Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Luan van thạc sĩ luật học pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng theo mẫu ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (344.14 KB, 63 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan hệ mua bán hàng hóa được hình thành từ thời xa xưa từ việc dùng
hàng để đổi lấy hàng cho đến ngày nay được phát triển thành "hợp đồng" và có giá
trị giao dịch lớn. Về nguyên tắc, hợp đồng là công cụ thiết yếu để ghi nhận các
thỏa thuận và tạo lập sự cân bằng tương đối lợi ích giữa các bên, do đó các bên
trong quan hệ hợp đồng hồn toàn được tự nguyện thỏa thuận trên cơ sở tự do ý
chí nhằm hướng đến mục tiêu chung. Quan hệ giữa nhà sản xuất, kinh doanh với
người tiêu dùng cũng được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc chung đó, tuy nhiên
trong một số quan hệ việc giao kết hợp đồng giữa nhà sản xuất, kinh doanh với
người tiêu dùng được thiết lập trên cơ sở những điều khoản mà nhà sản xuất, kinh
doanh đã soạn trước, và tất nhiên đó là những điều khoản khơng mấy có lợi cho
người tiêu dùng, vì thế người tiêu dùng bị đặt vào vị trí yếu thế hơn so với nhà sản
xuất, kinh doanh.
Tại Việt Nam vấn đề bảo vệ người tiêu dùng được đặt ra từ rất sớm và kể từ
sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 vấn đề này càng được quan
tâm hơn nữa, là một chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta trong công
cuộc xây dựng và đổi mới. Tuy nhiên, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chính thức
trở thành một lĩnh vực pháp luật độc lập khi Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng chính thức được ban hành và có hiệu lực vào năm 1999 và hiện nay là Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
Thực tế hiện nay tại Việt Nam mối quan hệ giữa các nhà sản xuất, kinh
doanh với người tiêu dùng phần lớn được hình thành trên cơ sở hợp đồng theo mẫu,
trong mối quan hệ này người tiêu dùng phải chấp nhận sự thiệt thịi hơn vì khơng
được tham gia đàm phán và chỉ được kí kết những điều khoản mang tính chung, bắt
buộc tuân thủ mà đối phương đưa ra. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đầy đủ các khía
cạnh pháp lý về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng theo mẫu

1



cũng như xây dựng và hoàn thiện những quy định của pháp luật về vấn đề này là
một yêu cầu cấp thiết của nước ta hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, em quyết định chọn chủ đề "Pháp luật về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng theo mẫu ở Việt Nam" làm đề
tài cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong hợp đồng theo mẫu nói riêng là một đề tài được nhiều tác giả
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể đến bài viết
"Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong pháp luật cạnh tranh", của Ngơ
Vĩnh Bạch Dương, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2006;
"Tìm hiểu Luật Bảo vệ người tiêu dùng các nước và vấn đề bảo vệ người
tiêu dùng ở Việt Nam", của Đoàn Văn Trường, NXB khoa học và kỹ thuật, 2003;
"Pháp luật và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng" của Đặng Vũ Huân, đăng trên
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề về pháp luật và tiêu dùng, tháng 1/2005;
"Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng", Luận văn thạc
sĩ Luật học, Lò Thùy Linh, 2010;
"Pháp luật về hợp đồng dân sự theo mẫu trên thế giới - Những kinh nghiệm
đối với Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, Nguyễn Thị Ngọc Anh, 2011;
"Kiểm soát hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong giao dịch
giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh với người tiêu dùng", Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trần Diệu Loan, 2016;... Các tác giả thông qua các bài viết hay cơng trình nghiên
cứu khoa học đã phần nào đó nêu được cái nhìn tổng quan về các vấn đề hợp đồng
theo mẫu hay bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu vẫn còn là một vấn
đề được quan tâm bởi lẽ nó thể hiện rõ nét sự bất cân xứng về quyền lợi của người
tiêu dùng khi giao kết hợp đồng với các doanh nghiệp trong một số lĩnh vực, chính
vì vậy cần tiếp tục nghiên cứu một cách tổng thể, tồn diện từ đó hiểu một cách rõ
hơn để đảm bảo quyền lợi một cách tối đa cho người tiêu dùng.


