí chiếm ưu thế
trong nước, màng sẽ khơng phù hợp vì tỷ lệ kết quả dương tính giả thu được cao. Một số
kỹ thuật màng ban đầu yêu cầu thay đổi môi trường sau vài giờ ủ đầu tiên. Trong một số
kỹ thuật mới hơn, điều này đã được thay thế bằng sự thay đổi nhiệt độ. Điều này có thể
được thực hiện bằng cách chuyển các vật chứa có màng từ tủ ấm này sang tủ ấm khác hoặc
bằng cách sử dụng thiết bị đặc biệt để cung cấp sự thay đổi nhiệt độ tự động vào thời điểm
thích hợp. Vì kết quả đưa ra bằng phương pháp lọc màng không nhất thiết phải giống như
kết quả thu được bằng phương pháp nhiều ống, điều cần thiết là, trước khi áp dụng phương
pháp lọc màng như một quy trình thơng thường trong bất kỳ phịng thí nghiệm hoặc đối
với bất kỳ nguồn cung cấp nước cụ thể nào, phải có một loạt các Các phép thử song song
bằng hai phương pháp phải được thực hiện để xác định rằng phương pháp lọc màng cho
kết quả tương ứng với các kết quả được đưa ra bởi phương pháp nhiều ống; phương pháp
sau nên được coi là phương pháp tham khảo.
2.2.2. Phát hiện liên cầu khuẩn trong phân và các sinh vật hình thành bào tử kỵ khí
Trong những trường hợp được coi là cần thiết để bổ sung việc kiểm tra các sinh vật
coliform và E. coli bằng cách kiểm tra liên cầu khuẩn trong phân hoặc các sinh vật hình
thành bào tử kỵ khí, các phương pháp sau đây có thể được khuyến nghị. Liên cầu khuẩn
trong phân. Các phương pháp thường được sử dụng để phát hiện và ước tính số lượng liên
cầu khuẩn ngoài phân là:
12


(1) Cấy nhiều phần nước vào các ống canh thang azit glucoza. Các ống cấy sau đó
được ủ ở 37 ° C trong 72 giờ. Ngay sau khi quan sát thấy độ chua, một chất cấy nặng được
cấy vào các ống tiếp theo của canh thang azitglucose, và ủ ở 45 ° C trong 48 giờ; tất cả các
ống cho thấy có tính axit ở nhiệt độ này đều chứa liên cầu khuẩn trong phân.
(2) Cấy nhiều phần nước vào các ống canh có đệm azide-glucose-glycerol (BAGG

meciium). Các ống cấy sau đó được ủ ở 45 ° C trong 48 giờ. Sự tăng trưởng cùng với việc
sản xuất axit gần như là bằng chứng chắc chắn về sự hiện diện của liên cầu khuẩn trong
phân, nhưng điều này có thể được xác nhận bằng cách kiểm tra bằng kính hiển vi đối với
các phim nhuộm Gram từ các ống cho thấy sản xuất axit.
(3) Một kỹ thuật lọc màng. Về cơ bản, kỹ thuật này giống như được mô tả trong
Phần 2.2.1 đối với phương pháp lọc màng để đếm các sinh vật coliform, ngoại trừ việc sử
dụng một môi trường khác và một quy trình ủ khác. Sau khi lọc, màng được đặt trên đĩa:;
thạch lucose-azide đã được làm khơ. Sau đó ủ ở 37 ° C trong bốn giờ và sau đó ở 44 ° C
hoặc 45 ° C trong 44 giờ. Tất cả các khuẩn lạc màu đỏ hoặc màu hạt dẻ được tính là liên
cầu khuẩn trong phân.
Sinh vật tạo bào tử kỵ khí. Các phương pháp thường được sử dụng để phát hiện và ước tính
số lượng bào tử của Cl. perfringens trong nước là:
(1) Cấy nhiều phần nước đã được đun nóng trước đó ở 75 ° C trong 10 phút để tiêu
diệt các sinh vật khơng hình thành bào tử vào mơi trường clostridial gia cường khác biệt
(DRCM) trong các chai có nắp vặn. Các chai nên được đổ đầy nếu cần thiết để chỉ để lại
một khoảng khơng khí nhỏ. Sau đó, chúng phải được ủ ở 37 ° C trong 48 giờ. Phản ứng
dương tính sẽ được thể hiện bằng cách làm đen môi trường do khử sunfit và kết tủa sunfua
đen. Bất kỳ clostridium nào cũng có thể tạo ra phản ứng này. Một vịng lặp từ mỗi chai
dương tính nên được cấy vào một ống sữa ong chúa đã được hấp và làm lạnh mới. Sau đó,
các ống này phải được ủ ở 37 ° C trong 48 giờ. Những ống chứa Cl. perfringens sẽ tạo ra
một "cục máu đơng" trong đó sữa bị axit hóa và đơng tụ lại và cục máu đơng bị phá vỡ bởi
khí.
(2) Phương pháp khử sulfit bằng cách sử dụng môi trường rắn, Các khối lượng nước
được trộn với mơi trường nóng chảy trong tnbes hoặc trong đĩa Petri. Khi môi trường đã
đông kết, nó được ủ ở 37 ° C hoặc 44 ° C trong 24 đến 48 giờ. Các khuẩn lạc màu đen ở
độ sâu của môi trường được đếm. Sự hiện diện của các khuẩn lạc màu đen có đường kính
trên 3 mm chứng tỏ đã bị nhiễm Cl. perfringens..
Một số cơng nhân thích làm nóng nước đến 75-80 ° C trong 10 phút trước khi thêm
nó vào mơi trường để tiêu diệt các sinh vật không sinh bào tử.
2.3. Tiêu chuẩn chất lượng vi khuẩn áp dụng cho nguồn cung cấp nước uống

