Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Luan van thạc sĩ luật học pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu từ thực tiễn tỉnh điện biên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.37 KB, 88 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thuế là một khoản tiền do các cá nhân, tổ chức nộp cho nhà nước để góp
phần chia sẻ gánh nặng chi tiêu với nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế, xã
hội. Trong cấu trúc hệ thống thuế ở mỗi quốc gia, thuế xuất nhập khẩu là một loại
thuế có vai trị và ý nghĩa thiết thực, khơng chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách mà
quan trọng hơn, nó là cơng cụ hữu hiệu trong tay nhà nước để kiểm soát hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong nước và thực hiện
các mục tiêu đối ngoại của chính phủ trong từng thời kỳ. Ngày nay, cho dù xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang từng bước ảnh hưởng đến số phận của xuất
thuế nhập khẩu theo hướng hạn chế vai trò của loại thuế này, song về cơ bản, thuế
xuất nhập khẩu vẫn sẽ là giải pháp quản lý vĩ mơ có hiệu quả đối với nền kinh tế
trong nước, nhất là đối với quốc gia đang trong quá trình từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường như Việt Nam hiện nay.
Quản lý thuế, đặc biệt là thuế nhập khẩu là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng
của ngành Hải quan, đây là nhiệm vụ trọng tâm xun suốt, đóng vai trị quan
trọng, khơng những đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước mà cịn đóng góp vào
thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành, vì bản chất quản lý thuế ảnh hưởng
sâu rộng đến hầu hết đến các hoạt động của ngành hải quan như đảm bảo an ninh
kinh tế, góp phần đảm bảo an ninh quốc gia; bảo hộ nền sản xuất trong nước còn
đang trong giai đoạn phát triển, đảm bảo cạnh tranh công bằng trong cộng đồng
doanh nghiệp, chống gian lận thương mại, đồng thời đảm quản lý hiện đại, tạo mọi
điều kiện thơng thống cho doanh nghiệp. Số thu ngân sách của ngành hải quan
luôn chiếm khoảng 1/3 tổng thu ngân sách nhà nước.
Pháp luật về quản lý thuế xuất nhập khẩu là phương tiện để cơ quan quản lý
Nhà nước quản lý thu thuế xuất nhập khẩu một cách hiệu quả nhất, đồng thời, pháp
luật về quản lý thuế xuất nhập khẩu cịn là cơng cụ bảo vệ Nhà nước, nhân dân

1



trong hoạt động kiểm tra, giám sát lại cơ quan thu thuế xuất nhập khẩu. Dựa vào
pháp luật, Nhà nước giải quyết những tranh chấp, xử lý những hiệm tượng tiêu cực
và hành vi vi phạm pháp luật.
Trong những năm qua, chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu; cơ chế quản
lý thuế xuất nhập khẩu đã có những thay đổi lớn và đạt được nhiều kết quả tốt cả về
yêu cầu thu ngân sách cũng như quản lý, điều tiết kinh tế vĩ mơ, góp phần ổn định
tình hình kinh tế - xã hội trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh
nghiệp nội địa.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều biến động, xung đột thương
mại giữa Mỹ và Trung Quốc cùng với những biến động thị trường tài chính, tiền tệ
quốc tế, tác động đến kinh tế nước ta; Các hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại,
hàng giả và vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới có diễn biến phức tạp với
các phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi gây khó khăn cho cơng tác quản lý của
ngành hải quan. Tình trạng trốn thuế, chiếm dụng tiền thuế gây nợ đọng thuế xuất
nhập khẩu lớn và kéo dài chưa được xử lý triệt để, hoạt động kiểm tra, kiểm soát
chấp hành chính sách thuế đói với hàng hóa xuất nhập khẩu chưa được chú trọng
đúng mức, gây thất thu cho ngân sách nhà nước… trên cả bình diện tồn quốc và ở
từng địa phương.
Điện Biên là một tỉnh biên giới miền núi vùng Tây Bắc của Tổ quốc, có chung
đường biên giới với hai quốc gia Lào và Trung Quốc với hơn 400 km đường biên giới;
đường giao thông đi các tỉnh Bắc Lào và tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, có đường
hàng khơng từ Điện Biên Phủ đi Hà Nội với tần suất bay bình quân 02 chuyến/ngày.
Cục Hải quan Điện Biên là đơn vị được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về Hải
quan trên địa bàn ba tỉnh Điện Biên, Sơn La và Lai Châu, trong đó có nhiệm vụ thu
ngân sách nhà nước đối với các hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn, thời gian
qua công tác thu ngân sách nhà nước tại Cục Hải quan tỉnh Điện Biên cũng gặp phải
những khó khăn nhất định. Ngoài những lý do chung là ảnh hưởng của suy thối
kinh tế tồn cầu và Việt Nam, Cục Hải quan tỉnh Điện Biên cũng có những khó

2



khăn nội tại như: Địa bàn quản lý rộng, chủ yếu là miền núi địa hình hiểm trở, giao
thơng đi lại khơng thuận tiện; trình độ dân trí cịn thấp; kinh tế nghèo nàn và lạc
hậu; các mặt hàng xuất nhập khẩu trên địa bàn chủ yếu là hàng nông sản, bách hóa;
các địa phương tiếp giáp của nước bạn (Lào, Trung Quốc) chủ yếu là miền núi kinh
tế kém phát triển; nguồn thu những năm gần đây chủ yếu từ hàng hóa nơng sản,
thiết bị máy móc nhập khẩu tạo tài sản cố định của các dự án đầu tư thủy điện vừa
và nhỏ trên địa bàn.
Xuất phát từ những tồn tại trong quản lý thuế xuất nhập khẩu nêu trên địi
hỏi cơ chế chính sách về pháp luật quản lý thuế xuất nhập khẩu phải ln được hồn
thiện dể tăng cường hơn nữa công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu, chính vì thế tác
giả lựa chọn đề tài "Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ thực
tiễn tỉnh Điện Biên" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đề tài pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu là đề tài thu hút sự
quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả ở phương diện lý luận
và thực tiễn như:
- Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: "Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế
xuất khẩu, nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam" của tác giả Trần Thu Trang năm
2012. Luận văn đưa ra cái nhìn tổng quát nhất các vấn đề lý luận về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu; thực trạng pháp luật Việt Nam và
thực tiễn áp dụng vấn đề này. Trên cơ sở đó có sự so sánh, đối chiếu pháp luật về
quản lý nhà nước trong lĩnh thuế xuất khẩu, nhập khẩu ở Việt Nam với pháp luật
nước ngoài, các cam kết Việt Nam đã ký kết, tham gia có liên quan. Đồng thời luận
văn cũng đưa ra một số ý kiến đóng góp, kiến nghị với hy vọng góp phần hồn thiện
các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh thuế xuất khẩu, nhập
khẩu ở Việt Nam.
- Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: "Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu,
nhập khẩu và thực tiễn tại Cục Hải quan Thành phố Đà Nẵng" của tác giả Nguyễn


