Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Luan van thạc sĩ luật học pháp luật về bảo vệ rừng từ thực tiễn tại huyện mường nhé, tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.71 KB, 93 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Rừng là tài nguyên vô cùng quý giá nhưng đang đứng trước nguy cơ suy
thoái trầm trọng. Suy thoái rừng dẫn đến suy thối tài ngun, sinh thái và đồng nghĩa
với nó là nguy cơ khủng hoảng an ninh mơi trường. Chính vì vậy, vấn đề bảo vệ
rừng từ lâu đã được Nhà nước quan tâm và điều chỉnh bằng các văn bản quy phạm
pháp luật. Luật Lâm nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2017,
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2019, thay thế cho Luật Bảo vệ và
phát triển rừng (BV&PTR) năm 2004 đã đánh dấu những tiến bộ rất đáng kể đối với
nhiệm vụ quản lý, bảo vệ, phát triển và đảm bảo hưởng lợi từ rừng. Việc triển khai
thực hiện Luật Lâm nghiệp 2017 vừa là thách thức, vừa là cơ hội cho quản lý,
BV&PTR. Đó là thách thức vì nếu khơng vượt qua được thì mất rừng, suy giảm
chất lượng rừng vẫn tiếp tục xảy ra. Đó cũng là cơ hội vì nếu thực hiện tốt thì rừng
nước ta ngày càng phủ rộng, chất lượng hơn, đồng thời mang lại cả lợi ích kinh tế,
xã hội và mơi trường cao hơn. Việc nghiên cứu những quy định của Luật Lâm
nghiệp về bảo vệ rừng từ đó nhận xét, đánh giá thực tiễn áp dụng, tìm ra nguyên
nhân của những tồn tại đó để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng giai đoạn hiện nay là một việc làm
hết sức cần thiết.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến suy giảm tài nguyên rừng, song nhìn chung
nguyên nhân chủ yếu là tình trạng khai thác rừng quá mức và phá rừng làm nương
rẫy của con người, đặc biệt là tại các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa - nơi người
dân có đời sống kinh tế khó khăn, nhận thức về vấn đề bảo vệ rừng chưa cao. Huyện
Mường Nhé, tỉnh Điện Biên là một huyện miền núi nghèo, được thành lập sau khi
chia tách từ tỉnh Lai Châu cũ từ năm 2004 theo Nghị quyết số 22/2003/QH11 ban
hành ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội khóa XI về việc chia tách và điều
chỉnh địa giới hành chính các tỉnh Lai Châu, Đắk Lắk, Cần Thơ và Lào Cai. Với

1



tổng diện tích đất lâm nghiệp 152.766,6 ha (chiếm 97,07% diện tích tự nhiên tồn
huyện) trong đó diện tích có rừng là 72.555,05 ha, diện tích đất trống quy hoạch cho
lâm nghiệp là 80.211,55 ha, độ che phủ đạt 46,1%, Mường Nhé là huyện có diện
tích rừng lớn nhất ở tỉnh Điện Biên, đặc biệt khu bảo tồn thiên nhiên (BTTN) Mường
Nhé là một trong những khu bảo tồn lớn về đa dạng sinh học của khu vực Tây Bắc.
Tuy nhiên trong những năm qua, tình trạng di dịch cư tự do, đốt nương làm rẫy, phá
rừng trái phép đã và đang đe dọa nghiêm trọng tới diện tích rừng và tính đa dạng
sinh học của các cánh rừng Mường Nhé. Những bất cập trong công tác bảo vệ phát
triển rừng của chính quyền địa phương và các lực lượng chức năng cùng với việc
khai thác rừng bừa bãi đang có xu hướng gia tăng đã dẫn đến tài nguyên rừng của
địa phương này đứng trước nguy cơ suy thoái nghiêm trọng. Thơng qua việc tìm
hiểu về thực tiễn thực hiện pháp luật đối với một địa phương miền núi đặc thù về tài
nguyên rừng, nghiên cứu về nhận thức của người dân ở vùng sâu vùng xa chúng ta
có thể tìm ra các biện pháp thích hợp để nâng cao nhận thức của người dân, từ đó
mới nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng. Bởi vậy nghiên cứu về
thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng ở huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên là
cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu pháp luật về bảo vệ rừng.
Xuất phát từ yêu cầu trên, tác giả chọn đề tài "Pháp luật về bảo vệ rừng từ
thực tiễn tại huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên" làm luận văn thạc sĩ luật học, với
mong muốn góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ
rừng ở địa phương này nói riêng cũng như trên phạm vi cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu về pháp luật bảo vệ rừng đã được nhiều nhà luật học quan
tâm qua các thời kỳ với những góc độ tiếp cận khác nhau. Các cơng trình nghiên
cứu quan trọng như: Luận án tiến sĩ luật học với đề tài "Quản lý nhà nước bằng
pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng" của tác giả Hà Công Tuấn, năm 2006, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Luận án tiến sĩ luật học với đề tài: " Hoàn
thiện pháp luật về quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam hiện nay" của tác

2



giả Nguyễn Thanh Huyền năm 2012, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội Hà Nội;
Luận án tiến sĩ luật học với đề tài "Phòng ngừa tội vi phạm các quy định về khai
thác và bảo vệ rừng trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên" của tác giả Lê Văn Công,
năm 2018, Học viện Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh….
Vấn đề pháp luật về bảo vệ rừng cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu ở cấp
độ luận văn thạc sĩ như: Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài "Bảo vệ tài nguyên
rừng bằng pháp luật hình sự Việt Nam" của tác giả Bạch Xuân Hòa năm 2014,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật học "Pháp luật về bảo
vệ tài nguyên rừng ở Việt Nam" của tác giả Phạm Thị Thủy, năm 2014, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện cơ chế pháp lý về
xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng ở nước ta hiện
nay" của tác giả Nguyễn Thị Tiến, năm 2010, Trường Đại học Luật Hà Nội; Luận
văn thạc sĩ luật học "Tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong
pháp luật hình sự Việt Nam:luận văn thạc sĩ luật học" của tác giả Hầu Tuyết Ngân,
năm 2017, Trường Đại học Luật Hà Nội; …
Bên cạnh đó cũng có nhiều bài viết nghiên cứu của các tác giả như: "Một số
khó khăn, vướng mắc khi áp dụng các quy định về quản lý, khai thác và bảo vệ
rừng", của Cao Anh Đức đăng trên tạp chí Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên
đề tháng 6/2010; "Quyền tài sản của chủ rừng đôi điều bàn luận", của Nguyễn
Thanh Huyền, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10/2011; "Nghiên cứu
một số quy định pháp luật về bảo vệ và phát triển thực vật, động vật hoang dã ở
Việt Nam", của Nguyễn Thanh Huyền, đăng trên Tạp chí Nơng Nghiệp và Phát triển
nơng thơn (NN&PTNT), tháng 6/2011….
Các cơng trình nghiên cứu khoa học nêu trên là cơ sở quan trọng để sử
dụng làm tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu về pháp luật bảo vệ
rừng; là tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp nghiên cứu, xem xét, sửa đổi, bổ
sung những quy định của pháp luật có liên quan đến bảo vệ rừng đồng thời cũng là
tài liệu tham khảo cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân, đặc biệt là ở địa phương có