Một số nguồn cung cấp nước uống được khử trùng bằng clo hoặc cách khác trước
khi phân phối; những người khác thì khơng. Tuy nhiên, dường như khơng có bất kỳ lý do
hợp lý nào để đặt ra các tiêu chuẩn vi khuẩn khác nhau cho các nguồn cung cấp đã được
khử trùng và cho những nguồn khơng được xử lý như vậy. Q trình khử trùng bằng clo
hiệu quả mang lại một loại nước hầu như khơng có vi khuẩn coliform, và nếu nguồn cung
cấp được phân phối mà không khử trùng bằng clo hoặc các hình thức khử trùng khác khơng
13


thể giữ được theo tiêu chuẩn vi khuẩn có thể dự kiến một cách hợp lý về nước bị khử trùng,
cần thực hiện các bước để khử trùng nước này hoặc khử trùng bằng một số cách khác. Tuy
nhiên, có vẻ hợp lý khi phân biệt giữa nước từ nguồn cung cấp được phân phối bằng mạng
lưới phân phối đường ống và nước từ nguồn cung cấp không được phân phối như vậy, vì
có thể khơng thực tế để giữ cho nguồn cung cấp sau này đạt được các tiêu chuẩn được đề
xuất cho nguồn cung cấp. được phân phối qua mạng đường ống. Khi xem xét các tiêu chuẩn
vi khuẩn đối với nguồn cung cấp nước uống được phân phối qua mạng lưới đường ống,
cần phải nhớ rằng bản thân chất lượng của nước trong hệ thống phân phối có thể khơng
giống với chất lượng của nước đi vào hệ thống, vì nước hồn tồn đạt u cầu khi nó đi
vào hệ thống có thể trải qua một số hư hỏng trước khi đến được vòi của người tiêu dùng.
Cần nhấn mạnh hai điểm:
(1) sự cần thiết của việc duy trì áp suất đủ cao trong tồn bộ hệ thống phân phối để
ngăn ngừa ô nhiễm xâm nhập vào hệ thống dọc theo chiều dài của nguồn điện bằng phương
pháp tổng hợp trở lại; và
(2) sự cần thiết đối với mọi hệ thống phân phối phải có sẵn phương tiện khử clo để
đối phó với ơ nhiễm ngẫu nhiên, vốn ln có khả năng xảy ra.
2.3. Tiêu chuẩn chất lượng vi khuẩn áp dụng cho nguồn cung cấp nước uống
Một số nguồn cung cấp nước uống được khử trùng bằng clo hoặc cách khác trước
khi phân phối; những số khác thì khơng. Tuy nhiên, dường như khơng có bất kỳ lý do hợp
lý nào để đặt ra các tiêu chuẩn vi khuẩn khác nhau cho các nguồn cung cấp đã được khử
trùng và cho những nguồn không được xử lý như vậy. Quá trình khử trùng bằng clo hiệu

quả mang lại một loại nước hầu như khơng có các sinh vật coliform, và nếu các nguồn cung
cấp được phân phối mà không cần khử trùng bằng clo hoặc các hình thức khử trùng khác
khơng thể duy trì theo tiêu chuẩn vi khuẩn có thể mong đợi một cách hợp lý đối với nước
khử trùng, thì nên thực hiện các bước để khử trùng nước bằng clo hoặc khử trùng nó bằng
một số cách khác. Tuy nhiên, có vẻ hợp lý khi phân biệt giữa nước từ nguồn cung cấp được
phân phối bằng mạng lưới phân phối đường ống và nước từ nguồn cung cấp không được
phân phối như vậy, vì có thể khơng thực tế để giữ cho nguồn cung cấp sau này đạt được
các tiêu chuẩn được đề xuất cho nguồn cung cấp đã được phân phối qua mạng đường ống.
Khi xem xét các tiêu chuẩn vi khuẩn đối với nguồn cung cấp nước uống được phân phối
qua mạng lưới đường ống, cần phải nhớ rằng bản thân chất lượng của nước trong hệ thống
phân phối có thể không giống với chất lượng của nước đi vào hệ thống, vì nước hồn tồn
đạt u cầu khi nó đi vào hệ thống có thể trải qua một số hư hỏng trước khi đến được vòi
của người tiêu dùng. Cần nhấn mạnh hai điểm: (I) sự cần thiết của việc duy trì áp suất đủ
cao trong tồn bộ hệ thống phân phối để ngăn ngừa ô nhiễm xâm nhập vào hệ thống dọc
theo chiều dài của nguồn điện bằng phương pháp tổng hợp trở lại; và (2) sự cần thiết đối
với mọi hệ thống phân phối phải có sẵn phương tiện khử clo để đối phó với ơ nhiễm ngẫu
nhiên, vốn ln có khả năng xảy ra.
2.3.1. Cung cấp đường ống
2.3.1.1. Nước đi vào hệ thống phân phối nước

14


(a) Nguồn cung cấp được khử trùng bằng clo hoặc bằng cách khác. Xử lý hiệu quả,
đỉnh điểm là khử trùng bằng clo hoặc một số hình thức khử trùng khác, sẽ mang lại một
loại nước khơng có bất kỳ sinh vật coliform nào, tuy nhiên nước thô ban đầu có thể đã bị
ơ nhiễm. Trong thực tế, điều này có nghĩa là khơng thể chứng minh sự hiện diện của các
sinh vật coliform trong bất kỳ mẫu 100 ml nào.. Một mẫu nước đi vào hệ thống phân phối
không phù hợp với tiêu chuẩn này yêu cầu một cuộc điều tra ngay lập tức về cả hiệu quả
của quá trình lọc và phương pháp lấy mẫu. Tuy nhiên, điều quan trọng là trong thử nghiệm

nước có clo, các ống được cho là dương tính phải ln được thử nghiệm khẳng định thích
hợp.
(b) Nguồn cung cấp khơng được khử trùng. Khi nguồn cung cấp loại này tồn tại,
khơng có nước nào đi vào hệ thống phân phối được coi là đạt yêu cầu nếu nó tạo ra E. coli
trong 100 dặm. Nếu khơng có E. coli, sự hiện diện của khơng q 3 sinh vật coliform trên
100 ml có thể được chấp nhận trong các mẫu không thường xuyên từ các nguồn cung cấp
đường ống không được khử trùng đã được thiết lập, với điều kiện là chúng có được kiểm
tra thường xuyên và thường xuyên và diện tích lưu vực và các điều kiện bảo quản được
cho là đạt yêu cầu. Nếu các mẫu lặp lại cho thấy sự hiện diện của các sinh vật dạng khuẩn,
thì cần thực hiện các bước để phát hiện và nếu có thể, loại bỏ nguồn gây ô nhiễm. Nếu số
lượng sinh vật coliform tăng lên hơn 3 trên 100 ml, nguồn cung cấp phải được coi là không
phù hợp để sử dụng mà không khử trùng.
2.3.1.1. Nước trong hệ thống phân phối nước
Nước có chất lượng khơng tốt khi vào hệ thống phân phối có thể bị suy giảm chất
lượng trước khi đến vòi của người tiêu dùng. Cũng giống như sự suy giảm nhiều có thể
xảy ra trong hệ thống phân phối của nguồn cung cấp được khử trùng bằng clo, trong đó có
rất ít hoặc khơng có clo dư trong nước đến tay người tiêu dùng như đối với nguồn cung cấp
khơng được khử trùng, vì vậy về mặt này, cả hai đều ngang hàng với nhau . Các sinh vật
Coliform có thể tiếp cận với nước trong hệ thống phân phối từ các máy bơm tăng áp, từ
các bao bì được sử dụng trong các mối nối chung, hoặc từ các vịi rửa trên các vịi dịch vụ.
Ngồi ra, nước trong hệ thống phân phối có thể bị ơ nhiễm từ bên ngồi, ví dụ, thơng qua
các mối liên kết chéo, kết nối ngược, các bể chứa trung gian và bể chứa nước bị lỗi, các
vòi nước bị hỏng hoặc bị lỗi hoặc rửa trôi, hoặc thông qua việc sửa chữa không cẩn thận
đối với hệ thống đường ống nước sinh hoạt. Mặc dù các sinh vật coliform có nguồn gốc từ
vòi rửa hoặc vật liệu nối của nguồn điện có thể ít hoặc khơng có ý nghĩa vệ sinh, sự xâm
nhập của ô nhiễm vào nước trong hệ thống phân phối từ bên ngồi ít nhất cũng có khả năng
nguy hiểm như việc phân phối nước ban đầu bị ô nhiễm và không được xử lý đầy đủ. Tốt
nhất, tất cả các mẫu được lấy từ hệ thống phân phối, bao gồm cả cơ sở của người tiêu dùng,
phải khơng có vi khuẩn coliform. Trong thực tế, khơng phải lúc nào cũng có thể đạt được
tiêu chuẩn này, do đó, tiêu chuẩn sau đây đối với nước được thu thập trong hệ thống phân