3


Phạm Quý Hương, năm 2014. Luận văn tổng quát các vấn để lý luận về quản lý
Nhà nước tronh lĩnh vực thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thực trạng pháp luật Việt
Nam và thực tiễn áp dụng vấn đề này tại Cục Hải quan Thành phố Đà Nẵng.
- Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: "Hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam" của tác giả Hứa Hải Quang, năm 2015.
- Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: "Pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu từ
thực tiễn tại chi cục Hải quan cửa khẩu sân bay Quốc tế Nội Bài và hướng hoàn
thiện" của tác giả Nguyễn Vân Hoàng, năm 2016. Luận văn phân tích làm rõ lý luận
và pháp luật về quản lý thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu, từ đó phân tích,
nhận xét và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật quản lý thuế trong thực tiễn, đánh
giá những kết quả đã đạt được và những mặt hạn chế của những quy định của pháp
luật về quản lý thuế nhập khẩu cũng như hạn chế, bất cập trong việc áp dụng các
quy định của pháp luật về quản lý thuế tại Chi cục Hải quan Cửa khẩu sân bay Quốc
tế Nội Bài.
Trong các nghiên cứu nói trên, các tác giả đã đề cập tới pháp luật về quản lý
thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và thực tiễn áp dụng tại các đại phương.
Hải quan tại các địa phương khác nhau sẽ có cách quản lý khác nhau tuy nhiên vẫn
dựa trên nguyên tắc quản lý chung của Tổng cục Hải quan Việt Nam và dựa trên
pháp luật chung. Hiện nay, pháp luật Việt Nam có những thay đổi, hệ thống pháp
luật gồm các Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2016, Luật quản lý thuế năm
2019,…; các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thay thế; tác giả nhận thấy vẫn chưa
có nghiên cứu mới nào về đề tài này. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài "Pháp luật về
quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu từ thực tiễn tỉnh Điện Biên". Luận văn tập
trung nghiên cứu pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu từ thực tiễn tỉnh
Điện Biên. Từ thực trạng áp dụng pháp luật trong công tác quản lý tại tỉnh hiện nay,
tác giả chỉ ra những hạn chế còn tồn tại và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp

luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu.

4


3. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về quản lý thuế xuất khẩu, nhập
khẩu và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
- Phân tích và làm rõ thực trạng những quy định của pháp luật về quản lý
thuế xuất khẩu, nhập khẩu và đánh giá thực tiễn áp dụng những quy định về quản lý
thuế xuất khẩu, nhập khẩu tại tỉnh Điện Biên.
- Đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế xuất
khảu, nhập khẩu và các giải pháp tăng cường quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu tại
cơ quan Hải quan nói chung và Cục Hải quan tỉnh Điện Biên nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tiếp cận đề tài dưới góc độ chuyên nghành Luật Kinh tế.
- Đề tài nghiên cứu pháp luật hiện hành về quản lý thuế xuất khẩu, nhập
khẩu ở Việt Nam và chỉ tập trung nghiên cứu chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động
quản lý thuế xuát khẩu, nhập khẩu tại tỉnh Điện Biên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng nghững phương pháp nghiên cứu khoa học bao gồm:
Phương pháp thống kê, Phương pháp phân tích và tổng hợp, Phương pháp so
sánh… Trên cơ sở hệ thống dữ liệu thứ cấp (với nguồn dữ liệu, thông tin được tác
giả thu thập từ các website, số liệu thống kê của cơ quan quản lý nhà nước, sách
báo, tạp chí…); Các nội dung phân tích, đánh giá, nhận xét và đề xuất các giải pháp,
kiến nghị được nghiên cứu và trình bầy cũng dựa trên quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về những vấn đề pháp luật về quản lý
thuế xuất nhập khẩu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn làm rõ những cơ sở lý luận về pháp luật quản lý thuê xuất khẩu,
nhập khẩu.

5


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích để các cơ quan nhà nước hồn thiện
chính sách pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu và đưa ra một số giải
pháp giúp cơ quan Hải quan nâng cao quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
Đề tài cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cán bộ, giảng viên, sinh
viên trong các cơ sở đào tạo luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về quản lý thuế xuất khẩu, nhập
khẩu và pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam trong quản lý thuế xuất khẩu,
nhập khẩu và thực tiễn thi hành tại tỉnh Điện Biên
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập
khẩu và nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu tại tỉnh
Điện Biên.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU
VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU

1.1. Tổng quan về quản lý thuế xuất, nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Thuế và pháp luật về thuế xuất hiện trong nền kinh tế - xã hội nước ta nói
riêng và trên thế giới nói chung như một hiện tượng tất yếu, tồn tại và phát triển
cùng sự phát triển của nền kinh tế theo mỗi giai đoạn. Các nhà kinh tế học trên thế
giới và trong nước cũng đánh giá thuế như một công cụ hữu hiệu để điều tiết nền
kinh tế, củng cố quyền lực cũng như gia tăng và bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Có
nhiều định nghĩa về thuế đã được đưa ra, ví dụ, theo Các Mác: "Thuế là cơ sở kinh
tế của bộ máy cai trị, chứ khơng phải cái gì khác" [20, tr. 49]. Hoặc theo quan điểm
của Ngân hàng phát triển châu Á, thuế là nguồn thu chính của các chính phủ để tài
trợ cho các dự án và dịch vụ công [40]. Trong Từ điển tiếng Việt định nghĩa: "Thuế
là khoản tiền hay hiện vật mà người dân và các tổ chức kinh doanh có nghĩa vụ phải
nộp cho nhà nước theo mức quy định, dựa trên mức giá trị tài sản, mức thu nhập,
loại hình nghề nghiệp, v.v..." [29, tr. 1238]. Mặc dù đã có nhiều khái niệm về thuế
được đưa ra, tuy nhiên, phải đến khi Luật Quản lý thuế năm 2019 được ban hành
(Luật này được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ
họp thứ 7 thông qua ngày 13 tháng 6 năm 2019, có hiệu lực thi hành từ ngày 01
tháng 7 năm 2020), định nghĩa về thuế ở Việt Nam mới chính thức được pháp luật
ghi nhận, theo đó, tại khoản 1 Điều 3 quy định: "Thuế là một khoản nộp ngân sách
nhà nước bắt buộc của tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân theo quy định
của các luật thuế".
Nhằm thực hiện mục tiêu điều tiết nền kinh tế, Nhà nước đặt ra nhiều loại
thuế khác nhau, mỗi loại đánh vào một lĩnh vực, một thị trường nhất định, trong đó,