3


diện tích rừng nghiên cứu, xây dựng, áp dụng có hiệu quả các giải pháp thực hiện
quy định về khai thác và bảo vệ rừng trong thời gian tới. Tuy nhiên, sau khi tìm hiểu
tác giả nhận thấy hầu hết các cơng trình đều tập trung nghiên cứu pháp luật bảo vệ
rừng trên bình diện cơ sở lý luận chung, trên địa bàn cả nước hoặc nếu nghiên cứu
về pháp luật bảo vệ rừng ở địa phương thì cũng được xem xét trên các khía cạnh cụ
thể như: pháp luật về bảo vệ rừng trong lĩnh vực hình sự, quản lý nhà nước bằng
pháp luật bảo vệ rừng... Các công trình nghiên cứu nói trên đều nghiên cứu trên cơ
sở quy định pháp luật của Luật BV&PTR năm 2004 cùng với các văn bản hướng
dẫn thi hành. Chưa có cơng trình nào nghiên cứu cụ thể về thực tiễn thực hiện pháp
luật bảo vệ rừng gắn với một địa phương cụ thể, có đặc thù về tài nguyên rừng trên
cơ sở quy định của Luật Lâm nghiệp - cơ sở pháp lý hoàn thiện và thống nhất về
bảo vệ rừng hiện nay. Hơn nữa, cùng với sự ra đời của Hiến pháp 2013, các bộ luật
quan trọng liên quan đến công tác bảo vệ rừng cũng đã được ban hành mới, cụ thể
là Luật Đất Đai 2013, Luật Bảo vệ mơi trường 2014, Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật
Dân sự 2015… Tình hình kinh tế - xã hội, bối cảnh quốc tế, những vấn đề về biến
đổi khí hậu, suy thối mơi trường trong giai đoạn mới cũng đặt ra những thách thức
lớn cho công tác bảo vệ rừng, thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng. Nghiên cứu các
quy định của pháp luật về bảo vệ rừng một cách tổng thể, trong đó làm rõ trách
nhiệm của Nhà nước, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân là chủ rừng trong việc
thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng, những nội dung cơ bản của pháp luật bảo vệ
rừng, yêu cầu đặt ra trong công tác thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng hiện nay…
sẽ đem lại cái nhìn rõ nét về tình hình thực hiện pháp luật bảo vệ rừng, phát hiện
những vấn đề còn vướng mắc, từ đó xây dựng giải pháp phù hợp nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay. Huyện
Mường Nhé, tỉnh Điện Biên là địa bàn có diện tích rừng tự nhiên lớn nhất tỉnh Điện
Biên, hiện nay đang phải đối mặt những nguy cơ, thách thức do quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, tình trạng di dịch cư tự do, những hạn chế trong công tác bảo vệ

rừng đem lại, nhưng cho đến nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập về thực

4


tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng ở địa phương này. Đây cũng chính là lý do
tác giả xây dựng và thực hiện đề tài "Pháp luật về bảo vệ rừng từ thực tiễn tại
huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên" làm luận văn thạc sĩ luật học.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về rừng và vai
trò của rừng, sự cần thiết phải bảo vệ rừng bằng pháp luật. Nghiên cứu những vấn
đề mang tính lý luận về pháp luật bảo vệ rừng và thực hiện pháp luật về bảo vệ
rừng, đồng thời nghiên cứu, đánh giá tình hình, thực trạng và phân tích ngun nhân
của thực trạng thực hiện pháp luật pháp về bảo vệ rừng trên địa bàn huyện Mường
Nhé, tỉnh Điện Biên để từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh và
đảm bảo thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng ở huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên
nói riêng và cả nước nói chung.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vào các đối tượng sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về rừng và vai trò của rừng, bảo
vệ rừng bằng pháp luật, nội dung pháp luật bảo vệ rừng, khái lược quá trình phát
triển của pháp luật về bảo vệ rừng từ năm 1945 cho đến nay và đánh giá những yếu
tố có ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, nghiên cứu về điều kiện tự nhiện, kinh tế xã hội và hiện trạng rừng
ở huyện Mường Nhé, phân tích quá trình thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng ở địa
phương này từ đó đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng; đánh giá
những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân…
Thứ ba, trên cơ sở đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng ở
huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên đề xuất định hướng và một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng ở huyện Mường Nhé,

tỉnh Điện Biên nói riêng và cả nước nói chung.
Về phạm vi nghiên cứu của đề tài, do thời gian hạn hẹp và yêu cầu về nội
dung, dung lượng của luận văn thạc sĩ cũng như đặc thù của việc thực hiện pháp

5


luật phụ thuộc vào tình hình kinh tế- chính trị- xã hội ở mỗi giai đoạn là khác nhau,
trong khi đề tài lại là một vấn đề khá rộng, phức tạp, địi hỏi phải có kiến thức tổng
hợp và hiểu biết thực tế sâu rộng, nên tác giả chỉ dừng lại ở việc đề cập đến thực
tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng trên địa bàn huyện Mường Nhé, tỉnh Điện
Biên kể từ khi Luật Lâm nghiệp có hiệu lực thi hành.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, Luận văn chủ yếu dựa
trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác - Lênin quan điểm duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, ngồi ra cịn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
khoa học khác như:
- Phương pháp phân tích lý luận được dùng trong phân tích các vấn đề lý
luận về bảo vệ rừng và pháp luật về bảo vệ rừng.
- Phương pháp thống kê và phân tích tổng hợp; Bảng biểu; Phương pháp
phân tích, đối chiếu; Phương pháp so sánh, tổng hợp số liệu để nghiên cứu thực tiễn
thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng trên địa bàn huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên.
- Sử dụng phương pháp suy luận, quy nạp, tổng hợp để nghiên cứu các giải
pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng trên địa bàn huyện
Mường Nhé, tỉnh Điện Biên.
6. Kết quả và ý nghĩa nghiên cứu
Đây là đề tài đầu tiên về thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng trên
địa bàn huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên được nghiên cứu theo định hướng ứng
dụng. Những đóng góp của đề tài về mặt khoa học cũng như thực tiễn:
Về mặt nghiên cứu khoa học: Luận văn đã khái quát một cách đầy đủ, có hệ

thống và khoa học những vấn đề lý luận về bảo vệ rừng, pháp luật về bảo vệ rừng,
vai trò của pháp luật về bảo vệ rừng và những yêu cầu đặt ra đối với công tác thực
hiện pháp luật về bảo vệ rừng theo quy định của Luật Lâm nghiệp. Luận văn cung
cấp những cơ sở khoa học và những vấn đề lý luận cần thiết cho người nghiên cứu
pháp luật về bảo vệ rừng cũng như bất kỳ ai quan tâm đến vấn đề bảo vệ rừng và
pháp luật về bảo vệ rừng.

6


Về mặt thực tiễn: Luận văn nghiên cứu sâu về việc thực hiện pháp luật về
bảo vệ rừng trên một địa bàn cụ thể là huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên với những
nét đặc thù riêng biệt nhất về giá trị của hệ sinh thái rừng, vì vậy, về mặt thực tiễn
trên cơ sở chỉ ra những tồn tại hạn chế và nguyên nhân về mặt pháp luật và việc
thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng luận văn sẽ đề xuất những giải pháp tối ưu nhất,
phù hợp nhất nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về bảo vệ rừng tại huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ rừng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ rừng và thực tiễn thực hiện ở
huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bảo vệ rừng từ thực tiễn huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên.

