Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Luan van thạc sĩ luật học pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề từ thực tiễn thi hành tại tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.01 KB, 80 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Làng nghề, một trong những nét đặc thù của nông thôn Việt Nam, đóng vai
trị quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội ở nơng thơn, góp phần chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển làng nghề đã
góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, giải quyết việc làm lúc nông nhàn, tăng
thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân... Tuy nhiên, trong thời gian
qua, sự phát triển của các làng nghề, nhất là phát triển theo hướng bền vững vẫn
chưa nhận được sự quan tâm đầy đủ và chỉ đạo sát sao của các cấp chính quyền.
Nhìn chung, sản xuất tại khơng ít làng nghề cịn sử dụng các thiết bị thủ công, đơn
giản, công nghệ lạc hậu, hiệu quả sử dụng nguyên, nhiên liệu thấp, mặt bằng sản
xuất nhỏ hẹp, ý thức người dân trong bảo vệ mơi trường (BVMT) và bảo vệ sức
khỏe cịn hạn chế. Do đó, nhiều hoạt động sản xuất của làng nghề đã và đang tạo
sức ép không nhỏ đến chất lượng môi trường sống và sức khỏe của cộng đồng
người dân sinh sống tại làng nghề và các khu vực xung quanh.
Tại tỉnh Nam Định, hiện có 129 làng nghề, với 310 cơ sở, 23.600 hộ sản xuất
và trên 55.200 lao động, trong đó có 80 làng nghề đã được Ủy ban nhân dân (UBND)
tỉnh công nhận, 29 làng nghề truyền thống. Sản phẩm chủ yếu của làng nghề Nam
Định là đồ gỗ, mây tre đan, may mặc, thêu ren, cơ khí, đúc đồng, cây cảnh… Trong
đó, sản phẩm may mặc có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, nhiều làng nghề vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như: trình độ tay
nghề của lao động, trình độ quản lý của các chủ cơ sở sản xuất, doanh nghiệp làng
nghề và sức cạnh tranh sản phẩm làng nghề chưa cao. Tình trạng ơ nhiễm mơi
trường (ƠNMT) làng nghề ngày càng nghiêm trọng, nhất là các làng nghề sản xuất
cơ khí - đúc, mây tre đan, sơn mài; ý thức tuân thủ các quy tắc về bảo đảm an tồn
vệ sinh lao động, phịng chống cháy nổ, kiểm sốt ƠNMT của nhiều chủ cơ sở và
người lao động còn thấp; hầu hết các làng nghề đều chưa có quy hoạch đầu tư, quản

1



lý và xử lý các nguồn thải cả trước mắt cũng như lâu dài, làm cho tình trạng ƠNMT
ngày một phổ biến và nghiêm trọng hơn đối với môi trường và ảnh hưởng tới sức
khỏe của cộng đồng, ảnh hưởng tới mỹ quan xã hội.
Trước tình trạng chung về ƠNMT từ các làng nghề, thời gian qua, pháp luật
về kiểm sốt ƠNMT làng nghề đã khơng ngừng được hồn thiện để khắc phục vấn
đề này. Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, mà việc áp dụng,
thực thi pháp luật về kiểm sốt ƠNMT đối với các làng nghề trên thực tế còn nhiều
hạn chế, bất cập. Biểu hiện cụ thể nhất là tại tỉnh Nam Định - nơi tập trung nhiều
làng nghề, cũng như có nhiều chính sách khuyến khích, BVMT làng nghề.
Từ những lý do trên cho thấy, tôi chọn đề tài: "Pháp luật về kiểm sốt ơ
nhiễm mơi trường làng nghề từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Nam Định" làm đề tài
nghiên cứu của luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về làng nghề,
BVMT tại làng nghề và pháp luật kiểm sốt ƠNMT làng nghề, có giá trị tham khảo
tốt với đề tài, nổi bật là:
- Về sách, báo: Sách tham khảo "Làng nghề Việt Nam và môi trường"
(2005), Nhà xuất bản Khoa học kĩ thuật, Hà Nội, do tác giả Đặng Kim Chi chủ biên,
là cơng trình nghiên cứu khá tồn diện về làng nghề và tình trạng ÔNMT làng nghề
hiện nay; bài viết "Thực trạng thực thipháp luật bảo vệ môi trường tại các làng
nghề ở Việt Nam", Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, nêu lên hiện trạng
ÔNMT làng nghề cũng như các cách giải quyết, khắc phục; bài viết "Giải pháp bảo
đảm thực hiện pháp luật về môi trường làng nghềvùng đồng bằng sơng Hồng", Tạp
chí Dân chủ và pháp luật (2015) của tác giả Nguyễn Trần Điện đã đề xuất các
phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
- Về luận án, luận văn: Luận án "Pháp luật kiểm soát ô nhiễm môi trường
do các hoạt động của làng nghề gây ra ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Lê Kim
Nguyệt (2014), Trường Đại học Luật Hà Nội, đi sâu nghiên cứu về kiểm soát

2



ƠNMT làng nghề, bao gồm việc phân tích, bình luận các quy định pháp luật hiện
hành cũng như đề xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật kiểm sốt ƠNMT làng
nghề hiện nay; Luận án "Thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường làng nghề ở các
tỉnh đồng bằng sông Hồng Việt Nam" của Nguyễn Trần Điện (2016), Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nghiên cứu về việc thực tiễn thực hiện các quy
định pháp luật BVMT làng nghề tại nhiều tỉnh thành trong đó có Hà Nội, chỉ ra
những bất cập, hạn chế trong việc thực hiệnpháp luật cũng như các giải pháp khắc
phục những hạn chế của pháp luật về BVMT làng nghề...
Tuy nhiên, chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về việc thi hành các quy
định pháp luật kiểm sốt ƠNMT làng nghề trên địa bàn tỉnh Nam Định, cũng như
chưa cập nhật được một số nội dung mới được pháp luật sửa đổi, bổ sung tại Luật
BVMT 2014 và Nghị định số 19/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật BVMT (sau đây gọi tắt là Nghị định số
19/2015/NĐ-CP).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận, tìm hiểu, phân tích đánh giá
các quy định của pháp luật hiện hành về kiểm sốt ƠNMT làng nghề tại Việt Nam,
cũng như thực trạng thi hành pháp luật kiểm sốt ƠNMT làng nghề tại tỉnh Nam
Định, đề tài đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng
nghề tại Việt Nam và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật tại tỉnh Nam Định.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về kiểm sốt ƠNMT làng
nghề và pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề.
- Tham khảo, vận dụng những kinh nghiêm hay từ nước ngồi về kiểm sốt
ƠNMT làng nghề.
- Đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề tại Việt
Nam, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế của pháp luật.


3


- Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề tại
tỉnh Nam Định, chỉ rõ những kết quả đạt được và hạn chế, khó khăn, vướng mắc và
nguyên nhân.
- Đề xuất những định hướng và giải pháp hồn thiện pháp luật về kiểm sốt
ƠNMT làng nghề và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng
nghề tại tỉnh Nam Định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những đặc trưng cơ bản của làng nghề ở Việt Nam nói chung, tỉnh Nam
Định nói riêng; các chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà
nước về kiểm sốt ƠNMT làng nghề; hoạt động thực tiễn kiểm sốt ƠNMT làng
nghề tại tỉnh Nam Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật hiện
hành về kiểm sốt ƠNMT làng nghề trong các văn bản Luật BVMT, các nghị định,
thông tư hướng dẫn…; và thực trạng ÔNMT làng nghề tại tỉnh Nam Định, cũng như
thực tiễn áp dụng của cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức, cá nhân trên địa bàn
tỉnh Nam Định.
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Trên phạm vi tồn quốc, trong đó tập
trung ở tỉnh Nam Định.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Từ năm 2015 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để tài được thực hiện dựa trên phương pháp luận Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng phương
pháp luận tổng hợp trong nghiên cứu sinh thái và môi trường; và sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:

- Các phương pháp phân tích, diễn giải, so sánh, … để nghiên cứu Chương 1.
- Các phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu, đánh giá, phân tích… để
nghiên cứu Chương 2.