7


thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một loại thuế trong lĩnh vực thương mại quốc tế, bao
gồm trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các quốc gia trên thế giới và tuân theo những
nguyên tắc nhất định nhằm đem lại lợi ích cho các bên. Thuế xuất khẩu, thuế nhập

khẩu cũng là một loại thuế tương đối đặc trưng trong hệ thống thuế của mỗi quốc
gia, có liên quan trực tiếp đến ngoại thương và chính là một trong những cơng cụ,
những nhân tố cấu thành nên chính sách kinh tế đối ngoại của Nhà nước. Cụ thể
hơn, thuế xuất khẩu là loại thuế đánh vào những hàng hóa mà Nhà nước muốn hạn
chế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đánh vào những hàng hóa có nguồn gốc từ nước
ngồi muốn được tiêu thụ vào thị trường trong nước và mỗi loại thuế này đóng vai
trị khác nhau trong việc điều tiết nền kinh tế cũng như bảo đảm lợi ích của Nhà
nước. Đến nay, khái niệm về thuế xuất khẩu, nhập khẩu vẫn chưa được ghi nhận
trong bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào của Việt Nam. Tuy nhiên, khái
niệm về thuế xuất khẩu, nhập khẩu cũng được các học giả trong nước nghiên cứu,
phân tích và làm rõ ở những góc độ khác nhau. Có thể nhìn nhận thuế xuất khẩu,
nhập khẩu thơng qua một vài khái niệm dưới đây.
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là khoản thu thuế đối với hoạt động xuất
khẩu và nhập khẩu của tổ chức và cá nhân vào ngân sách nhà nước khi thực hiện
hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa theo quy định của pháp luật. Dưới góc độ
kinh tế, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là công cụ điều tiết đối với quá trình sản
xuất, tiêu dùng trong phạm vi mỗi quốc gia nhằm thực hiện các chính sách kinh tế
bảo hộ hàng nội địa hoặc đa phương hóa các quan hệ kinh tế trong nước với các
nước trong khu vực hoặc phạm vi toàn cầu. Dưới góc độ pháp lý, thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu là khoản thu được ghi nhận trong Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu
do quốc hội ban hành, được tổ chức thu bởi cơ quan Hải quan và được bảo đảm
cưỡng chế thực hiện [19, tr. 179].
Như vậy, có thể hiểu, thuế xuất khẩu, nhập khẩu (hay còn gọi là thuế quan)
là một loại thuế gián thu được Nhà nước đặt ra trong lĩnh vực thương mại quốc tế,
là một yếu tố cấu thành nên giá cả hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, được thu vào

8


các loại hàng hóa được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới, độc lập trong hệ

thống pháp luật thuế trong nước với các nước trên thế giới. Thuế xuất khẩu, nhập
khẩu phải được nộp cho ngân sách nhà nước theo những thủ tục nhất định nhằm
đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và đảm bảo nguồn chi cho các hoạt động
chung của đất nước.
Cũng như nhiều loại thuế khác được Nhà nước ban hành, thuế xuất khẩu,
nhập khẩu tồn tại trong một lĩnh vực cụ thể, có những đặc trưng và vai trò nhất định
trong sự phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy, thuế xuất khẩu, nhập khẩu cũng có
những đặc điểm cơ bản của các loại thuế và những đặc điểm riêng, thể hiện được
bản chất của thuế xuất khẩu, nhập khẩu [43].
Thứ nhất, thuế xuất khẩu, nhập khẩu mang tính quyền lực nhà nước, được
Nhà nước đặt ra và tổ chức truy thu. Nhà nước là chủ thể duy nhất có thẩm quyền
đặt ra và tổ chức thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu, qua đó, thực hiện kiểm sốt, điều
tiết hoạt động xuất, nhập khẩu nói chung và bổ sung nguồn thu ngân sách nhà nước.
Ở Việt Nam, thuế xuất khẩu, nhập khẩu được tổ chức thu bởi cơ quan Hải quan, cơ
quan này cũng kết hợp với các cơ quan có thẩm quyền khác trong quản lý thuế xuất
khẩu, nhập khẩu.
Thứ hai, thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một bộ phận cấu thành nền kinh tế xã hội đất nước. Cụ thể, thuế xuất khẩu, nhập khẩu thể hiện sự tăng trưởng của nền
kinh tế và là một phần vật chất của xã hội thông qua mức thuế nộp vào ngân sách
nhà nước mỗi năm. Mức thuế được nộp vào ngân sách nhà nước phụ thuộc vào sự
phát triển kinh tế - xã hội mỗi quốc gia hay nói cách khác, mức thuế xuất khẩu,
nhập khẩu thay đổi theo từng chu kỳ kinh tế, phụ thuộc và chịu sự ảnh hưởng lớn từ
sự phát triển kinh tế.
Thứ ba, thuế xuất khẩu, nhập khẩu mang tính pháp lý cao, được điều chỉnh
bởi luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu; luật quản lý thuế và các văn bản luật khác có
liên quan. Thuế nói chung và thuế xuất khẩu, nhập khẩu nói riêng là một khoản
đóng góp bắt buộc đối với Nhà nước, mọi tổ chức, cá nhân đều phải tuân thủ những
quy định của pháp luật về thuế.

9



Thứ tư, thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một loại thuế gián thu, là một bộ phận
cấu thành của giá hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Thứ năm, thuế xuất khẩu, nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hóa tiêu dùng
hoặc tư liệu sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới quốc gia, không đánh vào
dịch vụ. Cụ thể, thuế xuất khẩu đánh vào hàng hóa sản xuất trong nước và đưa ra
nước ngồi cịn thuế nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hóa được phép vận chuyển qua
biên giới từ nước ngoài vào nội địa hoặc từ khi phi thuế quan vào thị trường nội địa.
Thứ sáu, thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một thoại thuế ít ổn định. Thu ngân
sách từ loại thuế này phụ thuộc nhiều vào nhu cầu cung - cầu hàng hóa trên thị
trường, giá cả hàng hóa quốc tế, khả năng kiểm sốt nạn buôn lậu và sự giao lưu
liên minh, liên kết và hội nhập kinh tế thế giới.
1.1.2. Khái niệm quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Để hiểu được khái niệm quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu trước hết phải
hiểu được khái niệm quản lý thuế. Có quan điểm cho rằng, thuế là một bộ phận của
nền kinh tế - xã hội nên quản lý thuế cũng là bộ phận của quản lý kinh tế - xã hội [36].
Vì vậy, khái niệm quản lý thuế chắc chắn được chứa đựng trong khái niệm quản lý
nền kinh tế. Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng
pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân, nhằm sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ cấu có thể có để đạt được các mục
tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu
quốc tế [31].
Cũng có quan điểm cho rằng, quản lý thuế là một hoạt động của quản lý thu
ngân sách nhà nước. Dưới góc độ kinh tế, quản lý thu ngân sách nhà nước là quá
trình xây dựng kế hoạch, quản lý quá trình triển khai các biện pháp hành thu, quá
trình nộp các khoản thu vào ngân sách nhà nước và phải tuân thủ các chinh sách chế
độ và các văn bản pháp luật về thu ngân sách nhà nước [1, tr. 114-117].
Khái niệm quản lý thuế hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau được
nhìn nhận dưới những góc độ khác nhau. Tuy nhiên, từ những khái niệm nêu trên,