7


Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ RỪNG
1.1. Một số vấn đề về bảo vệ rừng
1.1.1. Rừng và vai trò của rừng
1.1.1.1. Khái niệm rừng
Rừng là một bộ phận quan trọng của hệ sinh thái tự nhiên, có vai trị vơ
cùng quan trọng đối với mơi trường tự nhiên cũng như đối với đời sống của con
người. Rừng là tài nguyên sinh vật và là nguồn sống chính của lồi người, nền tảng
của mọi nền văn minh trong lịch sử phát triển của nhân loại. Tài nguyên rừng đã có
lịch sử phát triển lâu dài nhưng những hiểu biết về rừng chỉ mới thực sự có được từ
đầu thế kỷ thứ XIX. Rừng được biết đến như là nơi cung cấp những nhu cầu thiết
yếu phục vụ cuộc sống của của con người. Lịch sử càng phát triển, những khái niệm
về rừng được tích lũy, hồn thiện thành những học thuyết về rừng. Dựa trên những
cách tiếp cận khác nhau, các nhà khoa học đưa ra những khái niệm khác nhau về rừng.
Từ góc độ khoa học lâm nghiệp, năm 1930 Morozo đã đưa ra khái niệm:
"Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một phạm vi khơng
gian nhất định ở mặt đất và trong khí quyển. Rừng chiếm phần lớn bề mặt trái đất
và là một bộ phận của cảnh quan địa lý". Năm 1952, M.E.Tcachenco đưa ra khái
niệm về rừng như sau: "Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa lý, trong đó bao
gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ, động vật và vi sinh vật. Trong quá
trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và ảnh hưởng lẫn nhau
với hoàn cảnh bên ngoài" [Dẫn theo: 29, tr. 14].
Từ góc độ pháp luật, theo nghị định thư Tokyo năm 1997 thì định nghĩa về
rừng được xác định theo các tiêu chí: Một là, diện tích tối thiểu là 0,05 -0,01 ha; Hai
là, tỷ lệ che phủ tầng tán tối thiểu là 10 - 30%; Ba là, chiều cao tiềm năng tối thiểu
là 2-5m [Dẫn theo: 29, tr. 16].
Theo quy định của Luật BV&PTR năm 2004 thì "Rừng là một hệ sinh thái
bao gồm quần thể thực vật rừng, động vật rừng, vi sinh vật rừng, đất rừng và các

8



yếu tố mơi trường khác, trong đó cây gỗ, tre nứa hoặc hệ thực vật đặc trưng là thành
phần chính có độ che phủ của tán rừng từ 0,1 trở lên. Rừng gồm rừng trồng và rừng
tự nhiên trên đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng" (Khoản 1
Điều 3).
Luật Lâm nghiệp năm 2017 đưa ra quy định về rừng với sự sửa đổi, bổ sung
về tiêu chí xác định rừng như sau: Rừng là một hệ sinh thái bao gồm các loài thực
vật rừng, động vật rừng, nấm, vi sinh vật, đất rừng và các yếu tố mơi trường khác,
trong đó thành phần chính là một hoặc một số loài cây thân gỗ, tre, nứa, cây họ cau
có chiều cao được xác định theo hệ thực vật trên núi đất, núi đá, đất ngập nước, đất
cát hoặc hệ thực vật đặc trưng khác; diện tích liên vùng từ 0,3 ha trở lên; độ tàn che
từ 0,1 trở lên (Khoản 3 Điều 2 Luật Lâm nghiệp).
Như vậy có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm rừng, nhưng hầu hết
các khái niệm này đều được xây dựng dựa vào tiêu chí về phạm vi khơng gian, hệ
thống sinh vật và cảnh quan địa lý. Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt
Nam thì khái niệm rừng được xây dựng một cách khái quát với đầy đủ các thành
phần hệ sinh thái rừng bao gồm cả thực vật, động vật, vi sinh vật rừng, đất rừng và
các yếu tố môi trường khác. Đối với cây gỗ, tre nứa, thực vật hoặc hệ thực vật đặc
trưng phải thỏa mãn điều kiện về độ tàn che từ 0,1 ha trở lên, diện tích liên vùng từ
0,3 ha trở lên mới được xác định là rừng.
1.1.1.2. Vai trò của rừng
Trong hệ sinh thái tự nhiên, rừng là hệ sinh thái có vai trị vơ cùng quan trọng
đối với đời sống con người. Vai trò của rừng được thể hiện qua các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, rừng có vai trò quan trọng trong việc ổn định và bảo vệ môi
trường sống của con người.
Rừng không chỉ là một bộ phận quan trọng trong hệ sinh thái mà cịn có vai
trị giữ vững sự ổn định của khí hậu, mơi trường đất, nước. Với độ che phủ lớn,
rừng có tác dụng điều hịa khí hậu tồn cầu thơng qua việc giảm lượng nhiệt chiếu
từ mặt trời xuống trái đất, duy trì và điều hịa lượng carbon trên trái đất do vậy rừng


9


có tác dụng trực tiếp đến sự biến đổi khí hậu tồn cầu. Các loại thực vật sống trong
rừng có khả năng tích trữ lượng carbon trong khí quyển, vì vậy sự tồn tại của thực
vật rừng cũng như hệ sinh thái rừng có vai trị rất quan trọng trong việc chống lại
hiện tượng nóng dần lên của trái đất. Mối quan hệ giữa rừng và biến đổi khí hậu rất
phức tạp. Các khu rừng một mặt có thể làm giảm biến đổi khí hậu bằng cách hấp
thu carbon, mặt khác nếu rừng bị suy thoái hoặc phá hủy sẽ dẫn đến biến đổi khí
hậu nhanh và mạng hơn.
Rừng cịn có vai trị giữ đất, bảo vệ đất. Ở những nơi có rừng, đất ln được
bảo vệ vì rừng hạn chế hiện tượng bào mòn, sạt lở, nhất là ở những nơi có địa hình
dốc, lớp đất mặt khơng bị mỏng giữ được hệ thống vi sinh vật và các khống, chất
hữu cơ có trong đất. Ở những nơi rừng bị phá hủy thì đất dần bị thối hóa diễn ra
mãnh liệt và nhanh chóng, khiến cho các vùng đất này hình thành khu đất trống, đồi
trọc, trơ sỏi đá, mất dần tính giữ nước, độ chua tăng cao, thiếu dinh dưỡng ảnh
hưởng lớn đến các sinh vật. Hiện tượng bào mịn, rửa trơi cũng diễn ra nhanh, đất
khơng cịn độ bám dễ bị sạt lở. Hiện nay nguồn tài nguyên đất đặc biệt là đất rừng
đang ngày càng bị suy giảm do đó cần phải có biện pháp khai thác và sử dụng hợp lí
nguồn đất và đất rừng để bảo vệ và phát huy tối đa tiềm năng của tài ngun này.
Một vai trị khơng kém phần quan trọng của rừng là bảo vệ nguồn nước, chống
lũ lụt, làm giảm ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu ở Việt Nam cho rằng lưu lượng dịng
chảy mặt tại nơi có rừng thấp hơn từ 2,5 đến 27 lần so với các khu vực canh tác nông
nghiệp [Dẫn theo: 29, tr. 36]. Thêm vào đó, rừng tự nhiên có tác dụng tốt hơn so với
rừng trồng trong việc giảm dòng chảy mặt, nguyên nhân là do rừng trồng có lớp thảm
mục ít và đã bị cơ giới hóa. Đây là yếu tố quan trọng của rừng trong việc ngăn chặn
và làm giảm tác động của các cơn lũ. Rừng còn là một hệ thống rào chắn tự nhiên,
chống lại hiện tượng cát bay, cát lấn, bảo vệ các vùng đất nội địa và hệ thống đê biển.
Thứ hai, rừng góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế
Rừng vừa là yếu tố bảo vệ môi trường nhưng cũng là một thành phần kinh

tế quan trọng. Với giá trị kinh tế đặc biệt, rừng đóng góp cho nền kinh tế của các