4


- Các phương pháp tổng hợp, quy nạp… để nghiên cứu Chương 3.
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
6.1 Câu hỏi nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn đạt kết quả, cần trả lời được những câu hỏi sau:
- Kiểm sốt ơ nhiểm mơi trường làng nghề và pháp luật về kiểm sốt
ƠNMT làng nghề là gì? Nó có vai trị như thế nào trong BVMT?
- Thực trạng pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề tại tỉnh Nam Định
như thế nào? Có những nguyên nhân nào dẫn đến việc kiểm sốt ƠNMT làng nghề
tại tỉnh Nam Định vẫn cịn những hạn chế?
- Có những giải pháp nào nhằm đảm bảo cơ chế thực hiện việc kiểm sốt
ƠNMT làng nghề tại tỉnh Nam Định.
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Những nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện pháp luật về kiểm sốt ƠNMT
làng nghề tại tỉnh Nam Định chưa hiệu quả, như: Hệ thống pháp luật về kiểm sốt
ƠNMT làng nghề chưa hồn thiện, cịn nhiều hạn chế khi ứng dụng vào thực tiễn
đời sống; nhận thức của người dân về vai trò, tầm quan trọng của thống pháp luật về
kiểm sốt ƠNMT làng nghề chưa đầy đủ; ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao; cơ chế
phối hợp giữa các chủ thể có liên quan trong xử lý ÔNMT làng nghề...
- Những giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về kiểm sốt ƠNMT
làng nghề, như: Hồn thiện hệ thống pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề tại
Việt Nam; xây dựng và hình thành hệ tư tưởng, thay đổi tư duy mỗi con người trong
tiếp cận và thu thập, xử lý kiểm sốt ơ nhiễm mơi làng nghề.
7. Những đóng góp của luận văn

Đề tài luận văn sẽ mang lại nhiều ý nghĩa về khoa học và thực tiễn cụ thể
như sau:
- Về mặt khoa học: Đề tài bổ sung thêm nguồn nghiên cứu khoa học trong
hệ thống các cơng trình đã cơng bố liên quan đến pháp luật về kiểm sốt ƠNMT
làng nghề; chỉ ra những hạn chế trong quy định pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng

5


nghề Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật về kiểm
sốt ƠNMT làng nghề Việt Nam trong thời gian tới.
- Về mặt thực tiễn: Đề tài rà sốt, đánh giá lại tồn bộ hệ thống pháp luật
quy định về kiểm sốt ƠNMT làng nghề tại Việt Nam. Từ đó, đưa ra những giải
pháp mang tính ứng dụng cao, hiệu quả trong thực tiễn nhằm xử lý và kiểm sốt
ƠNMT làng nghề tại Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường làng
nghề và pháp luật về kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường làng nghề.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về kiểm sốt ơ nhiễm môi trường làng
nghề tại Việt Nam từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Nam Định.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hồn thiện pháp luật về kiểm sốt ơ
nhiễm môi trường làng nghề và nâng cao hiệu quả thi hành tại tỉnh Nam Định.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ KIỂM SỐT Ơ NHIỄM MƠI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ
VÀ PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SỐT Ơ NHIỄM MÔI TRƯỜNG LÀNG NGHỀ
1.1. Những vấn đề lý luận về kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường làng nghề
1.1.1. Khái quát về làng nghề và ô nhiễm môi trường làng nghề
1.1.1.1. Khái quát về làng nghề
Từ góc độ lịch sử, xã hội, hiện vẫn có nhiều cách giải thích khác nhau về
"làng nghề". Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng, "Làng nghề là một làng tuy vẫn còn
trồng trọt theo lối tiểu nơng và chăn ni nhưng cũng có một số nghề phụ khác như
đan lát, gốm sứ, làm tương..., song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một
tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ
chức), có ơng trùm, ơng cả... cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy
trình cơng nghệ nhất định "sinh ư nghệ, tử ư nghệ", "nhất nghệ tinh, nhất thân
vinh", sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ cơng,
những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có
quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng xung quanh và với thị trường đô thị
và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả nước ngoài. Định nghĩa
này hàm ý về các làng nghề truyền thống, đó là những làng nghề nổi tiếng từ hàng
nghìn năm [1]. Với nhà nghiên cứu Trần Minh Yến, "Làng nghề là một thiết chế kinh
tế - xã hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong
một không gian địa lý nhất định trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng
nghề thủ cơng là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, xã hội và văn hóa" [2].
Nhà nghiên cứu Bùi Văn Vượng cho rằng: "Làng nghề truyền thống là làng nghề cổ
truyền làm nghề thủ công. Ở đấy không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng
thủ công. Người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời làm nghề nơng.
Nhưng u cầu chun mơn hóa cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất
hàng truyền thống ngay tại làng quê của mình" [3].

7



Thế nhưng, trải qua nhiều bước phát triển, có thể thấy cho đến nay, làng
nghề khơng cịn bó hẹp trong khuôn khổ công nghệ thủ công (tuy thủ công vẫn là
chính), mà một số cơng đoạn đã được cơ khí hóa hoặc bán cơ khí hóa. Thêm nữa,
trong các làng nghề khơng chỉ có các cơ sở sản xuất hàng thủ cơng mà đã có những
có sở dịch vụ và ngành nghề phục vụ cho sản xuất (các doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ phân phối hàng hóa, cung ứng đầu vào và đầu ra cho sản phẩm làng nghề).
Cũng do có nhiều cách hiểu khác nhau về làng nghề (như nêu trên), nên
cách phân loại làng nghề hiện cũng rất đa dạng. Cụ thể:
- Phân loại theo số lượng làng nghề, gồm có: (i) Làng nghề một nghề, là
những làng ngồi nghề nơng ra, chỉ có thêm một nghề thủ cơng duy nhất; (ii) Làng
nhiều nghề, là những làng ngồi nghề nơng ra cịn có thêm một số hoặc nhiều
nghề khác.
- Phân loại theo tính chất nghề, gồm có: (i) Làng nghề truyền thống, là những
làng nghề xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử và còn tồn tại đến ngày nay; (ii) Làng
nghề mới, là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan tỏa của các làng nghề
truyền thống hoặc du nhập từ các địa phương khác. Một số làng nghề mới được
hình thành do chủ trương của một số địa phương cho người đi học nghề ở nơi khác
rồi về dạy cho dân địa phương nhằm tạo việc làm cho người dân địa phương mình.
Từ góc độ khoa học pháp lý, khái niệm làng nghề cũng đã được quy phạm
hóa tại Thơng tư số 116/2006/TT-BNNPTNT, ngày 18/12/2006 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn về việc hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định
số 66/2006/NĐ-CP, ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nơng
thơn, theo đó, "Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng,
buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có
các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm
khác nhau". Với cách giải thích trên, phạm vi của một "làng" đã giới hạn rất rõ
(thôn, ấp, bản, làng, bn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn
một xã, thị trấn), cũng như chỉ rõ thế nào là "nghề" (ngành nghề nông thôn sản xuất