10


có thể định nghĩa quản lý thuế là hoạt động của Nhà nước, bằng quyền lực của mình
sử dụng pháp luật để tổ chức thu thuế và điều khiển hoạt động thuế nhằm điều tiết
nền kinh tế nói chung và những vấn đề về thuế nói riêng. Quản lý thuế xuất khẩu,
nhập khẩu là một trong những dạng quản lý thuế. Hoạt động này đương nhiên thuộc
quyền lực nhà nước và luôn luôn gắn liền với quyền lực nhà nước. Do đó, quản lý
thuế xuất khẩu, nhập khẩu là quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập
khẩu bằng việc sử dụng quyền lực của Nhà nước, thông qua pháp luật về thuế xuất
khẩu, nhập khẩu và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tiến
hành thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu và điều chỉnh các hoạt động liên quan đến
xuất khẩu, nhập khẩu.
1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản trong quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Mặc dù hoạt động quản lý thuế là hoạt động có đặc trưng là mang tính
quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, tính chất quyền lực ở đây khơng phải là tuyệt đối.
Điều đó có nghĩa rằng, mọi hoạt động quản lý thuế của Nhà nước vẫn phải dựa trên
những nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc quản lý thuế nói chung và quản lý thuế
xuất khẩu, nhập khẩu nói riêng là nền tảng, là cơ sở định hướng cho việc xây dựng
pháp luật về thuế và quản lý thuế, là chuẩn mực cho những cán bộ quản lý thuế thực
hiện công tác quản lý thuế hiệu quả, đáp ứng nhu cầu về xuất khẩu, nhập khẩu của
nền kinh tế, xây dựng môi trường xuất khẩu, nhập khẩu hiện đại, nhanh chóng bắt
kịp với các nước đang phát triển trên thế giới. Các nguyên tắc trong quản lý thuế
xuất khẩu, nhập khẩu bao gồm:
Nguyên tắc công khai và minh bạch: khi thực hiện quản lý thuế xuất khẩu,
nhập khẩu, cơ quan quản lý thuế (cơ quan Hải quan) luôn phải thực hiện công khai
minh bạch trong hoạt động. Cơ sở của nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt
động quản lý thuế bắt nguồn từ các học thuyết về sự kiểm soát (hạn chế) quyền lực
nhà nước. Bởi có một số quan điểm cho rằng, có xu hướng lạm quyền trong một bộ
phận cán bộ, cơng chức quản lý nhà nước trong đó có quản lý thuế. Theo đó, cơ

quan Hải quan với tư cách là chủ thể của quyền lực trong quản lý thuế xuất khẩu,

11


nhập khẩu phải công khai, minh bạch hoạt động của mình với tồn thể xã hội và
cơng chúng. Ngun tắc này là cơ sở cho sự hạn chế quyền lực nhà nước và phòng,
chống tham nhũng trong hoạt động quản lý thuế. Theo Luật Phịng, chống tham
nhũng năm 2018, cơng khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ
chức, đơn vị là việc công bố, cung cấp thơng tin, giải trình về tổ chức bộ máy, việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan, tổ chức, đơn vị [27, Khoản 4 Điều 3]. Do đó, cơ quan Hải quan có
những trách nhiệm trong cơng khai và minh bạch thông tin về quản lý thuế, cụ thể
như sau [28, Điều 18]:
- Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập
khẩu; công khai các thủ tục khai thuế, nộp thuế tại trụ sở, trang thông tin điện tử của
Tổng cục Hải quan và Cục Hải quan các tỉnh.
- Công khai mức thuế của các loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
- Cơng khai mức thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế trên địa bàn;
- Cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế cho đối
tượng nộp thuế.
- Minh bạch quyền, lợi ích, nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân và
cơ quan Hải quan trong quá trình thu thuế, nộp thuế.
Nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân là
đối tượng nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng
nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu gắn liền với quá trình thu thuế, nộp thuế và chỉ được
đảm bảo khi được ghi nhận trong pháp luật về thuế. Vì khi có quy định của pháp
luật, cơ quan Hải quan mới thực thi quyền của đối tượng nộp thuế xuất khẩu, nhập
khẩu một cách đầy đủ. Tuy nhiên, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá
nhân là đối tượng nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu trên thực tế ít được ghi nhận trong

văn bản pháp luật, cụ thể là không được ghi nhận trong Luật Thuế xuất khẩu, nhập
khẩu. Luật Quản lý thuế năm 2019 chỉ dành một điều khoản quy định về quyền của
đối tượng nộp thuế (Điều 16), tuy nhiên, điều luật này chỉ quy định chung về quyền

12


của đối tượng nộp thuế nói chung chứ khơng có quy định về quyền của đối tượng
nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Mặc dù vậy, một khi đã được ghi nhận, đối tượng
nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu cũng có những quyền lợi của đối tượng nộp thuế
được pháp luật ghi nhận. Theo đó, đối tượng nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu có
những quyền lợi sau:
- Được hỗ trợ, hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu;
cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi;
- Được nhận văn bản liên quan đến nghĩa vụ thuế xuất khẩu, nhập khẩu của
các cơ quan Hải quan khi tiến hành thanh tra, kiểm tra, kiểm toán;
- Yêu cầu cơ quan Hải quan giải thích về việc tính thuế, ấn định thuế; yêu
cầu giám định số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
- Được giữ bí mật thơng tin, trừ các thơng tin phải cung cấp cho cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc thông tin công khai về thuế theo quy định của pháp luật;
- Hưởng các ưu đãi về thuế, hoàn thuế theo quy định của pháp luật về thuế;
được biết thời hạn giải quyết hồn thuế, số tiền thuế khơng được hoàn và căn cứ
pháp lý đối với số tiền thuế khơng được hồn;
- Ký hợp đồng với tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế, đại lý
làm thủ tục hải quan để thực hiện dịch vụ đại lý thuế, đại lý làm thủ tục hải quan;
- Được nhận quyết định xử lý về thuế, biên bản kiểm tra thuế, thanh tra
thuế, được yêu cầu giải thích nội dung quyết định xử lý về thuế; được bảo lưu ý
kiến trong biên bản kiểm tra thuế, thanh tra thuế; được nhận văn bản kết luận kiểm
tra thuế, thanh tra thuế, quyết định xử lý về thuế sau thanh tra, kiểm tra của cơ quan
Hải quan;

- Được bồi thường thiệt hại do cơ quan Hải quan, công chức thuộc cơ quan
Hải quan gây ra theo quy định của pháp luật;
- Yêu cầu cơ quan Hải quan xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
của mình;