2


3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam làm cơ sở
phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra để hoàn thiện việc nghiên cứu,
Luận văn đã được sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phân tích những quy phạm pháp luật

và những sự kiện thực tế về hợp đồng theo mẫu để đưa ra một cái nhìn tổng quát về
những điểm hợp lý cũng như những mặt còn hạn chế của hệ thống pháp luật khi áp
dụng vào thực tiễn từ đó rút ra những kiến nghị, giải pháp để bảo vệ người tiêu
dùng trong giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu.
- Phương pháp so sánh: So sánh quy định của pháp luật Việt Nam với một

số quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới từ đó có một đánh giá khách quan về việc
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng theo mẫu tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những học thuyết pháp lý và các quy
định của pháp luật liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp
đồng theo mẫu.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của

pháp luật Việt Nam về vấn đề bảo vệ người tiêu dùng trong giao kết và thực hiện
hợp đồng theo mẫu, thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật trên thực tế và
đưa ra các kiến nghị hoàn thiện.

- Về không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn quốc gia Việt Nam.
- Về thời gian: Các thông tin số liệu phản ánh trong luận văn chủ yếu trong

khoảng từ năm 2011 đến nay, đây là khoảng thời gian Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng năm 2010 có hiệu lực pháp luật.

3


5. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu dưới góc độ pháp
lý. Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, em tập trung làm rõ những nội dung sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng trong giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu.
- Thực trạng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

trong giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu.
- Thực tiễn áp dụng hợp đồng theo mẫu tại Việt Nam và những kiến nghị để

nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng theo mẫu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận, luận văn là một cơng trình nghiên cứu tương đối hệ thống
và tồn diện về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết và thực
hiện hợp đồng theo mẫu ở Việt Nam, đưa ra những phân tích quy định của pháp luật
làm cơ sở cho các luận cứ khoa học về hợp đồng theo mẫu.
Về mặt thực tiễn, từ việc nghiên cứu pháp luật để nhận biết và phát huy những
vấn đề tích cực và khắc phục những mặt cịn hạn chế trong hệ thống pháp luật từ đó
đưa ra phương hướng hồn thiện, góp phần bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ngày một

tốt hơn. Bên cạnh đó luận văn đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về hợp đồng theo
mẫu trên thực tế từ đó đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả việc áp dụng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao
kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu
Chương 3: Thực tiễn áp dụng hợp đồng theo mẫu tại Việt Nam và một số
kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết
và thực hiện hợp đồng theo mẫu.

4


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG
GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG THEO MẪU
1.1. Khái quát chung về quyền lợi người tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
Tiêu dùng là việc sử dụng những của cải vật chất (hàng hóa và dịch vụ)
được sáng tạo, sản xuất ra trong quá trình sản xuất để thỏa mãn các nhu cầu của xã
hội. Tiêu dùng là giai đoạn quan trọng của tái sản xuất. Tiêu dùng là một động lực
của q trình sản xuất, nó kích thích cho sản xuất phát triển. Có thể chia tiêu dùng
thành hai loại đó là tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng đời sống, tiêu dùng sản xuất là
quá trình sử dụng của cải vật chất cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu dùng đời
sống là quá trình sử dụng của cải vật chất cho hoạt động sinh sống và phát triển của
con người. Bản chất tiêu dùng sản xuất là để tạo ra các sản phẩm nhằm phục vụ tiêu
dùng đời sống bởi khơng có tiêu dùng đời sống thì việc sản xuất cũng khơng có ý

nghĩa. Do đó có thể hiểu một cách đơn giản tiêu dùng là việc sử dụng của cải vật
chất để thỏa mãn như cầu của đời sống sinh hoạt.
Người tiêu dùng hay người tiêu thụ là một từ nghĩa rộng được hiểu dưới
nhiều góc độ:
Dưới góc độ kinh tế, người tiêu dùng là phạm trù để chỉ các chủ thể dùng
sản phẩm hoặc dịch vụ sản xuất trong nền kinh tế. Người tiêu dùng là người mua
nhưng khác với người mua nguyên liệu để sản xuất hoặc mua hàng để bán lại, họ là
người sử dụng hàng hóa, dịch vụ cuối cùng làm chúng tiêu hao hoặc biến mất qua
việc sử dụng đó. Động thái chi tiêu của họ có tác động trực tiếp đến định hướng đầu
tư, sản xuất và tiếp thị cho các doanh nghiệp.
Dưới góc độ pháp lý, người tiêu dùng chỉ xuất hiện với tư cách là chủ thể
pháp luật khi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ra đời. Khái niệm người
tiêu dùng được dùng trong nhiều văn cảnh khác nhau vì thế cách dùng và tầm quan