10


quốc gia trên nhiều phương diện, đặc biệt trong lĩnh vực cung cấp gỗ cho công
nghiệp chế biến và xuất khẩu. Rừng là nơi cung cấp nguồn dược liệu tự nhiên để
chăm sóc sức khỏe và đáp ứng một phần nhu cầu về thực phẩm cho con người. Tổ
chức y tế thế giới WHO đánh giá là 80% dân số các nước đang phát triển dùng lâm
sản ngoài gỗ để chữa bệnh, làm thực phẩm bồi bổ sức khỏe. Rừng cịn có giá trị du
lịch sinh thái -loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa gắn với giáo
dục mơi trường, đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham
gia tích cực của cộng đồng địa phương. Du lịch sinh thái gắn liền với các vườn quốc
gia, khu BTTN, những địa điểm có cảnh quan đặc biệt.Du lịch sinh thái là một dịch
vụ góp phần nâng cao đời sống tinh thần và vật chất cho người dân địa
phương.Thông qua du lịch sinh những người dân địa phương nhận thức được giá trị
do rừng mang lại họ sẽ gắn bó với rừng hơn, tích cự hơn trong cơng tác xây dựng và
phát triển rừng bền vững.
Thứ ba, rừng góp phần ổn định và giữ vững đời sống xã hội
Đối với đời sống của con người, rừng đem lại một giá trị xã hội to lớn đối
với người dân sống gần rừng và cả những người ở khu vực thành thị. Đối với người
dân sống gần rừng, hệ sinh thái rừng với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú,
đa dạng góp phần giải quyết nạn thiếu lương thực làm ổn định tình hình xã hội, giữ
an ninh và phát triển đời sống cho người dân. So với các lĩnh vực nông nghiệp, ngư
nghiệp hay cơng nghiệp và dịch vụ thì rừng mang lại nguồn thu nhập thường xuyên
và thiết thực hơn, đồng thời còn tạo một số lượng việc làm lớn quanh năm cho
người dân sống gắn bó với rừng. Trong lĩnh vực văn hóa, rừng góp phần bảo tồn
những kiến thức bản địa của người dân về gây trồng, chế biến, chữa bệnh bằng cây
thuốc tự nhiên, các ngành nghề thủ cơng mĩ nghệ, giữ gìn các giá trị văn hóa của
cộng đồng của các dân tộc. Đối với khu vực thành thị, rừng cũng góp phần tạo cơng

ăn việc làm cho các nhà máy xí nghiệp sản xuất, chế biến dùng những sản phẩm có
từ rừng, cung cấp các dịch vụ giải trí, vui chơi cho người dân thành thị; đa dạng hóa
các sản phẩm cơng nghiệp cho các nhà máy xí nghiệp...q đó góp phần phát triển
kinh tế, các điều kiện phúc lợi xã hội của người dân cũng được nâng cao hơn.

11


Đối với sự phát triển giáo dục và khoa học, tài nguyên rừng bao gồm động
vật, thực vật rừng cũng được con người sử dụng vào nghiên cứu khoa học và cơng
tác giảng dạy. Các lồi động vật, thực vật rừng được sử dụng để nghiên cứu sự tiến
hóa của các lồi, sử dụng các lồi có cấu tạo cơ thể gần giống con người để thử
nghiệm các loại thuốc và phương pháp điều trị mới, đem lại những bước tiến mới sự
phát triển văn minh của xã hội.
Thứ tư, rừng là phên dậu bảo vệ biên giới quốc gia, bảo đảm an ninh - quốc
phòng của đất nước
Ở hầu hết các quốc gia có rừng hiện nay thì rừng chủ yếu phân bố ở những
khu vực vùng miền núi, khu vực biên giới. Trên cơ sở phân định chủ quyền biên
giới giữa các nước, các cánh rừng có vai trò vừa chứa đựng đường biên giới, vừa là
phên dậu để bảo vệ lãnh thổ của quốc gia, góp phần khẳng định chủ quyền của đất
nước. Nếu mất rừng ở các khu vực biên giới, việc kiểm sốt tình hình an ninh, chính
trị, quốc phịng sẽ khó khăn và có những diễn biến phức tạp. Bởi vậy, bảo vệ rừng
cũng đồng nghĩa với bảo vệ an ninh chính trị, bảo đảm quốc phịng cho đất nước.
Tóm lại, rừng có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với môi trường
và đời sống của con người. Tuy nhiên hiện nay rừng đang bị xâm hại nghiêm trọng,
suy thoái cả về chất lượng và số lượng, việc bảo vệ rừng ngày càng trở nên cấp bách
và bảo vệ rừng bằng pháp luật là công cụ không thể thiếu. Pháp luật nước ta đã định
hướng cho việc bảo vệ rừng và đưa những phương pháp bảo vệ rừng áp dụng vào
thực tiễn. Đây là công cụ hữu hiệu, là nền tảng và cơ sở cốt yếu để bảo đảm sự cân
bằng hệ sinh thái, đảm bảo cho con người được sống trong mơi trường trong lành,

có tương lai phát triển bền vững.
1.1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ rừng bằng pháp luật
Nguy cơ suy thoái tài nguyên rừng với những hậu quả nghiêm trọng của nó
đã buộc các quốc gia chú ý hơn tới những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ môi
trường. Nhiều biện pháp kinh tế, xã hội, tổ chức được triển khai nhằm thực hiện bảo vệ
có hiệu quả nguồn tài nguyên rừng. Nhiều quốc gia đã thực hiện việc giảm hoặc miễn

12


thuế đối với kinh doanh trồng rừng; chi trả dịch vụ mơi trường rừng (DVMTR).
Những quyết định của Chính phủ về đóng cửa rừng, khoanh vùng các khu BTTN,
lập vườn quốc gia đã góp phần đáng kể trong việc ngăn cản suy thoái rừng.
Bảo vệ rừng là yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển của các quốc
gia. Pháp luật có vai trị và vị trí đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ rừng. Rừng
bị tàn phá, suy thoái nghiêm trọng chủ yếu do sự phá hoại của con người. Chính con
người trong q trình khai thác, sử dụng rừng bất hợp lý đã làm cho nguồn tài
nguyên rừng cạn kiệt, suy thoái trầm trọng. Muốn bảo vệ rừng trước hết phải tác
động đến con người. Pháp luật với tư cách là hệ thống các quy phạm điều chỉnh
hành vi xử sự của con người sẽ có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ rừng. Vai trò
của pháp luật về bảo vệ rừng và sự cần thiết phải bảo vệ rừng bằng pháp luật thể
hiện qua những khía cạnh sau:
Thứ nhất, pháp luật quy định các quy tắc xử sự của con người khi tác động
đến tài nguyên rừng
Con người có thể tác động đến tài nguyên rừng theo hướng tiêu cực hoặc
tích cực. Việc khai thác và sử dụng rừng có tính định hướng, tn theo những tiêu
chuẩn nhất định sẽ góp phần hạn chế những tác hại xấu, ngăn chặn được sự suy
thoái rừng. Pháp luật đề ra những quy tắc xử sự bắt buộc, quy định rõ trách nhiệm
của các tổ chức, cá nhân. Nhờ vậy, các tổ chức, cá nhân có thể biết được mình được
làm gì, phải làm gì và khơng được phép làm gì khi tác động đến tài nguyên rừng.