phối được khuyến nghị:
(1) Trong suốt bất cứ năm nào, 95% mẫu không được chứa bất kỳ vi khuẩn coliform
nào trong 100 dặm.
(2) Khơng có mẫu nào được chứa E. coli trong 100 dặm.
(3) Không mẫu nào được chứa nhiều hơn 10 vi khuẩn coliform trên 100 ml.
15


(4) Không được phát hiện vi khuẩn Coliform trong 100 ml của nhiều mẫu hai lần
liên tiếp.
Nếu phát hiện thấy bất kỳ sinh vật coliform nào, hành động tối thiểu cần thiết là lấy
mẫu lại ngay lập tức. Việc phát hiện lặp đi lặp lại từ 1 đến 10 sinh vật coliform trong 100
ml, hoặc số lượng xuất hiện nhiều hơn trong các mẫu riêng lẻ cho thấy rằng vật chất không
mong muốn đang tiếp cận với nước và các biện pháp cần được thực hiện ngay lập tức để
phát hiện và loại bỏ nguồn gây ô nhiễm. Sự hiện diện của nhiều sinh vật coliform trong
nguồn cung cấp đường ống ln gây lo ngại, nhưng các biện pháp ngồi việc lấy thêm mẫu
- có thể được coi là khuyến khích để bảo vệ độ tinh khiết của nước cung cấp cho người tiêu
dùng sẽ phụ thuộc vào điều kiện địa phương. Mức độ nhiễm bẩn có thể lớn đến mức cần
phải tiến hành hành động ngay lập tức, ngay cả trước khi biết kết quả của việc kiểm tra một
mẫu lặp lại. Đây là vấn đề do những người hiểu biết về hồn cảnh địa phương và những
người có trách nhiệm bảo vệ sức khỏe của cộng đồng quyết định.
2.3.2. Nguồn cung cấp cá nhân hoặc công cộng nhỏ
Trong trường hợp việc cung cấp nước cho người tiêu dùng thông qua mạng lưới
phân phối đường ống là không khả thi về mặt kinh tế và nơi phải phụ thuộc vào các giếng,
lỗ khoan và suối riêng lẻ, thì tiêu chuẩn nêu trên có thể khơng đạt được. Tuy nhiên, một
tiêu chuẩn như vậy cần được hướng tới và mọi thứ có thể được thực hiện để ngăn ngừa ơ
nhiễm nước. Bằng các biện pháp tương đối đơn giản, chẳng hạn như loại bỏ các nguồn ô
nhiễm dễ thấy khỏi khu vực lưu vực và bằng cách chú ý đến việc xử lý, lót và che phủ, có
thể giảm số lượng coliform trong nước từ ngay cả một giếng cạn xuống dưới 10 trên 100
ml. Theo nguyên tắc chung, liên tục không đạt được điều này, đặc biệt là nếu E. coli được

tìm thấy nhiều lần, theo nguyên tắc chung, dẫn đến việc cung cấp bị xem xét.
3. Kiểm tra virus
Về mặt lý thuyết, bệnh do vi rút có thể lây truyền qua nước khơng có vi khuẩn
coliform, nhưng bằng chứng kết luận rằng điều này đã xảy ra ít.
Khơng có phương pháp xử lý nước thải nào được chấp nhận chung cho ra nước thải khơng
có vi rút. Mặc dù theo quan điểm này, một số nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng việc xử
lý bùn hoạt tính là tốt hơn so với các bộ lọc nhỏ giọt, nhưng có vẻ như các phương pháp
kết tủa hóa học sẽ được chứng minh là hiệu quả nhất. Với việc sử dụng ngày càng nhiều
nước tái chế làm nước thô cho mục đích uống, tầm quan trọng của việc loại bỏ các chất
hữu cơ bằng cách kết tủa như một phương tiện trực tiếp loại bỏ vi rút cũng như một phương
tiện tăng hiệu quả khử trùng phải được nhấn mạnh.
Virus có thể được phân lập từ nước thơ và từ suối. Enterovirus, reovirus và
adenovirus đã được tìm thấy trong nước, loại đầu tiên được gọi tên là kháng clo nhất. Nếu
khơng có enterovirus trong nước khử trùng bằng clo, thì có thể cho rằng nước đó là an tồn
để uống. Vẫn còn một số chưa chắc chắn về vi rút của bệnh viêm gan truyền nhiễm, vì nó
vẫn chưa được phân lập cho đến nay, nhưng xét về hình thái và khả năng kháng của
enterovirus thì có khả năng là, nếu chúng đã bị bất hoạt, thì vi rút viêm gan cũng sẽ bị bất
hoạt.