5


trọng của khái niệm này có thể rất đa dạng. Người tiêu dùng là người có nhu cầu, có
khả năng mua sắm các sản phẩm dịch vụ trên thị trường phục vụ cho cuộc sống,
người tiêu dùng ở mỗi quốc gia lại có những quan điểm, định nghĩa khác nhau:
- Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1993 của Trung Quốc tuy

khơng có điều khoản riêng giải thích khái niệm người tiêu dùng nhưng tại Điều 2
của Luật này có quy định: "Trường hợp người tiêu dùng, vì nhu cầu cuộc sống,
mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ thì các quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ được
bảo vệ theo quy định của Luật này và trường hợp Luật này khơng quy định thì sẽ
được bảo vệ theo các quy định khác có liên quan của pháp luật". Điều luật này đã
ngụ ý rằng người tiêu dùng theo quan niệm của pháp luật Trung Quốc chỉ là cá
nhân, tức là những người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ vì nhu cầu sinh hoạt của
mình chứ khơng phải vì mục đích kinh doanh hoặc hoạt động nghề nghiệp.

- Điều 3 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Thái Lan năm 1979 giải thích:

"Người tiêu dùng là người mua hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc được chào mua hàng
hóa hoặc dịch vụ từ một người kinh doanh, bao gồm người thực sự sử dụng hàng
hóa, tiêu thụ dịch vụ có nguồn gốc từ người kinh doanh mặc dù người này không
trực tiếp trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa, tiêu thụ dịch vụ đó". Trong khi đó,
cũng tại điều khoản này, "người kinh doanh" được giải thích là người bán hàng, nhà
sản xuất, nhà nhập khẩu để bán hàng, người mua hàng để bán lại, người cung cấp
dịch vụ, người tiến hành việc quảng cáo. Quy định này nêu cách xác định khái niệm
người tiêu dùng theo mục đích sử dụng hàng hóa, dịch vụ hoặc hình thức tiếp nhận
hàng hóa dịch vụ mà khơng phản ánh cụ thể người tiêu dùng là cá nhân hay thể nhân.
- Theo Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 và Luật Bảo
vệ người tiêu dùng năm 2010 của Việt Nam thì người tiêu dùng được định nghĩa là
người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá
nhân, gia đình và tổ chức.
Theo đó, tại Việt Nam hay các quốc gia trên thế giới xác định chủ thể là
người tiêu dùng nhìn chung đều dựa trên các điều kiện sau:

6


Thứ nhất, đối tượng của các giao dịch là những hàng hóa, dịch vụ được
phép lưu thơng và đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của con
người. Đây là điều kiện rất khó xác định bởi nhu cầu sinh hoạt của con người trong
điều kiện hiện nay là rất đa dạng. Những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu hàng ngày của
con người như đồ ăn, thức uống, thuốc chữa bệnh, đồ chơi, đồ dùng học tập được
coi là đối tượng đương nhiên của giao dịch với người tiêu dùng. Khi đó các quy
định của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng liên quan đến vệ sinh, an toàn đối với sức
khỏe con người được áp dụng, kể cả đối với trường hợp hàng hóa chưa được bán
cho người tiêu dùng. Trong những trường hợp khác, cần phải kết hợp với mục đích

của việc mua hàng hóa, dịch vụ đó dùng vào việc gì.
Thứ hai, người tiêu dùng là cá nhân. Xác định người tiêu dùng là các cá
nhân xuất phát từ chính mục đích cho sự ra đời của lĩnh vực pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng là hỗ trợ người tiêu dùng yếu thế trong quan hệ với nhà cung
cấp hàng hóa, dịch vụ. Nhìn chung, nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ có hiểu biết tốt
hơn về hàng hóa, dịch vụ của mình so với người tiêu dùng. Khi tìm hiểu về sản
phẩm, khả năng tiếp cận và tiếp nhận thông tin tham vấn của cá nhân đơn lẻ là hạn
chế hơn nhiều so với tổ chức. Ngoài ra, việc tiêu dùng của tổ chức là khó xác định
đồng thời sẽ khó có thế coi việc tiêu dùng hay sinh hoạt của tổ chức là khơng vì
hoạt động chức năng hoặc nghề nghiệp. Ví dụ cơ quan mua nước uống khơng phải
để cơ quan uống mà để cho nhưng người làm việc trong cơ quan uống, thông qua
việc phục vụ nước uống chất lượng hoạt động của cơ quan được cải thiện. Tóm lại,
dù dưới danh nghĩa là cá nhân, gia đình hay tổ chức thì đối tượng mà pháp luật
hướng đến là người tiêu dùng là cá nhân mỗi người.
Thứ ba, việc mua hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích tiêu dùng, sinh hoạt
cho cá nhân, hộ gia đình. Mục đích tiêu dùng, sinh hoạt ở đây có nghĩa là người
tiêu dùng mua hàng hóa, dịch vụ để phục vụ cho nhu cầu của cá nhân mình, gia
đình mình. Mục đích tiêu dùng, sinh hoạt khơng phải là phục vụ cho việc mua đi
bán lại, hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động nghề nghiệp. Như trường