8



ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau); đồng thời, để được cơng nhận là một
làng nghề thì phải đáp ứng đủ ba tiêu chí luật định như sau: Một là, có tối thiểu 30%
tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn; hai là, hoạt
động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị cơng
nhận; ba là, chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước. Những tiêu chuẩn
nêu trên chứng tỏ làng nghề đó phải thực sự có tiềm năng phát triển và cơ hội làm
giàu cho người dân, đồng thời cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để Đảng và Nhà
nước thực hiện những chính sách ưu đãi đối với làng nghề.
Qua các cách giải thích về làng nghề nêu trên, có thể nhận thấy một số nét
đặc trưng của làng nghề tại Việt Nam như sau:
Thứ nhất, làng nghề mang giá trị văn hóa, tinh thần sâu sắc.Mỗi làng nghề
đều có sản phẩm truyền thống của mình, nó mang tính độc đáo và nghệ thuật cao,
nó làm nên bản sắc riêng cho mỗi làng nghề. Mỗi một sản phẩm, một nghề, một
làng nghề vừa có giá trị làm ra vật dụng, vừa thể hiện bản sắc văn hóa truyền thống
độc đáo của mỗi dân tộc, mỗi địa phương, vùng miền. Trong làng nghề, đã tồn tại từ
lâu đời các ngành nghề truyền thống gắn liền với trí thơng minh, bàn tay khéo léo
và kỹ thuật tinh xảo của người nghệ nhân được lưu truyền từ hàng trăm năm. Mỗi
làng nghề đều có lịch sử phát triển, có sản phẩm vật thể và phi vật thể truyền thống,
có những nghệ nhân tiêu biểu. Nhắc đến sản phẩm của một làng nghề là nhớ ngay
đến địa danh của nó, như: gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội); khảm gỗ Đồng Kỵ (Bắc
Ninh); mây, tre đan, chiếu cói (Hưng Yên); đúc đồng Yên Xá (Nam Định),.v.v.
Thứ hai, làng nghề mang lại lợi ích kinh tế to lớn. Lợi ích kinh tế do làng
nghề mang lại trước hết được thể hiện qua giá trị kim ngạch xuất khẩu một số mặt
hàng được sản xuất từ các làng nghề (như: mây, tre, cói và thảm…). Tiếp đến là từ
phát triển du lịch làng nghề, qua đó đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh
tế. Nhiều địa phương đã có những cách thức phát triển du lịch làng nghề, thu hút
lượng khách du lịch đến với địa phương ngày càng đông, và trờ thành một trong
những nguồn thu lớn cho ngân sách của địa phương.


9


Thứ ba, làng nghề có ý nghĩa xã hội lớn lao. Sự phát triển các làng nghề đã
và đang giải quyết việc làm cho người dân trong làng và vùng lân cận. Sản phẩm
xuất khẩu của làng nghề rất quan trọng, nó là một bộ phận hợp thành của cơng
nghiệp nông thôn, được coi là động lực trực tiếp giải quyết việc làm cho người lao
động, đồng thời góp phần làm tăng thu nhập cho người lao động nông thôn. Hiện
nay, nhiều làng nghề sản xuất hàng xuất khẩu của Hà Nội đã thu hút trên 70% lao
động sản xuất phi nông nghiệp của làng, hạn chế số lao động di rời từ nơng thơn ra
thành thị tìm việc làm, đem lại giá trị sản xuất vượt trội so với nơng nghiệp, thu
nhập từ làm nghề của dân cư có chiếm tới 70-80% tổng thu nhập.
Thứ tư, làng nghề có tác động nhất định tới môi trường. Đây được xem là
"mặt trái" trong đặc điểm của làng nghề. Tại các làng nghề hiện nay, sản phẩm được
sản xuất từ các nguyên, vật liệu chủ yếu lấy từ thiên nhiên gần khu vực sản xuất,
như nguyên liệu tre, mây làm đồ thủ công mỹ nghệ; gỗ, tơ tằm, gốm, sứ… Do sự
phát triển mạnh của các làng nghề, nhu cầu xã hội ngày càng nhiều đối với các sản
phẩm truyền thống nên việc khai thác nguyên liệu ngày càng gia tăng, có khả năng
làm cạn kiệt nguồn tài nguyên và ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái.
Quy mô làng nghề, hình thức tổ chức sản xuất cũng ảnh hưởng đến mơi
trường. Các làng nghề thường có quy mơ nhỏ, các cơ sở sản xuất tồn tại dưới các
dạng hộ gia đình, các xưởng sản xuất, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hầu hết các cơ
sở sản xuất đó hoạt động tự phát, mang tính thời vụ theo nhu cầu của thị trường.
Chính đặc điểm này đã tạo nên sự linh hoạt trong hoạt động sản xuất của làng nghề
nhưng vấn đề kiểm sốt ƠNMT lại rất khó khăn. Về cơ sở hạ tầng, hầu hết các làng
nghề đều sử dụng chính diện tích đất ở của mình là mặt bằng sản xuất. Các nhà
xưởng được xây dựng rất sơ sài, đồng thời là nơi tập kết nguyên, vật liệu, sản phẩm.
Diện tích chật hẹp, đường giao thơng xấu, hệ thống điện, nước hầu hết không đáp
ứng được nhu cầu, không có hệ thống cấp nước cũng như xử lý nước thải đã làm

cho môi trường tại các làng nghề bị ảnh hưởng nặng nề. Ngồi ra trình độ cơng
nghệ của các làng nghề chưa cao. Cơng đoạn sản xuất chính của một số ngành nghề

10


như gốm sứ, mây tre đan, nón, gỗ mỹ nghệ … vẫn phải làm bằng tay, nhất là các
sản phẩm địi hỏi tính mỹ thuật cao.
Các làng nghề với cơng nghệ sản xuất lạc hậu không những ảnh hưởng đến
năng suất, chất lượng sản phẩm mà còn trực tiếp gây ra những hệ quả xấu về môi
trường; và người chịu hậu quả đầu tiên lại chính là những cơ sở sản xuất trong làng
nghề bởi yếu tố đặc trưng tại các làng nghề là người gây ô nhiễm (những người sản
xuất) cũng đồng thời là người gánh chịu hậu quả của ƠNMT.
1.1.1.2. Khái qt về ơ nhiễm mơi trường làng nghề
Từ khái niệm chung về ÔNMT đã được các ngành khoa học xây dựng nên
và pháp luật quy định, có thể hiểu "ô nhiễm môi trường làng nghề là sự biến đổi các
thành phần môi trường do hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở sản xuất
trong làng nghề mang lại, khơng cịn phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường,
tiêu chuẩn môi trường. gây ảnh hưởng xấu tới sinh vật và con người"; và có thể
được nhận biết qua một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, ƠNMT trong làng nghề là dạng ơ nhiễm cục bộ trên phạm vi một
khu vực nông thôn (thôn, làng, xã).
Thứ hai, ÔNMT làng nghề mang nét đặc thù của hoạt động sản xuất theo
ngành nghề và loại hình sản phẩm, tác động trực tiếp tới mơi trường nước, khơng
khí, đất trong khu vực dân sinh.
Thứ ba, ÔNMT làng nghề là dạng ô nhiễm trên địa bàn vừa diễn ra hoạt
động sản xuất và vừa diễn ra hoạt động sinh hoạt của dân cư địa phương.
Hiện nay, tình trạng ƠNMT làng nghề đang tồn tại rất phổ biến, có xu
hướng gia tăng. Phụ thuộc vào lĩnh vực sản xuất của làng nghề, ÔNMT làng nghề
tác động tới một hoặc nhiều thành phần, yếu tố môi trường tại địa phương. Cụ thể:

- Ơ nhiễm mơi trường nước: Ở các làng nghề hiện nay, mơi trường nước
ln trong tình trạng bị ơ nhiễm thể hiện qua việc thải bỏ các chất thải, hóa chất
xuống nguồn nước. Điều này tác động tới nguồn nước sinh hoạt cũng như sản xuất
bị ảnh hưởng. Các sinh vật ở dưới nước không sống được, sản xuất bị ảnh hưởng,
sức khỏe của người dân luôn bị đe dọa, các loại bênh tật có xu hướng gia tăng.