16


Một mối quan hệ hàm số mũ tồn tại giữa tốc độ bất hoạt của virus và khả năng oxy
hóa khử. Điện thế oxy hóa khử là 650 mV (được đo giữa điện cực platin và điện cực
calomel) sẽ gây ra sự bất hoạt gần như tức thời ngay cả khi ở nồng độ cao của vi rút. Một
tiềm năng như vậy có thể đạt được ngay cả khi nồng độ clo tự do thấp, nhưng chỉ với nồng
độ clo kết hợp cực cao. Q trình khử hoạt tính oxy hóa này có thể đạt được với một số
chất oxy hóa khác, ví dụ, iốt, ozon, và kali pemanganat, nhưng tác dụng của các chất oxy
hóa sẽ ln bị chống lại nếu giảm các thành phần, chủ yếu là hữu cơ, có mặt. Do đó, mức
độ nhạy cảm của virut đối với các chất khử trùng sẽ phụ thuộc vào từng loại thuốc cũng

như đối với chất khử trùng cụ thể được sử dụng.
Do đó, trong nước có clo tự do, các virut hoạt động thường sẽ vắng mặt nếu khơng
có các sinh vật dạng thù hình. Ngược lại, do sự khác biệt giữa khả năng kháng của các sinh
vật coliform và của vi rút đối với việc khử trùng bằng chất ơxy hóa tăng lên khi tăng nồng
độ các thành phần khử, ví dụ, chất hữu cơ, nên khơng thể giả định rằng sự vắng mặt của
các sinh vật coliform có nghĩa là khơng tự do khỏi các vi rút đang hoạt động (it cannot be
assumed that the absence of viable coliform organisms implies freedom from active
viruses) trong các trường hợp a khơng thể duy trì lượng dư clo tự do. Vì lý do này và vì
quá trình lắng và lọc chậm có thể góp phần loại bỏ vi rút khỏi nước, tầm quan trọng của
các phương pháp xử lý như vậy phải được nhấn mạnh.
Trong thực tế, 0,5 mg/l clo tự do trong một giờ là đủ để bất hoạt vi rút, ngay cả trong
nước đã bị ô nhiễm ban đầu; 0,4 mg /l ôzôn tự do trong 4 phút đã được phát hiện là làm bất
hoạt vi rút, nhưng có lẽ nên điều trị nghiêm ngặt hơn vì khả năng kháng ơzơn của vi rút
viêm gan chưa được biết rõ. Nếu khơng tìm thấy ngay cả một đơn vị hình thành mảng bám
(PFU) của vi rút trong 1 lít nước, thì có thể giả định rằng nước đó là an tồn để uống. Tuy
nhiên, cần phải kiểm tra một mẫu theo thứ tự 10 Iit để có được ước tính chính xác về PFU
ở cấp độ này. Việc kiểm tra như vậy không thể được thực hiện trong các phịng thí nghiệm
kiểm sốt thơng thường, nhưng cần có ít nhất một phịng thí nghiệm ở mỗi quốc gia hoặc
khu vực có khả năng thực hiện kiểm tra vi rút và cũng tiến hành các nghiên cứu sâu hơn
về chủ đề này.
4. Kiểm tra sinh học
Kiểm tra sinh học có giá trị trong việc xác định nguyên nhân gây ra mùi và vị khó
chịu trong nước và kiểm sốt các biện pháp xử lý, giúp giải thích kết quả của các phân tích
hóa học khác nhau và giải thích nguyên nhân gây tắc nghẽn ống phân phối và bộ lọc. Trong
một số trường hợp, nó có thể được sử dụng để chứng minh rằng nước từ nguồn này đã được
trộn với nước từ nguồn khác.
Các phẩm chất sinh học của nước có tầm quan trọng lớn hơn khi nguồn cung cấp
khơng trải qua các q trình lọc và keo tụ thơng thường, vì sự phát triển của vi khuẩn sử
dụng methane trong sinh học ngày càng tăng; Khi đó, chất nhờn trong đường ống có thể
được mong đợi và sự phát triển của các sinh vật nguyên sinh như Plumatella có thể gây ra

khó khăn trong vận hành.
Một số phân tử động vật được tìm thấy trong nguồn nước có thể sống tự do trong
nước, nhưng một số khác như Dreissena và Asellus ít nhiều được gắn chặt vào bên trong
thiết bị và đường ống. Mặc dù bản thân các phân tử động vật này không gây bệnh, nhưng
17


chúng có thể chứa các sinh vật hoặc vi rút gây bệnh trong ruột của chúng, do đó bảo vệ các
mầm bệnh này khỏi bị tiêu diệt bởi clo.
Clo hóa, ở liều lượng thường được sử dụng trong các công trình nước, khơng có
hiệu quả đối với một số loại ký sinh trùng, bao gồm cả nang amip; chúng chỉ có thể được
loại trừ bằng cách lọc hiệu quả hoặc bằng liều lượng clo cao hơn mức có thể chịu đựng
được mà khơng cần khử clo sau đó. Amip có thể được truyền qua đường nước hồn tồn
khơng có vi khuẩn đường ruột; Do đó, kiểm tra bằng kính hiển vi sau khi cô đặc là phương
pháp xác định an tồn duy nhất. Cần có các biện pháp phịng ngừa nghiêm ngặt chống lại
sự tổng hợp ngược và kết nối chéo nếu tìm thấy các nang kỵ khí trong hệ thống phân phối
có chứa nước đã qua xử lý.
Bệnh sán máng có thể được phát hiện bằng cách kiểm tra bằng kính hiển vi tương
tự, nhưng trong mọi trường hợp, khơng có bằng chứng nào cho thấy bệnh này thường lây
lan qua nguồn cung cấp nước máy.
Véc tơ cyclops của phơi Dracunculus medinensis - lồi gây bệnh nhiễm trùng huyết
hoặc bệnh giun Guinea - có thể được tìm thấy trong các giếng lộ thiên ở một số nước nhiệt
đới. Chúng có thể được xác định bằng cách kiểm tra bằng kính hiển vi. Những nguồn cung
cấp giếng như vậy thường được sử dụng chưa qua xử lý, nhưng ký sinh trùng có thể bị loại
trừ tương đối dễ dàng bằng những cải tiến vật lý đơn giản ở dạng vòi nước, hệ thống thoát
nước và tạp dề bao quanh. Để biết thêm thông tin về kiểm tra sinh học và ký sinh trùng lây
lan qua nước, hãy xem Xử lý và Kiểm tra Nước.
5. Kiểm tra phóng xa
5.1 Mức độ phóng xạ trong nước uống
Việc xác định con đường tới hạn mà theo đó phóng xạ được giải phóng có thể tiếp