Thứ hai, pháp luật quy định chế tài để ràng buộc con người thực hiện
những đòi hỏi của pháp luật nhằm bảo vệ rừng
Khơng mang tính tự nguyện như biện pháp kinh tế và biện pháp giáo dục,
pháp luật trực tiếp tác động đến hành vi con người bằng những chế tài cụ thể. Đó có
thể là chế tài hành chính hay chế tài hình sự được áp dụng với các hành vi vi phạm
các quy định về bảo vệ rừng. Việc xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm quy định
pháp luật về bảo vệ rừng bằng những chế tài phù hợp sẽ có tác dụng răn đe, phịng
ngừa sự tái phạm trong tương lai của các chủ thể có hành vi vi phạm. Đồng thời các

13


chế tài này cũng có tác dụng phịng ngừa với các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội.
Chúng ta đã biết rừng không phải là tài nguyên vô hạn, phải trải qua thời gian lâu
dài mới có thể phục hồi tài nguyên rừng đã bị khai phá. Nếu con người cứ tiếp tục
khai thác rừng một cách bừa bãi, quá mức phục hồi của tự nhiên thì sẽ dẫn đến mất
rừng vĩnh viễn. Bởi vậy, hơn bao giờ hết, tác dụng răn đe, phòng ngừa của các chế
tài càng trở nên cần thiết trong việc bảo vệ tài nguyên rừng.
Thứ ba, pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của cơ quan nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng
Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên quý giá nhưng không phải là tài
nguyên vô tận. Để các quy định về bảo vệ rừng được thực hiện có hiệu quả thì cần
phải có một cơ chế thực thi phù hợp cũng như một bộ máy làm nhiệm vụ quản lý,
kiểm tra, giám sát. Pháp luật đã xây dựng một hệ thống các cơ quan quản lý nhà
nước trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng từ trung ương đến địa phương. Đồng thời
pháp luật cũng xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước này trong
việc bảo vệ rừng. Nhờ vậy, các cơ quan nhà nước sẽ có thể xác định rõ ràng trách
nhiệm của mình, tránh để xảy ra tình trạng đùn đẩy trách nhiệm; đồng thời vẫn đảm
bảo sự phối hợp nhịp nhàng trong các hoạt động có sự tham gia của nhiều cơ quan.
Tóm lại, pháp luật có ý nghĩa vơ cùng quan trọng và cơng cụ không thể

thiếu đối với hoạt động bảo vệ rừng bởi nó khơng chỉ dừng lại ở vai trị điều chỉnh
các quan hệ xã hội mà cịn là cơng cụ để bảo vệ nguồn tài nguyên rừng, bảo vệ môi
trường, đảm bảo cuộc sống ổn định cho các thế hệ hôm nay và cả mai sau.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc và nội dung của pháp luật về bảo vệ rừng
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bảo vệ rừng
Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý xã hội, bảo đảm tính cơng bằng của
xã hội và đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân. Vai
trị của pháp luật nói chung thể hiện ở chỗ pháp luật vừa xác lập trật tự xã hội, vừa
củng cố và bảo vệ trật tự xã hội. Bằng việc đặt ra các quy tắc mang tính khn mẫu,
pháp luật xác định trước cho các chủ thể trong xã hội phải có những ứng xử tương

14


ứng với những tình huống xảy ra trong xã hội theo ý chí của Nhà nước với những
quyền và nghĩa vụ pháp lý theo điều kiện kinh tế xã hội nhất định.
Đối với lĩnh vực bảo vệ rừng, pháp luật cũng có những điều chỉnh nhất định
bằng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành. Pháp luật về bảo vệ rừng có thể được hiểu là hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành bao gồm các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp
lý điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến hoạt động bảo vệ rừng [12, tr. 35].
Đối tượng của pháp luật về bảo vệ rừng gồm các nhóm quan hệ xã hội có
liên quan đến hoạt động bảo vệ rừng của các chủ thể trong xã hội như: Quan hệ xã
hội trong hoạt động quản lý rừng; nhóm quan hệ xã hội trong hoạt động về bảo vệ
rừng; nhóm quan hệ xã hội trong hoạt động phát triển rừng; nhóm quan hệ xã hội
trong hoạt động sử dụng rừng; nhóm quan hệ xã hội trong hoạt động chế biến và
thương mại lâm sản; về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ rừng; về định giá
rừng, đầu tư, tài chính trong lâm nghiệp; về khoa học và cơng nghệ, hợp tác quốc tế
về lâm nghiệp; Quản lý nhà nước về lâm nghiệp và kiểm lâm; vấn đề bảo tồn đa
dạng sinh học; vấn đề xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng.

Với đặc thù là hệ thống pháp luật bảo vệ hệ sinh thái rừng, pháp luật về bảo
vệ rừng có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, pháp luật về bảo vệ rừng do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành, trong đó chủ yếu là các cơ quan quản lý nhà nước về BV&PTR. Nhà
nước với tư cách đặc biệt vừa là chủ thể thực hiện quản lý và bảo vệ rừng, vừa là
chủ thể có trách nhiệm bảo vệ rừng.
Thứ hai, pháp luật về bảo vệ rừng điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực bảo vệ rừng. Theo đó quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước, trách
nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ hệ sinh thái rừng; về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng.
Thứ ba, pháp luật về bảo vệ rừng là công cụ quản lý của Nhà nước trong
lĩnh vực bảo vệ rừng. BV&PTR là vấn đề cấp thiết hiện nay, đòi hỏi Nhà nước phải

15


sử dụng đồng bộ các cơng cụ, kế hoạch, chính sách, pháp luật và các công cụ quản
lý khác. Trong đó quản lý, bảo vệ rừng bằng pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất và
không thể thiếu được trong việc bảo vệ hệ sinh thái rừng.
Thứ tư, phương pháp điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ rừng là sự kết hợp
giữa các phương pháp mệnh lệnh, phương pháp thỏa thuận và phương pháp hướng
dẫn. Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ trong việc lập
quy hoạch, kế hoạch bảo vệ rừng, trong việc giao rừng, cho thuê rừng và bảo vệ
động vật rừng, thực vật rừng hoang dã phương pháp hướng dẫn được sử dụng để
điều chỉnh các quan hệ xã hội trong việc phịng cháy, chữa cháy rừng, hướng dẫn
gây ni cấy trồng động vật, thực vật hoang dã.
1.2.2. Nguyên tắc của pháp luật về bảo vệ rừng
Bảo vệ rừng luôn gắn bó chặt chẽ với việc phát triển rừng, nguyên tắc của
pháp luật về bảo vệ rừng bao gồm:
Một là, bảo vệ rừng phải đảm bảo phát triển bền vững.

Phát triển bền vững thực chất là sự liên kết giữa tăng trưởng kinh tế với bảo
vệ rừng và các giá trị khác. Phát triển bền vững là một trong những nguyên tắc quan
trọng trong hệ thống pháp luật về môi trường nói chung, pháp luật về bảo vệ rừng
nói riêng. Theo đó hoạt động bảo vệ rừng phải gắn với phát triển rừng và bảo đảm
phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, mơi trường, quốc phịng, an ninh; phù hợp
với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng
quy hoạch, kế hoạch BV&PTR của cả nước và địa phương; tuân theo quy chế quản
lý rừng do Nhà nước quy định.
Với nội dung của nguyên tắc bảo vệ rừng bảo đảm phát triển bền vững thì
việc khai thác, sử dụng rừng, đất rừng phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định của pháp
luật, việc khai thác, sử dụng rừng phải thực hiện đúng kế hoạch, quy hoạch mà nhà
nước đặt ra và áp dụng ở tất cả các địa phương trên cả nước. Việc khai thác khu
BTTN, cảnh quan thiên nhiên phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đồng thời mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động khác tác