13


- Khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan
đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
- Khơng bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế, khơng tính tiền chậm nộp
đối với trường hợp do đối tượng nộp thuế thực hiện theo văn bản hướng dẫn và
quyết định xử lý của cơ quan thuế, cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến
nội dung xác định nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế;
- Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của công chức quản lý thuế và tổ chức,
cá nhân khác theo quy định của pháp luật về tố cáo;
- Được tra cứu, xem, in toàn bộ chứng từ điện tử mà mình đã gửi đến cổng
thơng tin điện tử của cơ quan Hải quan theo quy định của Luật Quản lý thuế và
pháp luật về giao dịch điện tử;
- Được sử dụng chứng từ điện tử trong giao dịch với cơ quan Hải quan và
cơ quan, tổ chức có liên quan.
Việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân là đối tượng nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu đã giải quyết vấn đề bảo
vệ quyền của đối tượng nộp thuế khi bị cơ quan quản lý thuế xâm phạm quyền và
việc thực hiện nguyên tắc này cũng là biện pháp tốt nhất để khuyến khích đối tượng
nộp thuế thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình, từ đó, tạo cơ sở giúp đối tượng
nộp thuế có thể giải quyết các tranh chấp về quyền của đối tượng nộp thuế khi có
tranh chấp với cơ quan Hải quan (trong quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu) và cơ
quan quản lý thuế khác trong mối quan hệ pháp luật thuế.
Nguyên tắc đối xử công bằng giữa những đối tượng nộp thuế xuất khẩu,

nhập khẩu: bảo đảm nguyên tắc công bằng trong quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
có vai trị quan trọng trong mối quan hệ bình đẳng giữa cơ quan Hải quan với đối
tượng nộp thuế trong giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp trong quá trình thu thuế, nộp
thuế và bảo đảm hiệu lực quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu, đặc biệt là bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng nộp thuế. Biểu hiện vai trò này được thể hiện
ở những nội dung sau:

14


- Bảo đảm công bằng, không phân biệt đối xử giữa những đối tượng nộp
thuế xuất khẩu, nhập khẩu (các tổ chức, cá nhân) trong q trình xác định thuế,
hồn thuế, miễn giảm thuế, thanh tra thuế, v.v.;
- Bảo đảm sự bình đẳng trong vị trí của đối tượng nộp thuế trước pháp luật,
được đối xử công bằng giữa đối tượng nộp thuế xuất khẩu, nhập khẩu với cơ quan
Hải quan.
Ngồi ra, bảo đảm ngun tắc cơng bằng giữa những đối tượng nộp thuế
xuất khẩu, nhập khẩu cũng góp phần bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của đối tượng nộp thuế, góp phần xây dựng mơi trường thuế xuất khẩu,
nhập khẩu trong sạch, tích cực và nhanh chóng hội nhập với quốc tế.
1.1.4. Cơ chế, mơ hình quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
1.1.4.1. Cơ chế quản lý thuế xuất khẩu nhập khẩu
Cơ chế quản lý (hay còn gọi là phương pháp quản lý) thuế xuất khẩu, nhập
khẩu là các cách thức mà Nhà nước sử dụng để quản lý quá trình thu thuế, nộp thuế
xuất khẩu, nhập khẩu của các đối tượng nộp thuế cho ngân sách nhà nước. Tính đến
nay, Nhà nước ta có hai cơ chế chính để thực hiện quản lý thuế xuất khẩu, nhập
khẩu đó là: cơ chế cơ quan quản lý thuế tự tính thuế và cơ chế đối tượng nộp thuế tự
khai, tự tính thuế (cơ chế cơ quan quản lý thuế tự tính thuế hiện nay đã khơng còn
sử dụng do nhiều bất cập, hạn chế. Hiện nay, nước ta chỉ sử dụng cơ chế đối tượng
nộp thuế tự khai tự tính thuế).

* Cơ chế cơ quan quản lý thuế tự tính thuế
Cơ quan quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu ở nước ta hiện nay chính là cơ
quan hải quan, theo đó, cơ chế cơ quan quản lý thuế tự tính thuế là việc cán bộ hải
quan phải thực hiện rà sốt, kiểm tra tồn bộ các tờ khai thuế của đối tượng nộp
thuế sau đó gửi thông báo cho đối tượng nộp thuế. Cơ chế này hồn tồn mang tính
quyền lực nhà nước và kiểm sốt chặt chẽ hoạt động nộp thuế của đối tượng nộp
thuế. Đây có lẽ là ưu điểm lớn nhất của cơ chế này trong quản lý thuế. Bởi vì,
dường như cơ chế này tồn tại nhiều nhược điểm hơn là những ưu điểm trong công

15


tác quản lý thuế. Cơ chế này đòi hỏi cán bộ hải quan phải thật chú trọng, cẩn thận, tỉ
mỉ trong cơng tác xác định số thuế chính thức phải nộp (thông qua những số liệu mà
cơ quan quản lý thuế thu thập được). Những sai sót dường như khơng được phép
trong cơ chế này, tiến độ thu thuế chậm, mang nặng tính quyền lực nhà nước và
khơng khuyến khích sự tự giác trong công tác quản lý thuế. Do đó, nhiều quan điểm
cho rằng, cơ chế này đi ngược lại với sự phát triển kinh tế đất nước, một phần kìm
hãm sự phát triển kinh tế và khơng tạo ra sự minh bạch trong quản lý thuế. Hiện
nay, cơ chế này gần như đã hoàn toàn bị loại bỏ trong quản lý thuế xuất khẩu, nhập
khẩu, và thay vào đó là những cơ chế mới hơn, tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm
đối với đối tượng nộp thuế.
* Cơ chế đối tượng nộp thuế tự khai, tự tính thuế
Cơ chế đối tượng nộp thuế tự khai, tự tính thuế là cơ chế quản lý thuế trong
đó các đối tượng nộp thuế tự căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh trong kỳ kê
khai và những quy định của pháp luật về thuế để tự xác định nghĩa vụ thuế của
mình, từ đó, kê khai, nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Đối tượng nộp thuế phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, chính xác của việc kê khai trên
cơ sở kiểm tra giám sát của cơ quan có thẩm quyền.
Ưu điểm của cơ chế này là hoạt động dựa trên ý thức tuân thủ pháp luật của

đối tượng nộp thuế và được coi là một cơ chế quản lý thuế hiện đại, góp phần tăng
tính minh bạch trong quản lý thuế và giảm bớt chi phí quản lý trong quản lý thuế,
thúc đẩy cải cách hành chính thuế. Cơ chế này cũng cho phép các cơ quan quản lý
thuế tập trung quản lý thuế theo hướng chun mơn hóa, ưu tiên cải cách các quy
trình quản lý rõ ràng, tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát để kịp thời phát
hiện ra các hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Mục tiêu của cơ chế đối tượng nộp
thuế tự khai, tự tính thuế một mặt là giảm bớt áp lực về thủ tục hành chính cho đối
tượng nộp thuế cũng như cơ quan quản lý thuế; tạo sự chủ động, tiết kiệm thời gian,
công sức cho đối tượng nộp thuế cũng như nâng cao trách nhiệm pháp lý của đối
tượng nộp thuế đối với cơ quan quản lý thuế. Mặt khác, nhờ việc không mất thời