cận nhóm người có khả năng nhận liều cao nhất đang được quan tâm rất nhiều. Tuy nhiên,
các tiêu chuẩn hoạt động cho dân số nói chung, ở dạng mức độ tập trung, nên được sử dụng
cho các quy trình giám sát thường quy. Các mức độ phóng xạ đưa ra dưới đây dựa trên các
khuyến nghị của Ủy ban Quốc tế về Bảo vệ Phóng xạ (ICRP). Chúng đã được suy ra từ
nồng độ tối đa cho phép trong nước (MPCw) đối với phơi nhiễm nghề nghiệp với các
nuclide tương ứng bằng cách nhân các số liệu về phơi nhiễm tuyến sinh dục hoặc toàn bộ
cơ thể với hệ số 1/100, để làm cho chúng có thể áp dụng cho người tiêu dùng uống nước
thuộc "tổng dân số". Các mức sau được đề xuất:
- Tổng hoạt động alpha 3 pCi /l
- Tổng hoạt động beta 30 pCi /l
Các mức này có thể áp dụng cho giá trị trung bình của tất cả các phép đo hoạt động
thu được trong khoảng thời gian 3 tháng. Tuy nhiên, khi nghi ngờ nguồn cung cấp nước bị
nhiễm phóng xạ đáng kể, các mẫu nước riêng lẻ nên được phân tích phóng xạ. Hơn nữa,
các mẫu đơn lẻ có giá trị cao bất ngờ nên được điều tra ngay lập tức.
Các phương pháp phân tích hoạt động alpha và tổng beta nên được lựa chọn dựa
trên điều kiện địa phương và phối hợp với các cơ quan chức năng thích hợp. Quy trình đo
lường mức độ hoạt động của các hạt nhân phóng xạ cụ thể đã được cơng bố.
18


Độ phóng xạ trong nước uống cần được giữ ở mức tối thiểu, và do đó khuyến cáo
khơng nên xả bừa bãi chất thải phóng xạ vào các nguồn được sử dụng để cung cấp nước
uống. Tuy nhiên, các giá trị được đưa ra bao gồm hoạt độ phóng xạ tự nhiên cũng như bất
kỳ hoạt độ phóng xạ nào có thể đạt đến nước do bụi phóng xạ hoặc sử dụng năng lượng
hạt nhân. Chúng đại diện cho mức dưới mức mà nước có thể được coi là có thể uống được
mà khơng cần trải qua q trình kiểm tra phóng xạ phức tạp hơn, nhưng cần lưu ý những
nhận xét sau:
Hoạt động alpha. Trước khi bắt đầu phân tích, hoạt động của 222Rn và 220Rn phải được
loại bỏ bằng cách sục khí thích hợp cho mẫu nước. Có thể loại trừ sự đóng góp của các sản
phẩm con trong thời gian ngắn của các đồng vị này bằng cách cho phép chúng phân rã và

sau đó đo hoạt tính.
Hoạt động alpha từ 3 pCi /l trở xuống được chấp nhận và không cần kiểm tra thêm,
ngay cả khi tất cả các hoạt động này là do 226Ra. Tuy nhiên, nếu hoạt động vượt quá 3
pCi/l, cần phải phân tích phóng xạ theo quy trình sau:
Độ phóng xa alpha Thủ tục kiểm tra
pCi/l
3-10

I. Cần loại trừ sự đóng góp của các sản phẩm con có tuổi thọ
ngắn là 222Rn và 220 Rn. Nếu hoạt độ còn lại vẫn vượt q 3
pCi /l, thì:
2. Phân tích phóng xạ cho 226Ra nên được thực hiện. Nếu hoạt
độ 226Ra dưới 3 pCi /l, không cần kiểm tra thêm, nhưng nếu
vượt quá 3 pCi / 1, kết quả nên được chuyển đến cơ quan y tế
thích hợp để điều tra thêm.

Nhiều hơn 10

Phân tích phóng xạ tồn diện là cần thiết. Kết quả thu được nên
được chuyển đến cơ quan y tế thích hợp để điều tra thêm

Hoạt động beta. Hoạt động beta từ 30 pCi/l trở xuống được chấp nhận và không cần kiểm
tra thêm, ngay cả khi tất cả của nó là do 90Sr. Tuy nhiên, nếu hoạt động vượt quá 30 pCi/l,
cần phải phân tích phóng xạ theo quy trình sau:
Độ phóng xa Beta Thủ tục kiểm tra
pCi/l
30 đến 100

1. Khoản đóng góp 40K nên được loại trừ. Nếu hoạt độ cịn lại
vẫn vượt q 30 pCi/l, thì:

2. Phân tích phóng xạ cho 90Sr nên được thực hiện. Nếu hoạt
độ của 90Sr dưới 30 pCi/l thì khơng cần kiểm tra thêm, nhưng
nếu vượt quá 30 pCi/l, kết quả nên được chuyển đến cơ quan y
tế thích hợp để điều tra thêm.

100 đến 1000

1. Khoản đóng góp 40K nên được loại trừ.
2. Phân tích phóng xạ cho 90r và 129I nên được thực hiện. Nếu
hoạt động 90Sr dưới 30 pCi/l và hoạt động 129I dưới 100 pCi/l,
19


không cần kiểm tra thêm. Nếu các giá trị này vượt quá, kết quả
phải được tham khảo cơ quan y tế thích hợp để điều tra thêm.
Hơn 1000

Cần phải kiểm tra X quang chi tiết (xác định hóa chất phóng xạ
của 90Sr và soi phổ quang gamma). Kết quả nên được chuyển
đến cơ quan y tế thích hợp để điều tra thêm.

Nếu nghi ngờ rằng 3H có thể đã tiếp cận với nước từ nguồn thải bụi phóng xạ trong
khí quyển từ các nhà máy điện hạt nhân, cần tiến hành một cuộc kiểm tra đặc biệt đối với
hạt nhân phóng xạ này. Nó khơng thể được đo bằng các kỹ thuật được sử dụng trong xác
định beta tổng, và cần phải có các dụng cụ đặc biệt như máy quang phổ tán xạ chất lỏng.
Nếu 3H được phát hiện ở mức 1000 pCi/l trở lên, cần tham khảo ý kiến của các cơ quan y
tế thích hợp.
6. Kiểm tra tính chất hóa lý
6.1. Mục đích
Phân tích hóa học có nhiều ứng dụng trong việc khảo sát nguồn cung cấp nước. Tuy