16


động đến mơi trường đất, nước, khơng khí và đa dạng sinh học liên quan đến rừng
phải thực hiện theo quy định của pháp luật về bảo vệ rừng và pháp luật về đa dạng
sinh học cũng như các quy định có liên quan khác.
Hai là, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong pháp luật về bảo vệ rừng
Cơng tác bảo vệ rừng địi hỏi phải bảo đảm tính thống nhất của pháp chế,
bảo đảm tính tối cao của hiến pháp và luật, bảo đảm và bảo vệ các quyền và tự do
cơ bản của công dân đã được pháp luật quy định; ngăn chặn kịp thời và xử lí nhanh
chóng, cơng minh mọi hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm sự thống nhất giữa pháp
chế và tính hợp lí, cơng bằng. So với các cơng cụ bảo vệ rừng khác như: giáo dục,
kinh tế…thì pháp luật là công cụ hiệu quả và được đảm bảo thực hiện hơn cả.
Thông qua các quy định cụ thể, pháp luật đề ra các quy tắc xử sự của con người khi
tác động đến tài nguyên rừng; quy định chế tài để ràng buộc con người thực hiện

những đòi hỏi của pháp luật bảo vệ rừng. Do đó, để việc bảo vệ rừng đạt được hiệu
quả thì nhất thiết phải tôn trọng nguyên tắc pháp chế, tuân thủ nghiêm ngặt các quy
định của pháp luật về quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng.
Ba là, nguyên tắc thống nhất trong quản lý và bảo vệ rừng
Nguyên tắc này địi hỏi các chính sách cũng như các quy định pháp luật về
bảo vệ rừng phải được ban hành với sự cân nhắc toàn diện đến các yếu tố khác nhau
của hệ sinh thái rừng, để việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực bảo vệ
rừng không bị phân tán hoặc thiếu đồng bộ. Việc quản lý nhà nước vê bảo vệ rừng
phải được thực hiện dưới sự điều hành của một cơ quan thống nhất từ Trung ương
đến địa phương với những vai trò, chức năng, quyền hạn được phân cơng một cách
hợp lý. Các chính sách, quy định về bảo vệ rừng đảm bảo thống nhất, phù hợp và áp
dụng được ở tất cả các địa phương có rừng trên cả nước.
Bốn là, bảo vệ rừng là trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân.
Bảo vệ rừng phải được coi là sự nghiệp, nhiệm vụ chung của toàn xã hội.
Nguyên tắc này xác định trách nhiệm bảo vệ rừng là của tất cả các tổ chức, cá nhân,

17


hộ gia đình. Để bảo đảm thực hiện, Nhà nước thống nhất quản lý công tác bảo vệ
rừng, quy định tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chuyên ngành về bảo
vệ rừng từ Trung ương đến địa phương. Các hộ gia đình, cá nhân tùy vào vị trí, vai
trị của mình mà thực hiện đúng trách nhiệm, nghĩa vụ trong công tác bảo vệ rừng.
Cần phải khẳng định rằng bảo vệ rừng không phải là trách nhiệm của riêng một cá
nhân, một tổ chức chuyên trách nào. Chỉ khi có sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân và tồn thể cộng đồng trong xã hội tạo thành một thể
thống nhất mới bảo đảm cho pháp luật về bảo vệ rừng được thực hiện nghiêm và
đảm bảo hiệu quả.
1.2.3. Nội dung pháp luật về bảo vệ rừng

Pháp luật về bảo vệ rừng là một lĩnh vực bao gồm tổng thể các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh có
liên quan đến hoạt động bảo vệ rừng. Có thể thấy pháp luật về bảo vệ rừng bao gồm
hệ thống các quy phạm pháp luật được sử dụng để điều chỉnh các vấn đề phát sinh
liên quan đến hoạt động bảo vệ rừng, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về
bảo vệ rừng.
Trước khi Luật Lâm nghiệp được ban hành, hoạt động bảo vệ rừng được
điều chỉnh bởi một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tương đối rộng là Luật
BV&PTR và hệ thống nghị định hướng dẫn thi hành, quy định chi tiết các vấn đề
liên quan đến bảo vệ rừng. Bên cạnh đó cịn có các văn bản Luật chuyên ngành như:
Luật đa dạng sinh học, Luật bảo vệ mơi trường, Luật Đất Đai, Bộ luật Hình sự, Luật
xử lý vi phạm hành chính....Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật này đều được
soạn thảo, ban hành theo hướng kịp thời bổ sung các vấn đề cần được điều chỉnh
trong công tác bảo vệ rừng. Mặc dù hệ thống các văn bản pháp luật về bảo vệ rừng
tương đối đồ sộ nhưng lại cồng kềnh, chồng chéo dẫn đến những vấn đề bất cập,
hạn chế trong công tác thi hành pháp luật về bảo vệ rừng.
Với sự ra đời của Luật Lâm nghiệp năm 2017, có thể nói rằng lần đầu tiên ở
Việt Nam có một bộ luật giải quyết khá tốt các vấn đề còn tồn tại trong công tác bảo

18


vệ rừng, thiết lập khung pháp lý thống nhất điều chỉnh hoạt động bảo vệ rừng, bao
gồm các hoạt động về quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng, chế biến và thương
mại lâm sản theo định hướng thị trường và hội nhập quốc tế; có cơ cấu quản lý, sản
xuất kinh doanh hợp lý, ổn định theo hướng hiện đại, phát triển bền vững cả về kinh
tế, xã hội, mơi trường; góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người làm
nghề rừng và công cuộc xây dựng nơng thơn mới, ứng phó với biến đổi khí hậu và
quốc phịng, an ninh. Xun suốt tồn bộ nội dung Luật Lâm nghiệp là các quy định
điều chỉnh các vấn đề về quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng, chế biến và

thương mại lâm sản nhưng đều hướng tới mục tiêu chung nhất là BV&PTR bền vững.
Nội dung của pháp luật về bảo vệ rừng chính là nội dung điều chỉnh của
pháp luật đối với hoạt động bảo vệ rừng. Trên cơ sở các quy định của Luật Lâm
nghiệp, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Lâm nghiệp và các văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động bảo vệ rừng, có thể xác
định pháp luật về bảo vệ rừng gồm các nội dung chủ yếu sau:
- Nhóm quy định pháp luật về quy hoạch lâm nghiệp;
- Nhóm quy định pháp luật về quản lý rừng;
- Nhóm quy định pháp luật về bảo vệ rừng;
- Nhóm quy định pháp luật về phát triển rừng;
- Nhóm quy định pháp luật về sử dụng rừng;
- Nhóm quy định pháp luật chế biến và thương mại lâm sản;
- Nhóm quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng;
- Nhóm quy định pháp luật về định giá rừng, đầu tư, tài chính trong lâm nghiệp;
- Nhóm các quy định pháp luật về khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế
về lâm nghiệp; Quản lý nhà nước về lâm nghiệp và kiểm lâm;
- Nhóm quy định pháp luật về bảo tồn đa dạng sinh học;
- Nhóm quy định pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng
Như vậy, pháp luật bảo vệ rừng được đặt ra để điều chỉnh các mối quan hệ
xã hội liên quan đến hoạt động bảo vệ tài nguyên rừng. Với sự điều chỉnh của Luật

19


Lâm nghiệp, pháp luật về bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay đã tương đối hoàn thiện,
đảm bảo thiết lập khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lâm nghiệp để
bảo vệ rừng theo hướng hiện đại, phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi
trường.Tuy nhiên để công tác bảo vệ rừng được thực hiện một cách hiệu quả thì vấn
đề thi hành các quy định pháp luật về bảo vệ rừng như thế nào cũng là yếu tố đóng
vai trị quyết định.