16


gian tính tốn lại số thuế phải nộp của đối tượng nộp thuế và phát hành thông báo
thuế mà cán bộ thuế có điều kiện tập trung thời gian và công sức cho các công việc
quản lý khác như: công tác phục vụ, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh
hiểu và tự giác thực hiện các nghĩa vụ thuế của mình đối với ngân sách nhà nước,
công tác thanh tra, kiểm tra, đôn đốc thu nộp và cưỡng chế thuế… Triển khai thực
hiện cơ chế này sẽ tạo điều kiện cho ngành thuế đẩy mạnh hiện đại hóa cơng tác
quản lý mà cụ thể là đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học trong công tác quản
lý thu thuế. Đó là tiền đề để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế [35].
Mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng cơ chế này vẫn tồn tại những nhược điểm
nhất định cần các cơ quan chức năng tiếp tục nghiên cứu và giải quyết. Cụ thể:
Thứ nhất, nguy cơ trốn thuế, thất thoát thuế lớn nếu trình độ dân trí thấp và
khơng có biện pháp quản lý thuế phù hợp. Về cơ bản, một trong những mục tiêu của
cơ chế này là tạo điều kiện cho cơ quan thuế có điều kiện về thời gian để tuyên
truyền và phổ biến pháp luật về thuế, nâng cao nhận thức của người dân trong tự
giác thực hiện nghĩa vụ thuế. Nếu mục tiêu này không thực hiện được do những lỗi
chủ quan hoặc khách quan sẽ dẫn đến những hậu quả nặng nề hơn so với cơ chế cơ

quan quản lý thuế tính thuế và gửi thơng báo cho đối tượng nộp thuế. Điều này rất
dễ dẫn đến các tình trạng đối tượng nộp thuế lợi dụng việc khơng kiểm tra tính tốn
lại số thu thường kỳ của cơ quan thuế để cố tình kê khai sai nhằm trốn thuế. Trong
trường hợp do hiểu biết các luật thuế của đối tượng nộp thuế kém và công tác
hướng dẫn của cơ quan quản lý thuế không hiệu quả thì có thể có tình trạng kê khai
sai số thuế phải nộp một cách vô ý. Không thể phủ nhận rằng, ở một số địa phương
ở nước ta, trình độ dân trí cịn thấp, ý thức tự giác và tn thủ pháp luật của người
dân chưa cao thì nguy cơ thất thốt thuế là rất lớn.
Thứ hai, địi hỏi cao về cơ sở vật chất và trình độ quản lý của các cơ quan
quản lý thuế. Để áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp một cách hiệu quả đòi hỏi cơ sở vật
chất của cơ quan quản lý thuế phải được hiện đại hóa, đặc biệt là hệ thống cơ sở vật
chất phục vụ cho công tác thông tin, liên lạc sao cho việc kiểm tra, đối chiếu số liệu

17


có thể phục vụ nhanh chóng và chính xác. Đổi mới và nâng cao hiệu quả của hệ
thống công nghệ thông tin thực tế vẫn đang là thách thức lớn đối với các cơ quan
quản lý thuế nói riêng và cả nước ta nói chung. Trong tình trạng phải có sự đầu tư
rất lớn về cơ sở vật chất trong khi ngân sách nhà nước cịn hạn hẹp thì đây quả thực
là bước đi khó đối với nước ta. Mặc dù cơ sở vật chất vẫn đang từng bước được
nâng cấp nhưng so với sự phát triển của nền kinh tế nước ta đi kèm theo đó là sự phát
triển của thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì sự cố gắng này vẫn chưa thực sự thỏa đáng.
Mặt khác, trình độ quản lý của các quan hành pháp hiện nay còn thấp, nếu khơng có
sự chuẩn bị kỹ càng có thể xảy ra tình trạng bng lỏng cơng tác quản lý thuế.
1.1.4.2. Mơ hình quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Trong quá trình phát triển, Nhà nước phải xác định được chức năng, nhiệm
vụ của mình và tập trung thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực
của đời sống xã hội thông qua bộ máy quản lý nhà nước và cung cấp các loại dịch
vụ, hàng hóa cho xã hội, cơng dân bằng các nguồn lực mà nhà nước quản lý và

phân phối. Quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một trong những lĩnh vực quản lý
nhà nước và Nhà nước sử dụng thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một trong những công
cụ để điều tiết nền kinh tế. Ở nước ta, cơ quan quản lý thuế ở Trung ương là Tổng
cục thuế đối với thuế nội địa và Tổng cục Hải quan đối với thuế xuất khẩu, nhập
khẩu [28, khoản 2 Điều 2]. Cơ quan Hải quan là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính [37]
và là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế xuất khẩu, nhập khẩu, được Nhà
nước giao nhiệm vụ quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu, đảm bảo hoạt động khai
thuế, thu thuế hiệu quả cao.
Để quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu có hiệu quả cao, cơ quan Hải quan
phải tổ chức quản lý thuế theo một mơ hình nhất định. Hiện nay, mơ hình được áp
dụng nhiều nhất là mơ hình tổ chức bộ máy quản lý thuế thành những đơn vị chức
năng. Cụ thể, Tổng cục Hải quan phân bổ hoạt động của bộ máy theo chức năng,
nhiệm vụ của từng bộ phận, ví dụ, phòng thanh tra, kiểm tra; phòng xử lý vi phạm;
phòng giám sát và quản lý; phòng thuế xuất khẩu, nhập khẩu; phòng quản lý rủi

18


ro… Mơ hình tổ chức quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo chức năng ở mỗi cục
Hải quan có thể khác nhau về từng bộ phận chức năng do sự khác biệt về địa bàn
quản lý. Tuy nhiên, trong bất kỳ bộ máy nào thì mỗi đơn vị được phân công phải
thực hiện một hoặc một số chức năng nhất định và có mối liên hệ mật thiết với nhau
trong quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
Mơ hình quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo chức năng đã giúp cơ quan
Hải quan chủ động hơn trong việc thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Mỗi nhiệm vụ
được giao sẽ được phân chia phù hợp với từng bộ phận, nhờ đó, cơng vụ sẽ được
giải quyết nhanh chóng và hiệu quả hơn. Ngoài ra, việc phân quyền quản lý thuế
theo các phịng chức năng giúp cơ quan thuế có thể chun mơn hóa trong hoạt
động quản lý. Mỗi bộ phận chức năng sẽ có những cán bộ, cơng chức chun trách
quản lý cơng vụ, nhờ đó, những cơng việc cần chuyên môn cao sẽ được giải quyết

ổn thỏa và đáp ứng nhu cầu của người nộp thuế. Mỗi bộ phận chức năng sẽ sắp xếp
cán bộ có chun mơn phù hợp với nhiệm vụ được giao, từ đó, cũng tạo ra những
cán bộ, cơng chức có tâm huyết với nghề, luôn luôn cố gắng, nỗ lực phục vụ công
việc. Mô hình này cũng tăng cường tính minh bạch, cơng khai trong công tác quản
lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Giảm thiểu hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong
quản lý do có sự liên hệ, kiểm tra và giám sát lẫn nhau giữa các bộ phận chức năng.
Ở góc độ vĩ mơ hơn, mơ hình quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo chức năng
cũng dễ dàng thích nghi với những thay đổi trong chính sách và pháp luật về thuế.
Ví dụ, khi luật quản lý thuế sửa đổi, bổ sung hoặc bị thay thế, một bộ phận chức
năng chuyên về pháp luật thuế sẽ nghiên cứu và đưa ra những thay đổi phù hợp với
mỗi bộ phận thay vì tất cả các bộ phận phải tự tìm hiểu, thay đổi theo quy định của
pháp luật.
Mơ hình quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu theo chức năng đã được triển
khai từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, mơ hình này
vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định. Hiện nay, quá trình thu thuế đã theo cơ chế
người nộp thuế tự khai, tự tính thuế, điều này địi hỏi đối tượng nộp thuế phải có