nhiên, ấn phẩm này chủ yếu liên quan đến việc bảo vệ người sử dụng nguồn cung cấp nước
khỏi các mối nguy hiểm đối với sức khỏe. Do đó, sự chú ý chủ yếu tập trung vào việc phát
hiện và ước tính các chất hóa học độc hại, thuốc trừ sâu bao gồm thuốc trừ sâu, thuốc diệt
cỏ và thuốc diệt nấm đối với các chất hóa học cụ thể có thể ảnh hưởng đến sức khỏe và các
đặc tính ảnh hưởng đến khả năng chấp nhận của nước sử dụng trong sinh hoạt.
Trong khi việc kiểm tra vi khuẩn thường xuyên là cần thiết để kiểm soát vệ sinh
nguồn cung cấp nước uống, thì việc kiểm tra hóa chất ít thường xuyên hơn nhiều; Việc thu
thập mẫu và tần suất lấy mẫu được thảo luận đầy đủ hơn trong Phần 7.
Với mục tiêu khuyến khích sự đồng nhất cao hơn trong các phương pháp thực hiện
kiểm tra tổng quát hơn của nước về các đặc tính vật lý, hóa học và thẩm mỹ, một danh sách
được đưa ra các thử nghiệm thường được thực hiện và trong số một số phương pháp được
khuyến nghị để thực hiện chúng.
6.2. Các chất hóa học độc hại
Một số chất hóa học, nếu có ở một số nồng độ nhất định trong nguồn cung cấp nước
uống, có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe. Các giới hạn cho các chất này phải liên quan
đến lượng nước uống hàng ngày, và các giá trị được đưa ra trong Bảng I dựa trên mức tiêu
thụ trung bình hàng ngày giả định là 2,5 lít của một người đàn ông nặng 70 kg. Các giới
hạn dự kiến đối với một số chất độc hại đã được tính tốn trên cơ sở các dữ liệu về chất
độc có sẵn và ví dụ như gánh nặng cơ thể từ các nguồn thực phẩm và khơng khí khác.
Khơng thể tránh khỏi việc hấp thụ các chất này từ mơi trường, nhưng có thể kiểm sốt được
phần chất này liên quan đến nước uống. Nếu nồng độ trong nước uống cao, thì ảnh hưởng
có thể có của chúng phải được xem xét liên quan đến gánh nặng cơ thể do các nguồn khác
ở địa phương cụ thể gây ra.
Các giới hạn dự kiến đưa ra trong Bảng I cần được xem xét cùng với các ghi chú
giải thích sau đó; họ sẽ được xem xét theo thời gian khi có thêm thơng tin về tính độc hại
trong nước uống của các chất liên quan.
20


Hóa chất


giới hạn trên của nồng Phương pháp ước tính
độ

Arsenic
(As)

0.05 mg/l

(a) Ước lượng Polarographic
(b) Phương pháp phấp thụ quan học nguyên tử
(c) Sử dụng trình tạo Gutzeit

Cadimium 0.01 mg/l
(Cd)

Phương pháp Dithizone

Cyanide
(CN)

0.05

Có thể ước lượng bằng các phương pháp dưới đây
(a) Chuẩn độ bằng bạc nitrat trong dung dịch
ammonacal loãng sử dụng diphenyt cerbezlde như
hấp phụ chỉ báo
(b) Phương pháp so màu: chuyển xyanua thành
cyenogen clorua hoặc cyenogen bromua và kết
hợp với hợp chất amin thơm mềm. chẳng hạn như

dlmedone. pyrazolon hoặc axit sulfanilic.
(c) Phương pháp so màu: emmonium sulfide màu
vàng chuyển cyenlde thành thlocyenate trong
dung dịch kiềm nhẹ; thiocyanat phản ứng định
lượng với sắt để tạo thành thiocyanat sắt có màu.

Chì (Pb)

0.1 mg/l

(a) Ước lượng Polarographic
(b) Phương pháp phấp thụ quan học nguyên tử
(c) Phương pháp so màu

Thủy
0.001 mg/l
ngân (Hg)

(a)Phân tích hoạt tính Neutron
(b) Phương pháp hấp thụ nguyên tử

Selenium
(Se)

Phương pháp so màu sử dụng dung dịch arabic
nhầy, hydroxyl (như Se) amin hydrochloride. au
fur dioxide cuối axit hydrobromic cô đặc.

0.01 mg/l


Arsenic (Thạch tín). Các số liệu cao hơn mức được trích dẫn được tìm thấy ở một
số quốc gia Mỹ Latinh và mức lên đến 0,2 mg/l được cho là khơng gây ra khó khăn. Một
số nghiên cứu dịch tễ học đã gợi ý rằng asen là chất gây ung thư nhưng chưa có bằng chứng
thực sự về khả năng gây ung thư cho con người của asen trong nước uống. Sẽ là khôn
ngoan nếu giữ mức asen trong nước uống càng thấp càng tốt.
Cadmium. Các kết quả của các nghiên cứu về sức khỏe cho thấy rằng một lượng rất
nhỏ của cadnium có thể gây ra độc tính trên thận và ảnh hưởng đến tim mạch. Các cơ quan
dẫn điện của cơ quan động vật bị ảnh hưởng đặc biệt sau khi tiêm một lượng rất nhỏ muối
cadmium. Độc tính của cadmium có thể phụ thuộc vào sự hiện diện của các nguyên tố vi
lượng khác, ví dụ, kẽm và selen. Cadmium có thể có nguồn gốc từ tự nhiên hoặc công
21


nghiệp, hoặc từ các hợp chất cadmium được sử dụng trong sản xuất ống nước nhựa. Mức
được đề xuất là nồng độ thấp nhất có thể đo được một cách thuận tiện.
Xyanua. Khi xem xét các giới hạn đối với xyanua trong nước uống, người ta đã lưu
ý rằng mức tiêu thụ hàng ngày có thể chấp nhận được (ADI) đối với dư lượng hydro xyanua
trong một số thực phẩm xơng khói đã được thiết lập ở mức 0,05 mg mỗi trọng lượng cơ
thể. Lượng xyanua được tìm thấy trong nước là nhỏ và mức đưa ra trong Bảng 1 là để đảm
bảo rằng nguồn nước không bị ô nhiễm quá nặng bởi nước thải công nghiệp và cũng như
việc xử lý nước đã được thực hiện đầy đủ, vì xyanua dễ bị phá hủy bởi quy trình xử lý
thơng thường.
Chì. Mức dự kiến cho chất này đã được tăng từ 0,05 mg/l, như được đưa ra trong
ấn bản thứ hai của Tiêu chuẩn Quốc tế, lên 0,10 mg/l vì mức này đã được chấp nhận ở
nhiều quốc gia và nước đã được tiêu thụ trong nhiều năm mà không rõ ràng tác động xấu.
Rất khó để đạt được mức thấp hơn ở các quốc gia sử dụng ống chì. Nguy cơ khơng đạt
được có thể được giảm bớt bằng cách xử lý nước mềm thích hợp. Các hợp chất chì được
sử dụng làm chất ổn định trong một số ống nhựa và có thể bị rị rỉ ra ngồi. Tổng tải trọng
cơ thể cần được giảm xuống mức mà tại đó có thể duy trì sự cân bằng giữa hấp thụ và đào
thải. Khơng có bằng chứng trực tiếp nào cho thấy sự tích tụ mơ ở mức độ hấp thụ hiện có