11


- Ơ nhiễm mơi trường khơng khí: Hiện là thực tế bức xúc ở nhiều làng
nghề, thể hiện ở các dạng ô nhiễm bụi, mùi, nhiệt độ và tiếng ồn. Mức độ ơ nhiễm
nặng hay nhẹ tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm và quy trình sản xuất của mỗi làng
nghề. Ở các làng nghề gốm sứ, cơ khí, đúc…, ô nhiễm đều rất nặng ở tất cả các
dạng; còn ở các làng nghề chế biến gỗ, mây, tre đan thì chủ yếu là ơ nhiễm bụi,
tiếng ồn, mùi...
+ Ơ nhiễm do bụi: Đây là một dạng ô nhiễm rất nguy hiểm đối với sức khỏe
con người. Hầu như ở làng nghề nào cũng bị ô nhiễm bụi ở mức độ khác nhau. Ở
các làng nghề gốm sứ, cơ khí, đúc, dệt, sản xuất đồ mộc có hàm lượng bụi lớn hơn
nhiều so với làng nghề mây, tre đan, chế biến thực phẩm. Ở những làng nghề này
không những gây bụi lắng mà còn tạo ra hàm lượng bụi lơ lửng rất cao, ảnh hưởng
đến sức khỏe con người.
+ Ô nhiễm do tiếng ồn: loại ô nhiễm này ảnh hưởng đến sức khỏe con
người khá lớn, gây các bệnh về thần kinh, thính giác. Tiếng ồn lớn chỉ tập trung ở
một số làng nghề như cơ khí, đúc, mộc, dệt do các thiết bị máy móc gây ra.
+ Ơ nhiễm do mùi và nhiệt: Loại ô nhiễm này do nhiều nguyên nhân khác
nhau, tập trung ở nhiều các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, nghề gốm
sứ, nghề sử dụng các loại hóa chất và nhiên liệu than, dầu.
- Ô nhiễm môi trường đất: Cũng là một dạng ô nhiễm khá phổ biến ở các
làng nghề. Tình trạng này không chỉ diễn ra ở các làng nghề sản xuất gạch ngói, vật
liệu xây dựng (cát, sỏi …), sản xuất gốm sứ - là những nghề khai thác, sử dụng

nguyên liệu trực tiếp từ tài nguyên đất, mà còn cả ở các làng nghề cơ kim khí, đúc
cán sắt, làm giấy, sản xuất đồ gỗ, tẩy nhuộm, chế biến lương thực thực phẩm …
Một mặt là do các hộ, cơ sở lạm dụng quá mức các loại đất trong làng để mở rộng
mặt bằng sản xuất, làm nhà xưởng, kho tàng, nhà ở cho người làm công hoặc lần
chiếm ao hồ, đất chuyên dùng và đất canh tác nông nghiệp ở ven làng để làm bãi tập
kết vật tư, nguyên liệu, thành phẩm và làm bãi đổ phế thải, rác thải; mặt khác là do
nguồn nước thải, chất thải và nguyên liệu có chứa hóa chất và các chất độc hại khác

12


gây ra. Nguồn nước thải và các chất thải độc hại khơng được xử lý sẽ thấm sâu vào
lịng đất, đổ ra đồng ruộng làm thay đổi thành phần và chất lượng đất, làm ảnh
hưởng đến sự phát triển của cây cối và mơi trường sinh thái nói chung.
- Ơ nhiễm cảnh quan thiên nhiên và môi trường khu dân cư: Hiện tượng dễ
thấy nhất của dạng ÔNMT này ở các làng nghề là tình trạng rác thải, phế thải và các
bãi tập kết vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu sản xuất ngổn ngang, bừa bãi ở khắp mọi
nơi. Cảnh quan và điều kiện vệ sinh trong làng cũng như khu ở của dân cư bị xuống
cấp hoặc bị phá vỡ. Nhà ở và không gian sinh hoạt của các hộ dân cư chật chội, xen
lẫn với nhà xưởng, kho tàng sản xuất; diện tích vườn, ao hồ và cây xanh trong làng
đều bị thu hẹp.
1.1.2. Khái niệm và các biện pháp kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường làng nghề
Xuất phát từ khái niệm kiểm sốt ƠNMT nói chung được ghi nhận trong
Luật BVMT năm 2014, theo đó "Kiểm sốt ơ nhiễm là q trình phịng ngừa, phát
hiện, ngăn chặn và xử lý ô nhiễm" (Khoản 18, Điều 3), "kiểm sốt ƠNMT làng
nghề có thể được hiểu một cách đầy đủ là tổng hợp các hoạt động (hành động, biện
pháp và cơng cụ) nhằm phịng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, khống chế khơng để xảy
ra ƠNMT, hoặc khi ƠNMT xảy ra thì có thể chủ động xử lý, loại trừ hoặc giảm
thiểu ơ nhiễm". Trong đó, các biện pháp, cơng cụ kiểm sốt ƠNMT làng nghề
thường rất đa dạng, có thể được áp dụng theo nhiều tầm mức, giác độ khác nhau,

như sau:
- Ở tầm chính sách vĩ mơ, có thể áp dụng biện pháp quy hoạch lại sản xuất,
với các phương thức chính, gồm: Một là, quy hoạch tập trung theo khu, cụm công
nghiệp làng nghề (quy hoạch cơ sở hạ tầng đồng bộ bao gồm hệ thống đường giao
thông, hệ thống cấp điện, nước, thông tin liên lạc, hệ thống thu gom và xử lý chất
thải; quy hoạch khu sản xuất phù hợp với đặc thù loại hình làng nghề; hình thức quy
hoạch này thường được áp dụng đối với các làng nghề có cơ sở thuộc loại hình sản
xuất có nguy cơ gây ƠNMT cao, khơng được phép thành lập mới trong khu dân cư);
hai là, quy hoạch phân tán (quy hoạch sản xuất ngay tại hộ gia đình): Với loại hình