19


kiến thức pháp luật về thuế và ý thức tự giác trong quá trình nộp thuế. Tuy nhiên,
vấn đề này vẫn đang là một trong những tồn tại chưa có biện pháp giải quyết thích
hợp. Trong khi đó, mơ hình quản lý thuế theo chức năng lại làm nổi bật hơn bất cập
này khi mỗi bộ phận chức năng lại chỉ quản lý theo hướng hẹp (một khía cạnh nhất
định), công việc mỗi bộ phận tách biệt nhau dễ dẫn đến người nộp thuế lách luật và
thực hiện hành vi trái với quy định của pháp luật. Vì vậy, lại địi hỏi những bộ phận
có chức năng tổng hợp, quản lý và điều phối hoạt động của các bộ phận chức năng.
Hệ thống cơ sở vật chất về công nghệ thông tin cũng là một trong những
mấu chốt thành - bại của mơ hình này. Nếu cơ quan quản lý thuế xuất khẩu, nhập
khẩu có hệ thống cơ sở vật chất tốt, bộ phận công nghệ thông tin nhanh, nhạy sẽ

giúp ích rất nhiều cho các bộ phận chức năng quản lý tốt thông tin người nộp thuế,
kết nối thông tin giữa các bộ phận với nhau, giảm thiểu thất thu thuế, tăng ngân
sách nhà nước. Ngược lại, một hệ thống cơ sở vật chất thiếu thốn, nghèo nàn, hệ
thống kết nối thông tin kém, các bộ phận làm việc không thông suốt sẽ dễ dẫn đến
thất thu thuế và khơng hồn thành nhiệm vụ của Nhà nước giao phó trong quản lý
thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Đây cũng đang là một thực trạng của một số địa bàn trên
cả nước, đặc biệt là những địa bàn ở vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế cịn khó
khăn, hệ thống cơ sở hạ tầng về cơng nghệ thơng tin cịn yếu kém dẫn đến hoạt
động thu thuế còn gặp nhiều khó khăn.
Tính chun mơn cao trong mơ hình quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
cũng đang là một trong những bất cập của mơ hình này. Trong mơ hình quản lý thuế
xuất khẩu, nhập khẩu theo chức năng, mỗi cơ quan Hải quan đều yêu cầu cán bộ,
công chức phải có trình độ chun mơn sâu, tuy nhiên, ở một số địa bàn, yêu cầu
này vẫn chưa thực sự được đáp ứng.
1.2. Những vấn đề cơ bản về pháp luật quản lý thuế xuất, nhập khẩu
1.2.1. Khái niệm pháp luật về quản lý thuế xuất, nhập khẩu
Như đã phân tích ở phần trên, thuế là một hiện tượng tất yếu và Nhà nước
sử dụng thuế như một công cụ để điều tiết nền kinh tế. Nhà nước có quyền đánh

20


thuế và sử dụng pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ về thuế. Quan hệ thu thuế,
nộp thuế giữa Nhà nước và dân cư phải được thực hiện dựa trên những căn cứ pháp
lý nhất định, đó chính là pháp luật thuế. Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu thuế, nộp thuế
giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và đối tượng nộp thuế nhằm hình thành
nguồn thu ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước. Pháp luật
về thuế xuất khẩu, nhập khẩu cũng là một bộ phận của pháp luật về quản lý thuế.
Trong đó, pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu cũng chính là công cụ để Nhà nước

thu thuế, quản lý thuế và điều chỉnh các mối quan hệ của thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
Vì vậy, có thể hiểu khái niệm pháp luật về thuế xuất khẩu nhập khẩu là tổng
hợp những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong
hoạt động quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu giữa cơ quan Hải quan, đối tượng
nộp thuế và các chủ thể khác. Pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu quy định về
quyền và nghĩa vụ của cơ quan quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu, đối tượng nộp
thuế, các chủ thể khác trong hoạt động quản lý thuế và thủ tục hành chính trong thu
thuế, nộp thuế nhằm đảo bảo nguồn thu ngân sách nhà nước và thực hiện các mục
tiêu khác.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập
khẩu là công cụ chủ yếu được Nhà nước sử dụng để thực hiện công tác quản lý
thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu có phạm
vi điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu của Nhà nước, hay nói cách khác là các quan hệ phát sinh
trong quá trình tổ chức và thực hiện các quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu [18, tr. 22]. Các quan hệ mà pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập
khẩu điều chỉnh bao gồm:
- Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý thuế (mối quan hệ
giữa cơ quan Hải quan và các cơ quan khác có liên quan trong hoạt động quản lý thuế
xuất khẩu, nhập khẩu). Các cơ quan khác có liên quan có thể bao gồm các cơ quan có

21


thể cung cấp thông tin về đối tượng nộp thuế và phối hợp với cơ quan Hải quan trong
việc tuyên truyền, nâng cao kiến thức và ý thức tự giác của đối tượng nộp thuế. Hoạt
động quản lý thuế của các cơ quan có thẩm quyền bao gồm những nhóm hành vi cơ
bản được tiến hành trên cơ sở tuân thủ các ngun tắc quản lý hành chính.
- Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế (mối
quan hệ thường phát sinh giữa cơ quan Hải quan và đối tượng nộp thuế). Mối quan

hệ này thường phát sinh trong quá trình thu thuế, nộp thuế của đối tượng nộp thuế
cho cơ quan Hải quan. Để đảm bảo việc nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, đảm bảo sự
công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, pháp luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu
có những quy định cơ bản để điều chỉnh những loại hành vi của đối tượng nộp thuế.
- Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình xử lý vi phạm và khiếu nại về
thuế xuất khẩu, nhập khẩu (mối quan hệ giữa cơ quan Hải quan, người nộp thuế và
bên thứ ba nếu xảy ra tranh chấp). Bên thứ ba ở đây có thể là Tòa án hoặc bất kỳ
một cơ quan nào khác có chức năng xét xử.
Ở một góc nhìn khác, Nhà nước, với tư cách là chủ thể quyền lực, luôn là
một bên tham gia quan hệ thuế và trực tiếp chi phối các quan hệ đó. Các mối quan
hệ đều nhằm hướng tới việc chuyển giao bắt buộc một nguồn tài chính cho nhà
nước. Nguồn tài chính đó nhằm phục vụ lợi ích cơng cộng, điều chỉnh xã hội ở tầm
vĩ mơ [38[.
1.2.2. Đặc điểm và vai trị của pháp luật về quản lý thuế
xuất khẩu, nhập khẩu
1.2.2.1. Đặc điểm của pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu có những đặc điểm cơ bản sau:
- Pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu do Nhà nước ban hành và được
Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau. Pháp luật về thuế
xuất khẩu, nhập khẩu được ban hành thơng qua rất nhiều những trình tự, thủ tục
chặt chẽ và phức tạp với sự tham gia của rất nhiều các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (ví dụ như thực tiễn từ cơ quan Hải quan, các tổ chức và cá nhân là đối tượng