là có hại hoặc có khả năng gây hại cho con người. Lượng chì tối đa có thể chấp nhận được
từ thực phẩm và đồ uống đã được đặt dự kiến là 0,005 mg mỗi kg mỗi ngày.
Thủy ngân. Dữ liệu độc chất cho thấy thủy ngân là một chất độc tích lũy. Khơng
thể ước tính lượng tiêu thụ hàng ngày có thể chấp nhận được đối với con người dựa trên
các thơng tin hiện có. Con số được đưa ra liên quan đến các mức được tìm thấy trong nước
tự nhiên.
Selen. Nhiễm độc selen ở người tạo ra các triệu chứng khá khó xác định nhưng có
thể gây bệnh được xác định rõ ở động vật; Tuy nhiên, selen được biết đến là một nguyên
tố vi lượng cần thiết cho một số loài. Các hợp chất Selen đã được chứng minh là bảo vệ
chuột chống lại tác động độc hại của cadmium và cation thủy ngân. Do sự liên kết địa chất
của selen với lưu huỳnh, một giới hạn đã được đặt ra cho nó trong Bảng I.
Ngoài những chất được liệt kê, những chất khác như bari, berili, coban, molypden,
nitrilotriacetate, thiocyanate, thiếc, uranium và vanadi nên được kiểm sốt trong nước
uống. Hiện khơng có đủ thơng tin để có thể đưa ra các giới hạn dự kiến cho các chất này.
Khi các hóa chất, đặc biệt là các hóa chất mới - được sử dụng trong xử lý nước, cần
cẩn thận để đảm bảo rằng việc sử dụng chúng không gây ra nguy cơ độc tính. Nếu các chất
hỗ trợ đơng tụ polyme, chẳng hạn như polyacrylamide, được sử dụng trong xử lý nước
dùng để uống, thì cần phải đảm bảo rằng bất kỳ thành phần độc hại nào, ví dụ: monomer,
được giảm xuống mức an toàn bằng cách nhấn mạnh vào một đặc điểm kỹ thuật đầy đủ
của các hóa chất được sử dụng. Danh sách các chất hỗ trợ đông tụ được phê duyệt với các
thông số kỹ thuật đã được thỏa thuận đã được xuất bản tại Hoa Kỳ bởi Cục Quản lý Thực
phẩm và Dược phẩm và tại Vương quốc Anh bởi Ủy ban Phê duyệt Các chất mới trong xử
lý nước sạch

22


6.3. Thuốc trừ sâu
Thuật ngữ thuốc trừ sâu cũng bao gồm thuốc diệt côn trùng, thuốc diệt cỏ và thuốc
diệt nấm. Thuốc bảo vệ thực vật luôn được xem xét liên tục bởi các cuộc họp chung bởi

FAO/WHO của các nhà hoạt động. Khái niệm về lượng tiêu thụ hàng ngày có thể chấp
nhận được (ADI) đóng vai trị như một hướng dẫn cho việc đánh giá độc tính của dư lượng
thuốc trừ sâu, và trên cơ sở này, một số dư lượng như vậy đã được đánh giá và đánh giá lại
vào năm 1965-1970 và các phát hiện được cơng bố trong các chun khảo của FAO/WHO.
ADI hồn tồn dựa trên bằng chứng độc học. Lượng hóa chất hấp thụ hàng ngày được chấp
nhận được định nghĩa là "lượng tiêu thụ hàng ngày, trong suốt cuộc đời, dường như khơng
có rủi ro đáng kể trên cơ sở tất cả các dữ kiện đã biết vào thời điểm đó".
Mặc dù khái niệm ADI chủ yếu áp dụng cho việc đánh giá các chất hữu cơ trong
thực phẩm, việc ăn vào từ các nguồn có thể bị ơ nhiễm khác cũng cần được tính đến. Kinh
nghiệm cho đến nay ủng hộ quan điểm chung rằng dư lượng thuốc diệt muỗi có thể xuất
hiện trong nguồn cung cấp nước cộng đồng, chủ yếu là khoảng vài microgam/lít, chỉ đóng
góp tối thiểu vào tổng lượng thuốc diệt giun sán hàng ngày cho người dân được phục vụ.
Việc ô nhiễm nước ngầm hoặc nước bề mặt với thuốc trừ sâu có thể là kết quả của việc áp
dụng có chủ đích (ví dụ, để kiểm sốt cỏ dại hoặc cơn trùng thường xun), xả nước thải
công nghiệp hoặc phun cặn chất lỏng, nhiễm bẩn ngẫu nhiên của nguồn bề mặt hoặc thấm
hoặc rửa trôi do mưa từ đất nông nghiệp đã qua xử lý. Sự ô nhiễm như vậy cần được ngăn
chặn càng nhiều càng tốt vì ảnh hưởng của thuốc trừ sâu đối với hiện tượng nhiễm độc sinh
học của nước và nguy cơ tích tụ trong chuỗi thực phẩm. Vì lý do này, các biện pháp bảo
vệ rộng rãi cho các khu vực lưu vực, các dòng cấp nước và các nguồn nước dưới đất được
khuyến nghị.
Kiến thức về các trường hợp ô nhiễm thực tế của nước uống có dư lượng thuốc bảo
vệ thực vật và các trường hợp đã xảy ra là điều không mong muốn. Nếu cần thiết phải sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật để xử lý có chủ đích nguồn nước uống, thì phải có thơng tin
đầy đủ để có thể đánh giá rủi ro đối với chất lượng nước do tồn dư và có thể ước tính được
mức độ tiềm ẩn của dư lượng này đối với hiện tượng sinh học nước. Các điều kiện mà dư
lượng biến mất khỏi nguồn nước và hiệu quả của các phương pháp lọc nước phải được biết
trước khi có thể đề xuất giới hạn cho phép đối với dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong
nước uống. Nồng độ rất thấp của một số loại thuốc trừ sâu gây ra những thay đổi cảm quan
trong nước, do đó nó không được người tiêu dùng chấp nhận, bất kể nguy cơ độc tính đã
biết nào. Các phương pháp xử lý nước thông thường không loại bỏ được tất cả dư lượng

thuốc trừ sâu, nhưng các quy trình xử lý đặc biệt có thể loại bỏ một số dư lượng đó. Cần
có ít nhất một trung tâm ở mỗi quốc gia hoặc khu vực có khả năng thực hiện các cuộc điều
tra về dư lượng thuốc trừ sâu trong nước uống.
6.4. Những hóa chất đặc biệt có thể ảnh hưởng đến sức khỏe
6.4.1. Flouride
Fluorid xuất hiện tự nhiên trong nhiều nguồn cung cấp nước cơng cộng và nếu có
q nhiều, có thể làm phát sinh tình trạng nhiễm fluor ở răng ở một số trẻ em. Khi xuất
hiện ở nồng độ cao hơn nhiều, chúng cuối cùng có thể gây ra bệnh nhiễm fluor tích lũy đặc
23