13


quy hoạch này cần phải tổ chức bố trí khơng gian nhằm cải thiện điều kiện sản xuất
và vệ sinh môi trường mà không cần phải di dời, hạn chế tối đa việc cơi nới, xây
nhà cao tầng... lưu giữ nét cổ truyền, văn hóa của làng nghề để kết hợp với phát
triển du lịch. Quy hoạch này thường được áp dụng đối với các làng nghề có cơ sở
thuộc loại hình sản xuất có nguy cơ gây ƠNMT thấp, được phép hoạt động trong
khu dân cư; ba là, quy hoạch phân tán kết hợp tập trung: Di dời các cơng đoạn gây
ƠNMT nghiêm trọng như cơng đoạn tẩy, nhuộm (làng nghề dệt nhuộm), cơng đoạn
mạ (làng nghề cơ khí),... vào khu, cụm công nghiệp làng nghề. Quy hoạch này
thường được áp đụng đối với các làng nghề có cơ sở thuộc loại hình sản xuất có một
hoặc một số cơng đoạn sản xuất có nguy cơ gây ƠNMT cao, không được phép
thành lập mới trong khu dân cư (theo Quyết định 577/QĐ-TTg, ngày 01/4/2013 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể BVMT làng nghề đến năm 2020 và
định hướng đến năm 2030).
- Ở tầm vi mô, có thể áp dụng các biện pháp, như: đánh giá tác động môi
trường (ĐTM) đối với từng dự án sản xuất, kinh doanh cụ thể tại làng nghề, áp dụng
các biện pháp quản lý chất thải thông thường, quản lý chất thải nguy hại tại làng
nghề, nhất là có kết cấu hạ tầng bảo đảm thu gom, phân loại, lưu giữ, xử lý, thải bỏ

chất thải đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường, hay xây dựng và vận hành hệ thống tiêu
thoát nước, các điểm thu gom, phân loại, lưu giữ, xử lý chất thải rắn; thực hiện các
biện pháp giảm thiểu tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bụi, nhiệt, khí thải, nước thải và xử lý
ơ nhiễm tại chỗ; xử lý vi phạm đối với hành vi không tuân thủ các quy định của pháp
luật về BVMT tại làng nghề; hình thành các mơ hình tổ chức tự quản về BVMT…
- Từ góc độ kỹ thuật, có thể áp dụng một số biện pháp, như: kiểm sốt cơng
nghệ cũ, cơng nghệ lạc hậu tại các làng nghề ƠNMT hiện nay; chuyển giao công
nghệ sạch, công nghệ xử lý chất thải cho các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ theo hướng
vận hành đơn giản, ổn định, tiết kiệm chi phí và xử lý ƠNMT đạt hiệu quả; ứng
dụng ngun liệu, thiết bị, cơng nghệ, mơ hình, phương thức sản xuất thân thiện với
môi trường…

14


Trong số các biện pháp, công cụ nêu trên không thể khơng kể đến biện pháp
pháp lý về kiểm sốt ÔNMT làng nghề. Điều này bắt nguồn từ những ưu điểm nổi
trội của biện pháp này, đó là tính bắt buộc chung đối với mọi đối tượng, nhất là đối
tượng có hoạt động sản xuất, kinh doanh trong làng nghề mà khơng phụ thuộc vào
tính chất, loại hình, quy mơ hoạt động của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong
làng nghề; tính chuẩn mực trong định hướng hành vi xử sự của con người đối với
môi trường xung quanh; và được Nhà nước bảo đảm thi hành.
1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về kiểm sốt ơ nhiễm
môi trường làng nghề
1.2.1. Khái niệm pháp luật về kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường làng nghề
Là một bộ phận của pháp luật BVMT, được xây dựng và hoàn thiện với
mục đích để kiểm sốt ƠNMT tại làng nghề, góp phẩn bảo đảm chất lượng môi trường
sống cho người dân tại làng nghề nói riêng, chất lượng cuộc sống đối với mọi người
dân nói chung, pháp luật về kiểm sốt ÔNMT làng nghề trước hết mang đầy đủ các
yếu tố chung của pháp luật BVMT, đồng thời có thêm các nội dung điều chỉnh cụ

thể cho phù hợp với đặc điểm môi trường cần được bảo vệ tại các làng nghề.
Theo đó, pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề là "hệ thống cácquy tắc
xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước (thông qua các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền) ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình loại trừ, hạn chế những tác động xấu đối
với môi trường từ các hoạt động của làng nghề; phịng ngừa ơ nhiễm mơi trường,
khắc phục, xử lý hậu quả do ô nhiễm môi trường làng nghề gây nên". Trong đó,
nhất thiết phải có các quy định về quy hoạch làng nghề gắn với kiểm soát ƠNMT,
có mục đích khoanh vùng ƠNMT, xác định chất lượng môi trường ở từng khu vực
làng nghề; về xây dựng, quản lý các dữ liệu thông tin về môi trường ở các làng nghề
nhằm công khai, minh bạch về số liệu, dữ liệu, trữ lượng, giá trị kinh tế của các
thành tố môi trường hay những vấn đề về môi trường tại các làng nghề; về ĐTM và
cam kết BVMT ở làng nghề nhằm làm rõ các tác động tiêu cực lẫn tích cực của các

15


các hoạt động làng nghề đến môi trường tự nhiên và xã hội, là cơ sở để xây dựng
các biện pháp nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực đó; về việc ban hành và áp
dụng hệ thống quy chuẩn kỹ thuật môi trường riêng cho các khu vực làng nghề, trên
cơ sở đó xác định được chính xác chất lượng môi trường sống của con người và
giúp cho họ biết được giới hạn, phạm vi cho phép tác động đến môi trường, đồng
thời cũng là căn cứ pháp lý để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và
hậu quả mà con người gây ra cho người dân và môi trường ở làng nghề; về quản lý
chất thải tại các làng nghề.
Nhận thức được các rủi ro ngày càng tăng đến sức khoẻ của người dân và
môi trường tại các làng nghề, Nhà nước ta đã đề ra nhiều biện pháp nhằm tăng
cường vai trò của pháp luật trong việc kiểm tra nguồn thải, xử lý, vận chuyển, chôn
lấp, thu gom và tái chế các chất thải ở khu vực này; về trách nhiệm kiểm sốt
ƠNMT của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại làng nghề; về trách nhiệm,

nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước và cộng đồng dân cư trong kiểm sốt ƠNMT tại
làng nghề; về chế tài xử lý vi phạm pháp luật kiểm sốt ƠNMT tại các làng nghề…
1.2.2. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về kiểm sốt ơ
nhiễm mơi trường làng nghề
Ngun tắc của pháp luật về kiểm sốt ƠNMT là những tư tưởng chỉ đạo
mà trên cơ sở đó pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề được xây dựng và thực
hiện, bao gồm: một số nguyên tắc chung của pháp luật BVMT, đồng thời có các
nguyên tắc riêng phù hợp với yêu cầu của kiểm sốt ƠNMT tại làng nghề. Cụ thể
như sau:
Thứ nhất, pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề đảm bảo quyền được
sống trong môi trường trong lành của người dân. Cụ thể là người dân của các làng
nghề được quyền sống trong một môi trường không bị ô nhiễm, đảm bảo cuộc sống
được hài hòa với thiên nhiên. Trong giai đoạn hiện nay, quyền con người, dân chủ
và công bằng là những vấn đề rất được Đảng và Nhà nước ta đề cao, do vậy, quyền
về môi trường của con người trở thành nguyên tắc đầu tiên trong xây dựng và hoàn

16


thiện pháp luật về BVMT nói chung, kiểm sốt ƠNMT tại các làng nghề nói riêng.
Theo nguyên tắc này, các quy định của pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề đặt
trọng tâm vào các nội dung liên quan đến quyền của người dân được tiếp cận thông
tin về môi trường tại các làng nghề, hay quyền được tiếp cận tư pháp của người dân
tại làng nghề khi bị thiệt hại do ÔNMT làng nghề gây nên...
Thêm nữa, nguyên tắc này cịn được thể hiện trong q trình tổ chức thực
hiện pháp luật về kiểm sốt ƠNMT ở làng nghề. Cụ thể là Nhà nước phải có trách
nhiệm thực hiện những biện pháp cần thiết để bảo vệ và cải thiện chất lượng môi
trường nhằm bảo đảm cho người dân ở các khu vực làng nghề được sống trong một
môi trường trong lành, cũng như đưa ra các quy định tạo cơ sở pháp lý để người dân
ở các làng nghề bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành của mình.