1.3. Khái lược pháp luật về bảo vệ rừng ở Việt Nam
1.3.1. Giai đoạn từ 1945 - 1991
Bảo vệ rừng luôn là một vấn đề quan trọng và cấp thiết được Nhà nước đặc
biệt quan tâm hàng đầu. Ngay từ những ngày mới giành được độc lập, nhà nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng hịa đã quan tâm đến cơng tác pháp chế lâm nghiệp. Ngày
12 tháng 3 năm 1954 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Thơng tư số 366/TTg về
việc trồng cây gây rừng. Thông tư này đã xác định chính sách hưởng lợi từ rừng là
ai gây rừng thì được quyền hưởng hoa lợi về cây cối đã trồng. Thể chế bảo vệ rừng,
sản xuất, lưu thông và xuất khẩu lâm sản cũng được Chính phủ quan tâm. Ngày 05
tháng 11 năm 1945 Ủy ban nhân dân (UBND) Bắc bộ đã ban hành Thông tư số 828
gửi Chủ tịch UBND của các tỉnh Bắc Bộ về việc duy trì rừng, nghiêm cấm nhân dân
khơng được tự ý khai khẩn hoặc đốt phá rừng [12, tr. 21]. Khẳng định sự thống nhất
quản lý về rừng thuộc về Nhà nước, Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 15CT/CTTW
xác định rõ "rừng là tài sản của toàn dân, phải do Nhà nước thống nhất quản lý".
Ngày 29 tháng 12 năm 1961 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 221/HĐCP
về một số thể lệ phòng cháy và chữa cháy rừng. Vấn đề bảo vệ động, thực vật rừng
hoang dã cũng được điều chỉnh kịp thời khi Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị
định số 39-CP quy định điều lệ tạm thời về săn bắt chim, thú rừng.
Ngày 11 tháng 9 năm 1972 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp
lệnh bảo vệ rừng năm với 05 chương, 26 Điều với nội dung quy định về nguyên tắc
chung, những biện pháp bảo vệ rừng, tổ chức bảo vệ rừng. Để bảo đảm thi hành
Pháp lệnh về bảo vệ rừng, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn chi tiết

20


như Nghị quyết số 155C về việc thi hành pháp lệnh bảo vệ rừng, Nghị quyết số
101/1973/NĐ-CP quy định về hệ thống tổ chức và quyền hạn của lực lượng kiểm
lâm nhân dân... Có thể nói, sự ra đời Pháp lệnh bảo vệ rừng năm 1972 là một dấu
mốc quan trọng trong công tác bảo vệ rừng ở nước ta thời kỳ mới giành được độc

lập. Đây là văn bản có tính pháp lý cao đầu tiên được ban hành trực tiếp quy định về
việc quản lý, bảo vệ môi trường rừng, khai thác sử dụng các nguồn lợi từ rừng ở
Việt Nam.
Như vậy, từ những năm 1945 đến trước năm 1991 Nhà nước đã ban hành
nhiều văn bản quy phạm pháp luật phù hợp để điều chỉnh vấn đề bảo vệ rừng ở Việt
Nam. Tuy nhiên, các văn bản này mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra những quy định cơ
bản, chưa đáp ứng yêu cầu của công tác bảo vệ rừng trong tình hình xây dựng đất
nước đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.3.2. Giai đoạn 1991- 2004
Ngày 12 tháng 08 năm 1991 Quốc hội thông qua Luật BV&PTR, gồm 9 chương,
58 điều là sự tiếp tục và kế thừa, phát triển các hệ thống quy phạm pháp luật trước
đó cho phù hợp với xu hướng phát triển trong thời kì mới- thời kì cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Sự ra đời của Luật BV&PTR năm 1991 là một bước tiến quan trọng
trong quá trình phát triển của hệ thống pháp luật về bảo vệ rừng ở Việt Nam. Để
đảm bảo thực hiện pháp luật về bảo vệ rừng, Chính phủ đã ban hành các văn bản
hướng dẫn chi tiết Luật BV&PTR 1991, cụ thể là Quyết định số 202/TTg ngày 02
tháng 02 năm 1994 quy định về khốn, bảo vệ rừng, khoanh ni tái sinh rừng và
trồng rừng; Nghị định số 18/HĐBT/1992 ngày 17 tháng 01 năm 1992 của Hội đồng
bộ trưởng về danh mục các loài động vật rừng, thực vật rừng hoang dã, quý, hiếm;
Chỉ thị số 130/TTg về quản lý động vật và thực vật quý hiếm. Năm 2002 Chính phủ
ban hành Nghị định số 48/2002/NĐ-C về Danh mục các loài động thực vật rừng
hoang dã, quý, hiếm. Bên cạnh đó, cơng tác phịng cháy và chữa cháy rừng cũng
được quan tâm, thể hiện qua các văn bản được ban hành như: Nghị định số 22/CP
về phòng cháy chữa cháy rừng; Thông tư liên bộ số 6/TTg/LB hướng dẫn lập kế

21


hoạch cấp phát, quản lý và quyết tốn kinh phí cho cơng tác phịng cháy chữa cháy
rừng và đặc biệt là sự ra đời của Luật phòng cháy chữa cháy năm 2001.

Để thực hiện có hiệu quả cơng tác bảo vệ rừng, ngày 29 tháng 11 năm 1996
Chính phủ ban hành Nghị định số 77/CP về xử phạt vi phạm hành chính trong quản
lý và bảo vệ rừng, quản lý lâm sản. Hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng cịn
có thể bị xử lý trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 với
những chế tài hình sự về các hành vi vi phạm quy định về khai thác và bảo vệ rừng,
hành vi hủy hoại rừng, hành vi buôn bán động thực vật rừng hoang dã…
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2018
Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và dưới tác động của kinh tế thị
trường, sau 13 năm thi hành Luật BV&PTR 1991 đã bộc lộ nhiều hạn chế khiến cho
công tác bảo vệ rừng gặp phải những khó khăn nhất định. Khắc phục những hạn chế
này, ngày 03 tháng 12 năm 2004 Quốc hội đã ban hành Luật BV&PTR mới. Cùng
với nhiều luật chuyên ngành như: Luật Bảo vệ môi trường 2005, Luật Đất Đai 2013,
Luật Đa dạng sinh học 2008; các nghị định quan trọng như: Nghị định số
23/2006/NĐ-CP ngày 03/03/2006 của Chính phủ về thi hành Luật BV&PTR năm
2004 (sau đây gọi tắt là Nghị định 23/2006/NĐ-CP); Nghị định số 32/2006/NĐ-CP
ngày 30/03/2006 của Chính phủ về quản lý động, thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm
(Nghị định 32/2006/NĐ-CP); Nghị định 65/2010/NĐ-CP ngày 11/06/2010 của
Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn Luật Đa dạng sinh học 2008 (Nghị định
65/2010/NĐ-CP); Nghị định 99/2009/NĐ-CP ngày 02/11/2009 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản (Nghị
định 99/2009/NĐ-CP)...có thể thấy hệ thống pháp luật về bảo vệ rừng ở Việt Nam ở
giai đoạn này là khá hoàn thiện và đồng bộ. Đồng thời, trong hợp tác quốc tế về bảo
vệ rừng, Việt Nam cũng tích cực tham gia các điều ước quốc tế quan trọng như:
Công ước RAMSAR năm 1971 về tầm quan trọng của các vùng đất ngập nước, đặc
biệt là nơi cư trú của các loài chim nước (Việt Nam phê chuẩn 1989); Công ước
CITES năm 1973 về buôn bán quốc tế những lồi động, thực vật có nguy cơ bị đe
dọa và Công ước CBD năm 1992 về đa dạng sinh học (cùng phê chuẩn năm 1994).