hữu dẫn đến tổn thương xương ở cả trẻ em và người lớn. Khi đánh giá mức độ an toàn của
nguồn cung cấp nước liên quan đến nồng độ florua, tổng lượng florua hàng ngày của cá
nhân phải được xem xét. Ngồi những thay đổi về điều kiện khí hậu, ai cũng biết rằng, ở
một số khu vực, thực phẩm chứa florua là một phần quan trọng của chế độ ăn uống. Những
sự kiện này cần được ghi nhớ trong việc quyết định nồng độ florua được phép trong nước
uống. Florua cũng được coi là một thành phần thiết yếu của nước uống, đặc biệt liên quan
đến việc ngăn ngừa sâu răng ở trẻ em. Nếu nồng độ florua trong nước uống của một cộng
đồng nhỏ hơn 0,5 mg/l, tỷ lệ sâu răng có khả năng cao. Để ngăn ngừa sự phát triển của sâu
răng ở trẻ em, một số nguồn cung cấp nước cộng đồng được fluor hóa để mang lại nồng độ
florua trong phạm vi được trình bày trong Bảng 2. Các số liệu trong Bảng 2, được điều
chỉnh từ các số liệu được đưa ra trong ấn bản năm 1962 của Public Health Tiêu chuẩn nước
uống phục vụ, đưa ra các giới hạn kiểm soát được khuyến nghị đối với nồng độ của fluorid
(biểu thị bằng F) trong nước uống cho các phạm vi khác nhau của nhiệt độ khơng khí trung
bình hàng ngày tối đa hàng năm. Nhiệt độ được sử dụng với Bảng 2 phải dựa trên dữ liệu
thu được ở mức tối thiểu năm năm.

Các phương pháp được khuyến nghị để ước tính fluor trong nước là:
(a) phương pháp so màu sử dụng thuốc thử zirconium-alizarin (màu, độ đục, clo và
phốt phát phải được loại bỏ hoặc mẫu phải được chưng cất trước khi kiểm tra);

(b) phương pháp điện hóa sử dụng điện cực Orion; và
(c) phương pháp so màu SPADNS.
6.4.1. Nitrat
Trong một số trường hợp, nitrat đã được chứng minh là gây nguy hiểm cho sức khỏe
trẻ sơ sinh và có thể cả trẻ lớn hơn, nếu chúng có trong nước uống ở nồng độ lớn hơn 45
mg/l (được biểu thị bằng NO3) vì sau khi khử thành nitrit, chúng có thể làm phát sinh
chứng methaemoglobinaemia. Do một lượng nhỏ nước mà trẻ sơ sinh tiêu thụ trực tiếp như
nước uống, hoặc gián tiếp dùng làm thức ăn chế biến sẵn, khơng khó để tìm một nguồn
nước thay thế có hàm lượng nitrat thấp cho bộ phận dân cư dễ bị tổn thương này. Mối quan
tâm gần đây đã được bày tỏ về khả năng hình thành nitrosamine in vivo. Nitrosamine có
24


thể phát sinh như là sản phẩm của phản ứng giữa các nitrit ăn vào, một số trong số đó cũng
có thể được hình thành do tác động của vi khuẩn tiêu diệt nitrat ăn vào từ các nguồn khác
nhau bao gồm nước, và các amin bậc hai hoặc bậc ba có trong thực phẩm. Do khả năng
gây ung thư của chúng, nitrosamine có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe của con người.
Cuối cùng có thể trở nên cần thiết để giảm mức độ nitrat trong nước nếu phát hiện ra rằng
nguồn này đóng góp đáng kể vào mối nguy đối với sức khỏe con người phát sinh từ
nitrosamine. Từ quan điểm độc chất học, các cân nhắc áp dụng đối với nitrat cũng áp dụng
cho bất kỳ nitrit nào có trong nước uống.
Các phương pháp được khuyến nghị để ước lượng nitrat trong nước là:
(a) phương pháp axit phenoldisulfonic;
(b) phương pháp brucine;
(c) khử với một cặp kẽm-đồng, sau đó là Nesslerization, trực tiếp hoặc sau
khi chưng cất và
(d) phương pháp axit salixylic.
6.4.3. Hydrocacbon thơm đa nhân
Một số hydrocacbon thơm đa nhân (PAR) được biết là chất gây ung thư và sự hiện
diện của chúng trong nguồn cung cấp nước và hậu quả là nguy cơ tiềm ẩn đối với con người

đã được ghi nhận. Nồng độ của sáu hợp chất PAH đại diện (ftuoranthene, 3,4benzftuoranthene, 11,12-benzftuoranthene, 3,4-benzpyrene, 1,12-benzperylene, và indno
[1,2,3-cd] pyrene) do đó nói chung khơng được vượt q 0,2 µg/l. Nồng độ này có thể được
đo bằng phương pháp chiết lỏng-lỏng đã sửa đổi. Nồng độ cao hơn cho thấy ơ nhiễm cịn
tồn tại và xử lý không đầy đủ.
Mặc dù không cần thiết phải kiểm tra định kỳ nước ngầm cho PAH, nhưng nước
mặt đã qua xử lý nên được kiểm tra định kỳ. Do đó, ít nhất một trung tâm có khả năng thực
hiện các cuộc kiểm tra về PAH đối với nước uống là mong muốn ở mỗi quốc gia hoặc khu
vực. Cần nghiên cứu sâu hơn về sự hiện diện và tầm quan trọng của chúng trong nước
uống.
6.5. Các chất và đặc tính ảnh hưởng đến khả năng chấp nhận của nước
Một số chất có trong nước và một số đặc tính nhất định của nước, mặc dù không
gây nguy hiểm cho sức khỏe của người sử dụng nước, nhưng có thể ảnh hưởng đến khả
năng chấp nhận của nó như một nguồn cung cấp sinh hoạt. Danh sách các chất và đặc điểm
như vậy được đưa ra trong Bảng 3, cùng với chỉ dẫn về các tác dụng không mong muốn
mà chúng có thể tạo ra, các số liệu - nếu phù hợp với mức mong muốn cao nhất và mức tối
đa cho phép được khuyến nghị, và một số phương pháp được khuyến nghị để sử dụng trong
phát hiện và ước lượng . Tất cả các phương pháp được đưa ra trong ấn bản thứ mười hai
của Phương pháp tiêu chuẩn để kiểm tra nước và nước thải có thể được coi là đạt yêu cầu.
6.6. Kiểm tra tổng quát về các đặc tính vật lý, hóa học và thẩm mỹ của nước
Mặc dù ấn phẩm này chủ yếu liên quan đến việc kiểm soát vệ sinh đối với nguồn
cung cấp nước, người ta cho rằng khôn ngoan khi đưa vào danh sách các thử nghiệm thường

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×