Thứ hai, pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề được xây dựng trên quan
điểm phát triển bền vững. Theo Khoản 4, Điều 3 Luật BVMT năm 2005, "Phát
triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn
hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp
chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ mơi
trường". Điều này có nghĩa là pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề nhấn mạnh
việc khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho nhu cầu hiện tại,
trong đó có nhu cầu phát triển làng nghề phải chú ý trữ lượng hiện có để dành cho
thế hệ sau. Nói cách khác, phát triển bền vững chính là phát triển trên cơ sở duy trì
được mục tiêu và cơ sở vật chất của q trình phát triển nói chung, phát triển làng
nghề nói riêng. Căn cứ vào tầm quan trọng của môi trường và phát triển kinh tế tại
các làng nghề, dựa vào mối quan hệ tương tác giữa môi trường và phát triển kinh tế
tại các làng nghề Việt Nam, thì muốn phát triển phải BVMT và ngược lại. Có thể
khẳng định, kiểm sốt, bảo vệ tốt mơi trường ở các làng nghề đồng nghĩa với việc
bảo vệ tốt mục tiêu phát triển bền vững của người dân tại các khu vực làng nghề.
Như vậy, yêu cầu đặt ra là cần có sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, an
sinh xã hội và BVMT, việc khai thác tài nguyên và xả thải phải trong giới hạn, trong

17


khả năng tự làm sạch của môi trường. Việc ghi nhận và tôn trọng yêu cầu phát triển
bền vững trong pháp luật kiểm sốt ƠNMT do các hoạt động của làng nghề gây ra ở
Việt Nam là cách thức để các chủ thể trong quan hệ này nhận thức một cách đúng
đắn đối với việc hạn chế tới mức thấp nhất việc gây ÔNMT, đồng thời phát triển
bền vững kinh tế tại các làng nghề.
Thứ ba, pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề gây ra phải chú ý đến yếu
tố phòng ngừa, tức là chủ động ngăn chặn rủi ro mà các chủ thể có thể gây ra cho
mơi trường ở làng nghề. Hoạt động kiểm soát, BVMT làng nghề phải thường xun,
lấy phịng ngừa là chính, kết hợp với khắc phục ơ nhiễm, suy thối để cải thiện chất

lượng môi trường ở làng nghề. Các nhà làm luật dựa trên cơ sở chi phí phịng ngừa
bao giờ cũng nhỏ hơn chi phí khắc phục, phục hồi mơi trường, từ đó đặt ra yêu cầu
lường trước những rủi ro và đưa ra được những phương án, biện pháp phù hợp để
giảm thiểu, loại trừ những rủi ro đó.
Thứ tư, pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề phải tn thủ ngun tắc
"người gây ơ nhiễm phải trả", trong đó nội hàm của việc "trả" được hiểu theo nghĩa
rộng. Cụ thể là những người gây ÔNMT phải chịu các chi phí thực hiện các biện
pháp kiểm sốt và ngăn ngừa ô nhiễm được quy định bởi các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền nhằm đảm bảo mơi trường trong trạng thái chấp nhận được. Chủ thể
phải trả tiền có thể là người khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; người có
hành vi xả thải vào mơi trường làng nghề; người có những hành vi khác gây tác
động xấu tới môi trường ở làng nghề theo quy định của pháp luật hiện hành. Tiền trả
cho hành vi gây ô nhiễm phải tương xứng với tính chất và mức độ gây tác động xấu
tới môi trường làng nghề, phải đủ sức tác động đến lợi ích và hành vi của các chủ
thể có liên quan đến hoạt động làng nghề, có như vậy mới đủ sức răn đe đối với
hành vi gây ƠNMT ở làng nghề. Hình thức trả tiền cho hành vi gây ơ nhiễm có thể
là thuế tài ngun, thuế mơi trường, phí BVMT hay chi phí sử dụng dịch vụ (thu
gom rác, quản lý chất thải nguy hại...) ở làng nghề, kinh phí sử dụng cơ sở hạ tầng:
Ví dụ như tiền thuê kết cấu hạ tầng trong khu công nghiệp bao gồm cả tiền thuê hệ

18


thống xử lý chất thải tập trung... Ngồi ra, hình thức trả tiền cho hành vi gây ơ
nhiễm cũng có thể là chi phí phục hồi mơi trường trong q trình khai thác tài nguyên.
Thứ năm, pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề phải rõ ràng, minh bạch,
dễ hiểu cho mọi chủ thể (các cơ quan nhà nước, các cơ sở sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ, các cộng đồng dân cư, các hiệp hội ngành nghề, các tổ chức, hộ gia đình và
cá nhân…) tại các khu vực làng nghề biết. Chẳng hạn như: Pháp luật kiểm sốt
ƠNMT phải chỉ rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật quản

lý chất thải, từ phân loại, thu gom, vận chuyển, xử lý… chất thải, chất thải nguy hại
ở các làng nghề như thế nào? Quy định rõ những đối tượng nào phải đánh giá môi
trường khi thực hiện các mục đích phát triển gây ảnh hưởng xấu đến môi trường và
con người ở làng nghề? Ngồi ra, cũng phải chỉ rõ chủ thể có thẩm quyền xử lý vi
phạm, về thủ tục cũng như quy định cụ thể mức xử lý vi phạm là bao nhiêu đối với
mỗi hành vi vi phạm... để các chủ thể có liên quan dễ dàng cập nhật và áp dụng.
Thứ sáu, pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề phải mang tính ổn định
và phù hợp với xu thế phát triển bền vững tại các làng nghề. Trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế và phát triển hiện nay, quan điểm về kiểm sốt ơ nhiễm và
BVMT sẽ giao thoa với quan niệm và nhận thức về lĩnh vực này của các nước trên
thế giới. Pháp luật kiểm sốt ƠNMT phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên,
văn hóa, lịch sử, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các làng nghề trong từng
giai đoạn cụ thể, cần đi vào thực tiễn cuộc sống ở các làng nghề. Những yêu cầu của
pháp luật kiểm sốt ƠNMT do các hoạt động của làng nghề gây ra đã đề cập trên
đây cần phải được thực hiện và có tính khả thi. Có thể nói, đây là u cầu quan
trọng, bởi vì pháp luật kiểm sốt ƠNMT khơng thể tự mình đi vào trong thực tiễn,
vì thế, cần tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh tại các làng nghề. Việc xây dựng pháp
luật và tổ chức thực hiện phải được tiến hành một cách đồng bộ, đồng thời xử lý
nghiêm, kịp thời những trường hợp vi phạm pháp luật.