22


nộp thuế và các chuyên gia pháp lý). Vì vậy, pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu
ln có tính khoa học, được sắp xếp logic, chặt chẽ trong điều chỉnh các quan hệ
phát sinh trong quá trình thu thuế, nộp thuế. Với sự bảo đảm của Nhà nước, pháp
luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu sẽ được thực thi từ cơ quan quản lý thuế xuất

khẩu, nhập khẩu cho đến đối tượng nộp thuế và các cơ quan, tổ chức có liên quan.
- Pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu mang tính quyền lực nhà nước.
Nhà nước thực thi quyền kiểm soát, điều chỉnh các quan hệ quản lý xuất khẩu, nhập
khẩu bằng pháp luật. Nhà nước thực hiện các biện pháp cưỡng chế để thực thi
quyền lực này.
1.2.2.2. Vai trò của pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu nhập khẩu có những vai trị quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng như đảm bảo sự ổn định cho
các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu. Cụ thể, pháp luật quản lý thuế xuất khẩu, nhập
khẩu có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu tạo cơ sở pháp lý
an toàn cho hoạt động thu thuế và nộp thuế, góp phần phân phối lại thu nhập, tăng
thu Ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu công của Nhà nước. Khoản thu từ
thuế xuất khẩu, nhập khẩu là một trong những khoản thu mà ngân sách trung ương
được hưởng toàn bộ. Theo đó, đối với thuế nhập khẩu, đối tượng nộp thuế phải nộp
thuế ngay từ khi hàng hóa được nhập khẩu thông qua các cơ quan Hải quan, khoản
thuế này sẽ được chuyển hóa thành giá sản phẩm bán ra thị trường và thực tế người
tiêu dùng là người phải chịu khoản thuế này. Đối với thuế xuất khẩu, đối tượng nộp
thuế phải nộp thuế xuất khẩu trước khi hàng hóa được chuyển qua biên giới, đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy
định tất cả các hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải nộp thuế cho ngân sách nhà
nước, tuy nhiên vẫn có những ngoại lệ, đó là trường hợp được hoàn thuế hoặc miễn
thuế.

23


Thứ hai, pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu chính là sự cụ thể hóa
chính sách thuế, chính sách kinh tế và chính sách đối ngoại của Nhà nước, từ đó
điều tiết nền kinh tế trong nước và đảm bảo về mặt ngoại giao với các quốc gia khác

trên thế giới. Mỗi loại thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu lại đóng một vai trị cụ thể
trong điều tiết nền kinh tế và đảm bảo chính sách về thuế. Cụ thể, mục tiêu (đối
tượng) của pháp luật về thuế xuất khẩu có thể là chính sách hạn chế xuất khẩu và
bình ổn giá một số mặt hàng trong nước hoặc có thể bảo vệ nguồn cung của hàng
hóa trong nước đối với một số mặt hàng mà trong nước đang cần hoặc có dấu hiệu
khan hiếm. Pháp luật về thuế xuất khẩu cũng có thể hạn chế xuất khẩu để giảm
xung đột thương mại với nước khác, hoặc trong trường hợp muốn nâng giá mặt
hàng nào đó trên thị trường quốc tế (đối với nước chiếm tỷ trọng chi phối trong sản
xuất mặt hàng đó) thì việc hạn chế xuất khẩu có thể được Nhà nước cân nhắc. Đối
tượng của chính sách thuế nhập khẩu là bảo hộ nền sản xuất và điều tiết các hành vi
của người tiêu dùng trong nước. Với việc quy định về thuế nhập khẩu, Nhà nước
đánh thuế vào những hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài vào trong nước, tạo ra mức
giá chênh lệch giữa hàng hóa trong nước sản xuất và hàng hóa nhập khẩu, nhờ vậy,
nền sản xuất trong nước có thể cạnh tranh tốt hơn về giá đối với hàng hóa được
nhập khẩu. Tuy nhiên, theo xu thế phát triển và hội nhập như hiện nay, cùng với
việc thực hiện các hiệp định thương mại tự do, mục tiêu áp dụng thuế đối với hàng
nhập khẩu là 0% khiến cho mục tiêu của Nhà nước đặt ra đối với thuế nhập khẩu
đang dần không thể thực hiện được một cách toàn vẹn.
Thứ ba, pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu là cơ sở pháp lý ghi nhận
nghĩa vụ và quyền lợi của các chủ thể tham gia vào quan hệ thu thuế, nộp thuế.
Theo đó, pháp luật có quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, cá nhân, tổ
chức trong mối quan hệ quản lý thuế. Mỗi chủ thể tham gia vào mối quan hệ trong
quá trình thu thuế, nộp thuế đều có những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định {những
nhiệm vụ quyền hạn của các chủ thể này đều được pháp luật ghi nhận trong những
văn bản pháp lý cụ thể. Tuy nhiên, những quy định này vẫn còn rải rác và chưa thực

24


sự tập trung (đặc biệt trong pháp luật Việt Nam)}. Ví dụ, người nộp thuế có quyền

được hỗ trợ, hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin, tài liệu để thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế; cơ quan Hải quan có trách nhiệm tổ chức thực hiện quản lý
thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu, giải thích, cung cấp thông tin liên quan đến xác định
nghĩa vụ nộp thuế cho người nộp thuế… Pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu
cũng là căn cứ pháp lý để giải quyết những tranh chấp pháp sinh trong quá trình
thực hiện thu thuế, nộp thuế.
1.2.3. Phân loại pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu
Pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu là tổng hợp những văn bản
quy phạm pháp luật quy định về thuế xuất khẩu, nhập khẩu và quản lý thuế xuất
khẩu, nhập khẩu. Có nhiều căn cứ để phân loại pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu,
nhập khẩu. Sau đây, tác giả luận văn xin đưa ra một số căn cứ phân loại pháp luật về
quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu.
- Căn cứ vào giá trị pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
thuế, pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu được phân chia thành: các văn
bản luật và các văn bản dưới luật. Các văn bản luật là văn bản có giá trị pháp lý cao
nhất, tất cả các văn bản khác khi ban hành phải căn cứ vào văn bản luật, không
được trái, không được mâu thuẫn với các quy định trong các văn bản luật; các văn
bản dưới luật là những văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành
theo trình tự, thủ tục và hình thức được luật quy định và có hiệu lực pháp lý thấp
hơn các văn bản luật. Theo đó, các văn bản luật điều chỉnh quản lý thuế xuất khẩu,
nhập khẩu bao gồm Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu, Luật Quản lý thuế, các luật
khác có liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và các văn bản dưới luật bao
gồm các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu và
Luật Quản lý thuế.
- Căn cứ vào nội dung của các quy phạm pháp luật về quản lý thuế xuất
khẩu, nhập khẩu, pháp luật về quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu được phân chia
thành: các quy phạm pháp luật quy định những quy định chung trong quản lý thuế

25



×