22



1.3.4. Giai đoạn từ sau khi Luật Lâm nghiệp năm 2017 có hiệu lực thi hành
Mặc dù chúng ta đã có một hệ thống pháp luật tương đối hồn chỉnh về bảo
vệ rừng nhưng sau 12 năm thi hành văn bản pháp lý cao nhất về bảo vệ rừng là Luật
BV&PTR năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế trong công tác bảo vệ rừng. Cụ thể là
các quy định của pháp luật BV&PTR năm 2004 chưa làm rõ cơ chế thực hiện các
quyền định đoạt của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu đối với rừng tự
nhiên; các quyền, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân khi được Nhà nước giao, cho
thuê rừng tự nhiên. Nhiều chủ rừng chưa được cấp giấy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sử dụng rừng, nên khó thực hiện các quyền của chủ rừng theo quy
định của Luật (chuyển nhượng, góp vốn, thế chấp…). Luật chưa quy định toàn diện,
đồng bộ hệ thống quản lý nhà nước chuyên ngành về lâm nghiệp, mới chỉ quy định
lực lượng Kiểm lâm. Trong giai đoạn trước việc ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan đến cơng tác bảo vệ rừng còn chưa đồng bộ nên quy định của
Luật BV&PTR còn chồng chéo, mâu thuẫn với một số luật có liên quan, như Luật
Đất đai, Luật Đa dạng sinh học, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất Đai 2013. Đặc
biệt là thiếu sự thống nhất giữa Luật BV&PTR với Luật Đa dạng sinh học về cách
phân loại khu bảo tồn đa dạng sinh học với việc phân loại rừng đặc dụng; quy định
chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ của Bộ NN&PTNT và Bộ Tài
nguyên và Môi trường trong phạm vi hệ sinh thái rừng, nội dung liên quan đến đa
dạng sinh học chưa được quy định cụ thể tại Luật BV&PTR năm 2004. Bên cạnh
đó, trong bối cảnh hiện nay Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào các
hoạt động thương mại quốc tế nên các quy định của Luật cần tương thích và đáp
ứng được các u cầu của thơng lệ quốc tế, phù hợp với Công ước khung của Liên
hiệp quốc về biến đổi khí hậu và chưa thúc đẩy các hoạt động ứng phó với biến đổi
khí hậu trong lĩnh vực lâm nghiệp.
Xuất phát từ yêu cầu sửa đổi Luật BV&PTR, ngày 15 tháng 11 năm 2017,
tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV đã
thơng qua Luật Lâm nghiệp số 16/2017/QH14, có hiệu lực thi hành từ ngày 01


23


tháng 01 năm 2019. Luật Lâm nghiệp năm 2017 có 12 chương với 108 điều, tăng 04
chương và 20 điều so với Luật BV&PTR năm 2004. Liên quan đến các quy định về
bảo vệ rừng, Luật Lâm nghiệp đã có một số sửa đổi, bổ sung quan trọng như thể chế
hóa chế định sở hữu rừng theo quy định Hiến pháp năm 2013; quy định 2 nhóm
hình thức sở hữu rừng: rừng sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu
gồm rừng tự nhiên, rừng trồng do Nhà nước đầu tư đã giao hoặc chưa giao cho tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; rừng sở hữu do tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân, cộng đồng dân cư gồm rừng trồng do tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng dân cư đầu tư; nhận chuyển nhượng, tặng cho, nhận thừa kế rừng từ chủ rừng
khác theo quy định của pháp luật. Luật cũng quy định cụ thể về giao rừng, cho thuê
rừng, thu hồi rừng, tổ chức quản lý rừng, để bảo đảm rừng có chủ thực sự, đủ điều
kiện để bảo vệ, phát triển rừng và hiệu lực quản lý nhà nước về rừng; quy định chặt
chẽ việc quản lý rừng tự nhiên, chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên và việc tạm
dừng khai thác gỗ rừng tự nhiên trong một thời gian nhất định để bảo vệ rừng tự
nhiên hiện có và có thời gian để rừng sinh trưởng, phục hồi, đảm bảo an ninh môi
trường, đáp ứng nhu cầu lâu dài về lâm sản. Luật quy định khai thác lợi ích phi lâm
sản từ rừng như DVMTR đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống con người.
Tổ chức, cá nhân sử dụng DVMTR phải chi trả tiền DVMTR cho con người trực
tiếp BV&PTR. Đây cũng là điểm mới tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho việc
chuyển hướng khai thác lợi ích tiềm năng của rừng, từ sản phẩm gỗ và lâm sản
ngoài gỗ sang sản phẩm phi gỗ, tạo nguồn tài chính bền vững để đầu tư trực tiếp
vào rừng.
Về đổi mới tổ chức quản lý ngành lâm nghiệp. Luật Lâm nghiệp đã quy
định khung về cơ quan có chức năng tham mưu quản lý nhà nước chuyên ngành về
lâm nghiệp và tổ chức kiểm lâm. Đối với Kiểm lâm, bổ sung quy định cụ thể hơn
trong Luật một số cơ chế, chính sách, thẩm quyền để bảo đảm hành lang pháp lý
cần thiết cho lực lượng Kiểm lâm tổ chức hoạt động bảo vệ rừng, đấu tranh, phòng

ngừa, ngăn chặn hành vi xâm hại rừng, phòng cháy và chữa cháy rừng hiệu quả hơn.

24


Cùng với việc thông qua Luật Lâm nghiệp, Nhà nước cũng đã kịp thời ban
hành các văn bản liên quan đến công tác bảo vệ rừng để thay thế các văn bản trước
đây như: Nghị định 06/2019/NĐ-CP về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy
cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật
hoang dã nguy cấp; Nghị định 35/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực Lâm nghiệp… Sự ra đời của Luật Lâm nghiệp 2017 và các văn
bản hướng dẫn thi hành có liên quan đến công tác bảo vệ rừng đã thiết lập khung
pháp lý tương đối hoàn chỉnh điều chỉnh các quan hệ xã hội trong ngành Lâm
nghiệp, bao gồm các hoạt động về quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng, chế
biến và thương mại lâm sản theo định hướng thị trường và hội nhập quốc tế; có cơ
cấu quản lý, sản xuất kinh doanh hợp lý, ổn định theo hướng hiện đại, phát triển bền
vững cả về kinh tế, xã hội, mơi trường; góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời
sống người làm nghề rừng và công cuộc xây dựng nơng thơn mới, ứng phó với biến
đổi khí hậu và quốc phịng, an ninh.
Như vậy, vấn đề bảo vệ rừng đã được Đảng, Nhà nước nhận thức và quan
tâm thông qua việc xây dựng và thực hiện các chính sách, các quy định cụ thể. Hệ
thống pháp luật về bảo vệ rừng hiện nay có thể nói là đã đưa ra đầy đủ quy định về
điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực bảo vệ rừng, các quy định về quản lý,
bảo vệ hệ sinh thái rừng, quy định về khai thác động, thực vật rừng hoang dã, quy
định về hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương xuống địa phương,
quy định về các biện pháp xử lý vi phạm về bảo vệ rừng…Hệ thống pháp luật về
bảo vệ rừng nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực quản lý và bảo vệ rừng trong tình hình phát triển kinh tế xã hội
của đất nước giai đoạn hiện nay.
Tiểu kết chương 1

Rừng là một hệ sinh thái có vai trị quan trọng đối với sự ổn định và cân
bằng của môi trường sống. Khơng những thế, rừng cịn có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng về mặt kinh tế - xã hội cũng như trong cuộc sống sinh hoạt của con người.

25


×