19


1.2.3. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về kiểm sốt ơ
nhiễm mơi trường làng nghề
Để phù hợp với các đặc điểm của làng nghề, nhất là đặc điểm về môi trường
tại làng nghề; và để đảm bảo tuân thủ đúng những nguyên tắc trong xây dựng và
thực hiện pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề nêu trên, nội dung điều chỉnh
của pháp luật về kiểm sốt ƠNMT làng nghề cần thiết bao gồm những nhóm quy
định sau:

Một là, nhóm các quy định về trách nhiệm quản lí nhà nước đối với BVMT
tại làng nghề. Nhóm quy định này được xác định trên cơ sở những chủ trương, định
hướng lớn của Đảng về coi trọng việc phát triển kinh tế, trong đó có phát triển kinh
tế làng nghề gắn liền với việc BVMT. Ngày 25/6/1998, Bộ Chính trị đã ban hành
Chỉ thị số 36/CT-TƯ về tăng cường công tác BVMT trong thời kì cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 được thơng
qua tại Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định quan điểm
"Phát triển kinh tế-xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường …" và
đặt ra các mục tiêu chiến lược về môi trường là: "Cải thiện chất lượng môi
trường… Các cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập phải áp dụng công nghệ
sạch hoặc trang thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 80% các cơ sở sản xuất
kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường. Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả
các cụm, khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung… Cải
thiện và phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng…" Tại Nghị quyết số
24/NQ-TW, ngày 03/6/2013 của Bộ Chính trị về chủ động ứng phó biến đổi khí
hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT, Đảng ta đã khẳng định quyết tâm coi
vấn đề BVMT là một nhiệm vụ được thực hiện song hành với phát triển kinh tế xã
hội, trong đó có xác định nhiệm vụ đối với BVMT làng nghề là: "Khắc phục cơ bản
nạn ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, cơ sở cơng nghiệp, tiểu thủ cơng nghiệp
đi đơi với hình thành các cụm làng nghề, bảo đảm điều kiện về xử lý mơi trường,
chủ động có kế hoạch thu gom và xử lý khối lượng rác thải đang ngày càng tăng

20


lên". Tiếp đến, tại Đại hội lần thứ XII của Đảng, chủ trương BVMT tại các làng
nghề lại được nhấn mạnh "Hạn chế, tiến tới ngăn chặn căn bản tình trạng ô nhiễm
môi trường tại các làng nghề". Để thực hiện được các chủ trương trên, trách nhiệm
quản lí nhà nước đối với BVMT tại làng nghề đóng vai trị quyết định. Cũng chính
từ điều này mà Luật BVMT 2014 đã thể chế hóa thành các quy định rất rõ ràng về

trách nhiệm của UBND các cấp đối với việc BVMT làng nghề, gồm:
- Trách nhiệm của UBND cấp xã có làng nghề trong việc: Lập, triển khai thực
hiện phương án BVMT cho làng nghề trên địa bàn; hướng dẫn hoạt động của tổ chức tự
quản về BVMT làng nghề; báo cáo UBND cấp huyện về công tác BVMT làng nghề…
- Trách nhiệm của UBND cấp huyện có làng nghề trong việc: Chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra công tác BVMT làng nghề trên địa bàn; báo cáo
UBND cấp tỉnh về công tác BVMT làng nghề.
- Trách nhiệm của UBND cấp tỉnh có làng nghề trong việc: Quy hoạch, xây
dựng, cải tạo và phát triển làng nghề gắn với BVMT; bố trí ngân sách cho các hoạt
động BVMT làng nghề; chỉ đạo, tổ chức đánh giá mức độ ô nhiễm và xử lý ÔNMT
làng nghề trên địa bàn; chỉ đạo xây dựng hệ thống thu gom, xử lý nước thải; khu tập
kết, xử lý chất thải rắn thông thường, chất thải nguy hại cho làng nghề; quy hoạch
khu công nghiệp, cụm cơng nghiệp làng nghề; có kế hoạch di dời cơ sở gây ÔNMT
nghiêm trọng ra khỏi khu dân cư...
Hai là, nhóm các quy định về trách nhiệm của tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm BVMT làng nghề. BVMT nói
chung, BVMT làng nghề nói riêng là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân, nên bên cạnh trách nhiệm quản lý nhà nước đối với
BVMT tại làng nghề thì trách nhiệm của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đóng vai trị
quyết định hiệu lực, hiệu quả của kiểm sốt ƠNMT làng nghề. Cụ thể:
- Quy định về các điều kiện, yêu cầu làng nghề phải đáp ứng, theo đó, làng
nghề nói chung phải đáp ứng các điều kiện: Có phương án BVMT làng nghề; có kết
cấu hạ tầng bảo đảm thu gom, phân loại, lưu giữ, xử lý, thải bỏ chất thải đạt quy

21


chuẩn kỹ thuật mơi trường; có tổ chức tự quản về BVMT… Tổ chức tự quản về
BVMT được thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, cộng đồng trách
nhiệm, tuân theo quy định của pháp luật. Tổ chức tự quản về BVMT được khuyết

khích thành lập, phát triển tuy nhiên cần có Quyết định thành thành lập và cơ chế
hoạt động do UBND xã, phường, thị trấn ban hành đồng thời phải được trang bị
phương tiện và bảo hộ lao động đầy đủ. Như vậy để được thành lập thì tổ chức tự
quản về BVMT phải trải qua các thủ tục nhất định, do đó để tổ chức tự quản này
được thực hiện hiệu quả tối đa nhiệm vụ của mình thì cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ về
các thủ tục, kinh phí cũng như tạo điều kiện trong quá trình kiểm tra, giám sát, thực
hiện nhiệm vụ từ phía Ủy ban nhân dẫn xã. Nhiệm vụ của tổ chức tự quản về
BVMT được quy định tại Điều 83 Luật BVMT 2014.
- Quy định về ĐTM. Đây là trách nhiệm cơ bản của tổ chức, cá nhân khi
muốn tiến hành sản xuất, kinh doanh tại làng nghề. Các chủ thể phải đảm bảo đầy
đủ các nội dung của báo cáo đánh giá tác động môi trường và kế hoạch BVMT theo
quy định của pháp luật. Các làng nghề Việt Nam thường có quy mơ nhỏ với hình
thức tổ chức sản xuất chủ yếu là hộ gia đình nên chủ thể sản xuất thường là đối
tượng phải lập bản kế hoạch BVMT. Bản kế hoạch phải đảm bảo các nội dung theo
quy định pháp luật và phải được đăng ký với cơ quan có thẩm quyền. Luật quy định
như vậy nhưng thực tế công tác này vẫn chưa đem lại hiệu quả như mong muốn.
Hầu như các hộ sản xuất trong các làng nghề vì nhiều lý do khác nhau khơng có báo
cáo đánh giá tác động mơi trường hay bản kế hoạch BVMT. Một phần do ý thức của
các chủ thể, một phần do nội dung này cũng khó có thể áp dụng được với đặc thù
làng nghề, cũng như các cấp chính quyền địa phương cịn thiếu quy định cụ thể hóa
trong khi kế hoạch BVMT là vấn đề mới quy định trong Luật BVMT 2014. Tại
Điều 16 Nghị định 19/2015/NĐ-CP có hướng dẫn: trường hợp các cơ sở sản xuất
thuộc ngành nghề được khuyến khích phát triển tại làng nghề chưa có báo cáo đánh
giá tác động môi trường, bản cam kết BVMT, đề án BVMT chi tiết, đề án BVMT
đơn giản phải lập báo cáo về các biện pháp BVMT, mô tả hoạt động của cơ sở, các

22


loại chất thải phát sinh, các biện pháp giảm thiểu, kiểm soát bụi, nhiệt, tiếng ồn, độ

rung, thu gom và xử lý nước thải, khí thải tại chỗ; phân loại, lưu giữ, tự xử lý hoặc
chuyển giao đối với chất thải rắn, gửi cơ quan quản lý môi trường tại địa phương để
thực hiện kiểm tra, theo dõi.Tuy nhiên nên chăng nghiên cứu, ban hành một hình
thức kế hoạch BVMT với một nội dung đơn giản, gọn nhẹ, quy định riêng cho các
cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tại làng nghề. Chẳng hạn như có thể đưa ra một
bản kế hoạch BVMT chung cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, nguyên nhiên liệu
được sử dụng, các chất thải phát sinh để các chủ cơ sở sản xuất kí vào.
- Quy định về nộp phí BVMT. Phí BVMT là khoản thu do Nhà nước quy
định. Tổ chức, cá nhân xả thải ra môi trường hoặc làm phát sinh tác động xấu đối
với mơi trường phải nộp phí BVMT. Vì vậy, phí mơi trường góp phần làm thay đổi
hành vi của người gây ô nhiễm và tăng nguồn thu nhập để chi trả cho những hoạt
động cải thiện môi trường. Trách nhiệm của cơ sở sản xuất tại làng nghề đó là đóng
góp đầy đủ các loại phí BVMT và nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật
cho hoạt động BVMT của làng nghề. Hiện nay các cơ sở làng nghề phải nộp các
loại phí: phí vệ sinh mơi trường, phí BVMT đối với nước thải, phí BVMT đối với
chất thải rắn…Pháp luật hiện hành đã có nhiều quy định về việc thu phí BVMT như
Nghị định số 25/2013/NĐ-CP về phí BVMT đối với nước thải, Nghị định
38/2015/NĐ-CP về quản lý chất thải và phế liệu…Pháp luật quy định như vậy tuy
nhiên hiện nay tại các cơ sở làng nghề cịn diễn ra tình trạng khơng nộp phí BVMT.
Nguyên nhân xuât phát từ ý thức, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân chưa cao. Nhiều
cơ sở tại làng nghề vì lợi nhuận đã cố tình trốn tránh nghĩa vụ nộp phí và hàng ngày
vẫn lén lút xả thải trực tiếp ra mơi trường.
- Quy định về phịng ngừa, khắc phục ơ nhiễm, suy thối mơi trường, ứng
phó sự cố mơi trường. Trong lĩnh vực BVMT nói chung, kiểm sốt ƠNMT làng
nghề nói riêng. Nhà nước ln khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức,
cá nhân có thể khai thác một cách có hiệu quả, hợp lý nhất các thành phần môi
trường. Hoạt động sản xuất ở các làng nghề cũng như vậy. Tuy vậy, các tổ chức cá

23



nhân khi khai thác, sử dụng các thành phần môi trường như khơng khí, đất, nước để
phục vụ sản xuất phải tính đến khả năng tự cân bằng vốn có của nó. Chỉ khi thực sự
lưu tâm đến vấn đề này thì mới hạn chế, giảm thiểu được tình trạng ÔNMT làng
nghề, cũng như đảm bảo sự phát triển làng nghề theo hướng bền vững.
Ngoài những trách nhiệm cơ bản nêu trên, pháp luật cũng quy định những
biện pháp mà tổ chức, cá nhân phải tiến hành để phòng ngừa ÔNMT và sự cố môi
trường tại làng nghề như: lập kế hoạch phịng ngừa ứng phó sự cố mơi trường, lắp
đặt các trang thiết bị, dụng cụ, phương tiện ứng phó với sự cố mơi trường; tn thủ
quy định về an toàn lao động, thực hiện chế độ kiểm tra thường xuyên… Bên cạnh
đó phải tuân thủ các quy định của pháp luật về BVMT và chấp hành chế độ kiểm
tra, thanh tra BVMT là những trách nhiệm cơ bản của tổ chức, cá nhân trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ ở làng nghề. Hoạt động sản xuất, kinh doanh tại
làng nghề khơng thể tránh khỏi gây ƠNMT và thực tế đã chứng minh điều đó. Theo
quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm
áp dụng các biện pháp xử lý kịp thời để khắc phục ơ nhiễm, suy thối môi trường và
tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm cũng phải có trách nhiệm để khắc phục ơ nhiễm, phục
hồi môi trường tại làng nghề. Luật BVMT khẳng định: Tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân gây ơ nhiễm, suy thối mơi trường có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt
hại và chịu các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Cụ thể tổ chức, cá
nhân gây ÔNMT tại làng nghề phải có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của cơ
quan quản lý nhà nước về môi trường trong quá trình kiểm tra, xác định phạm vi,
giới hạn, mức độ, nguyên nhân, biện pháp khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi
trường; tiến hành ngay các biện pháp để ngăn chặn, hạn chế nguồn gây ÔNMT và
hạn chế sự lan rộng, ảnh hưởng đến sức khỏe và đời sống của nhân dân trong vùng;
thực hiện các biện pháp khắc phục ô nhiễm và phục hồi môi trường theo yêu cầu
của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường; bồi thường thiệt hại theo quy dịnh
của pháp luật về BVMT và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

24



1.3. Pháp luật về kiểm sốt ơ nhiễm mơi trường làng nghề của một số quốc gia
trên thế giới và giá trị tham khảo với Việt Nam
1.3.1. Tại Nhật Bản
Trước đây tại Nhật Bản, các làng nghề cũng bị ô nhiễm nặng nề do không
nhận được sự quan tâm từ cơ sở sản xuất làng nghề cũng như chính quyền. Trước
thực trạng đó Nhật Bản đã ban hành Luật cơ bản về BVMT năm 1967 có đưa ra các
tiêu chuẩn mơi trường và hệ thống kiểm sốt tổng tải lượng ô nhiễm, luật phát triển
nghề thủ công truyền thống. Kết quả là các làng nghề Nhật Bản có sự cải thiện mơi
trường tích cực. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản còn ban hành một bộ tiêu chuẩn
để đánh giá chất lượng sản phẩm của làng nghề phân loại chất lượng thành 5 cấp từ
1 sao đến 5 sao dựa trên nhiều tiêu chí đánh giá, trong đó nổi bật nhất là các quy
định về kiểm sốt ƠNMT, sử dụng chất liệu tiết kiệm, thân thiện với mơi trường. Vì
vậy các làng nghề đã đầu tư vào việc xử lý chất thải và công nghệ sản xuất sạch…
để thay cho việc nộp phí mơi trường. Hơn nữa, việc quy định các làng nghề sẽ được
nhận hỗ trợ từ phía Chính phủ nếu đạt tiêu chuẩn môi trường cho phép cũng góp
phần nâng cao hiệu quả pháp luật kiểm sốt ƠNMT làng nghề. Pháp luật quy định
Chính phủ chỉ hỗ trợ cho các sản phẩm đạt từ 3 sao trở lên, cấp 5 sao được hỗ trợ
nhiều nhất, cũng chính vì vậy các làng nghề Nhật Bản luôn tự phấn đấu để có các
sản phẩm chất lượng cao đồng thời thân thiện với môi trường.
Cho đến nay, Nhật Bản là một quốc gia thành công trong việc BVMT làng
nghề với việc ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản pháp luật, các tiêu chuẩn môi
trường phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác BVMT làng nghề. Vấn đề kiểm
sốt ÔNMT làng nghề không chỉ được quy định trong những văn bản pháp luật
chung về mơi trường mà cịn được thể hiện trong những đạo luật riêng về làng nghề.
Việc khéo léo lồng ghép các ưu đãi về phí BVMT trong các quy định về bộ đánh giá
chất lượng sản phẩm cũng là một nét độc đáo, mang lại hiệu quả cao. Đó là những
cách làm, giải pháp về pháp luật sang tạo mà Việt Nam nên tham khảo, vận dụng.
Một điểm đáng tham khảo, học hỏi nữa là tại Nhật Bản rất đề cao các sang kiến của


25


×