7


hợp cơ quan mua nước ở trên thì người tiêu dùng được xác định là những người
uống nước. Người tiêu dùng họ nhất thiết phải là người trực tiếp mua hàng hóa,
dịch vụ mà có thể được tặng cho, cấp phát,... [20, tr. 8-14].
1.1.2. Vai trò của người tiêu dùng
Người tiêu dùng khi tham gia vào quá trình mua hàng, đóng cùng một lúc
ba vài trị:
Thứ nhất, với tư cách là người sử dụng sản phẩm, người tiêu dùng quan

tâm tới các đặc trưng của sản phẩm và cách sử dụng hàng hóa tối ưu. Họ có quyền
lựa chọn, đánh giá chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà mình sử dụng. Cuộc sống ngày
càng phát triển thì nhu cầu mua sắm của con người cũng tăng dần. Khi đưa bất kỳ
một quyết định mua sắm nào, người tiêu dùng có quyền được tự do tham khảo, chọn
lựa sản phẩm mình muốn mua và sử dụng theo đúng nhu cầu và mục đích của mình.
Người tiêu dùng mua với số lượng lớn, doanh nghiệp bán được nhiều hàng thì
doanh thu tăng cao, doanh nghiệp mới có thể tồn tại. Có thể nói sức mua của người
tiêu dùng là yếu tố quyết định trực tiếp sự thành bại của doanh nghiệp và gián tiếp
đến tự tăng trưởng của nền kinh tế.
Thứ hai, với tư cách là người trả tiền để mua sản phẩm, người tiêu dùng
quan tâm tới giá cả của các loại hàng hóa và giới hạn ngân sách dành cho các loại
hàng hóa khác nhau. Những mục quảng cáo liên quan tới giảm giá hay khuyến mãi
thường có sức hấp dẫn đối với người tiêu dùng nhạy cảm với giá cả. Chính từ nhu
cầu mua sắm của người tiêu dùng, nhiều doanh nghiệp sẽ lên kế hoạch đưa ra nhiều
sản phẩm, dịch vụ đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng ngày càng cao của người
tiêu dùng đồng thời tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Từ đó doanh
nghiệp sẽ có chiến lược phát triển lâu dài và phù hợp với tình hình thực tế. Chính vì
vậy, người tiêu dùng chính là người tác động khơng nhỏ đến kế hoạch và chiến lược
kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Thứ ba, với tư cách là người mua hàng, họ quyết định hành vi mua sắm của
chính mình. Đó là việc quyết định xem nên đặt mua hàng qua mạng Internet hay

8


đến trực tiếp các showroom. Người tiêu dùng là người mua và sử dụng hàng hóa,
dịch vụ của doanh nghiệp. Qua đó họ có thể đưa ra những ý kiến đóng góp hữu ích
và chính xác về sản phẩm và dịch vụ mà mình sử dụng. Tùy thuộc vào thị hiếu tiêu
dùng và ý kiến thu thập được từ phía người tiêu dùng mà doanh nghiệp có thể điều
chỉnh lại phương pháp sản xuất, hồn thiện sản phẩm của mình sao cho phù hợp với

nhu cầu của người tiêu dùng.
1.1.3. Các quyền lợi cơ bản của người tiêu dùng
Quyền lợi hiểu một cách khái quát là quyền được hưởng những lợi ích về
chính trị xã hội, về vật chất, tinh thần do kết quả hoạt động của bản thân tạo nên
hoặc do phúc lợi chung cho nhà nước, xã hội hoặc tập thể cơ quan, xí nghiệp, tổ
chức nơi mình sống, làm việc đem lại. Quyền lợi của người tiêu dùng là những
quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.
Trên cơ sở hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, nhiều quốc gia trên thế giới cũng như tại Việt Nam đã ghi nhận 8 quyền của
người tiêu dùng trong pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bao gồm:
- Được bảo đảm an tồn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp

pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.
- Được cung cấp thơng tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh

hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng
hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thơng tin
cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.
- Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch

vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc khơng tham
gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả,

chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội

9



dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ.
- Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng.
- Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu

chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, cơng dụng, giá cả hoặc
nội dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm
yết, quảng cáo hoặc cam kết.
- Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo

vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan.
- Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch

vụ [14, Điều 8].
Trong 8 quyền được ghi nhận tại Điều 8 Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng nói trên quyền được cung cấp thơng tin chính xác đầy đủ được xem là
quyền quan trọng nhất, là vấn đề then chốt trong việc bảo vệ người tiêu dùng, bởi
lẽ có được thơng tin người tiêu dùng mới biết đến các quyền của mình để có thể
nhận thức được quyền nào bị nhà kinh doanh xâm phạm từ đó biết sử dụng các
công cụ pháp lý để bảo vệ mình. Có thơng tin đầy đủ, chính xác người tiêu dùng
mới có sự lựa chọn tiêu dùng đúng đắn. Và trên thực tế thì đây cũng là quyền bị
xâm phạm nhiều nhất. Thơng thường các nhà kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận thì
ln chỉ cung cấp những thơng tin về hàng hóa, dịch vụ có lợi cho mình, những
thơng tin ít có lợi sẽ ít được truyền tải đến người tiêu dùng để tránh gây bất lợi cho
việc kinh doanh.
Như vậy quyền lợi của người tiêu dùng thực chất là quyền cơ bản của

con người và nó được cụ thể hóa trong lĩnh vực tiêu dùng, có thể nói đây là
nhóm quyền dù ít hay nhiều cũng đang hàng ngày bị xâm phạm, chính vì vậy hệ
thống quyền lợi của người tiêu dùng đã được Quốc tế người tiêu dùng ghi nhận và

10


trở thành một ngành luật mang đậm tính đại chúng và nhân văn tại hầu hết các quốc
gia trên thế giới.
1.2. Khái quát chung về hợp đồng theo mẫu và bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng theo mẫu
1.2.1.1. Hợp đồng theo mẫu theo quan điểm của một số nước trên thế
giới
Dưới góc độ pháp lý, các hoạt động cơ bản của con người trong xã hội được
tạo lập trên nền tảng hợp đồng, bởi vậy mối quan hệ giữa người tiêu dùng và nhà
sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ cũng khơng nằm ngồi ngun tắc chung đó.
Hợp đồng là cầu nối quan trọng giữa nhà kinh doanh và người tiêu dùng, khi hai
bên mong muốn hợp tác để đáp ứng cho các nhu cầu của mình: một bên ln muốn
tối đa hóa lợi nhuận bán hàng trong khi bên kia lại muốn đảm bảo ở mức cao nhất
khả năng được cung ứng và lựa chọn các sản phẩm khác nhau trên thị trường. Để có
được hàng hóa, dịch vụ thỏa mãn nhu cầu hàng ngày người tiêu dùng hầu như lúc
nào cũng đóng vai trị là một bên của hợp đồng. Hợp đồng mẫu là một trong những
loại hợp đồng được nhiều nước trên thế giới áp dụng trong mối quan hệ giữa nhà
kinh doanh và người tiêu dùng trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ thiết yếu hay
mang tính đại trà như điện, nước, dịch vụ viễn thơng, internet, dịch vụ vận chuyển,
bảo hiểm,...
Trên thế giới hợp đồng theo mẫu có thể được quy định bằng các tên gọi
khác nhau như hợp đồng gia nhập, hợp đồng hàng loạt,... cũng như tồn tại ở nhiều
hình thức khác nhau nhưng tựu chung lại thì chúng đều thể hiện những điều khoản

chung mà các doanh nghiệp thường sử dụng để điều chỉnh, chi phối mối quan hệ
giữa doanh nghiệp với tất cả khách hàng của mình. Những điều khoản chung là
những điều kiện hợp đồng, quy tắc bán hàng, chính sách khách hàng mà doanh
nghiệp soạn thảo sẵn để áp dụng cho tất cả các đối tượng khách hàng tham gia giao
dịch với doanh nghiệp và khi tham gia giao dịch khách hàng buộc phải chấp nhận

11


các điều khoản đó, khơng có cơ hội thương lượng.
Tại một số quốc gia trên thế giới, hệ thống pháp luật tiên tiến đồng bộ, và vấn
đề bảo vệ người tiêu dùng trong hợp đồng theo mẫu được kiểm soát chặt chẽ, ví dụ:
Pháp luật Canada xác định loại hợp đồng theo mẫu là hợp đồng tiêu dùng
và mỗi một tỉnh bang tại Canada đều có các biện pháp pháp lý riêng nhằm bảo vệ
người tiêu dùng khỏi các điều khoản không công bằng. Tại Canada, Luật bảo vệ
người tiêu dùng của Bang Quebec được xem là văn bản điển hình thể hiện cách tiếp
cận bảo vệ người tiêu dùng thơng qua chế định hợp đồng một cách tồn diện nhất.
Ngay tại điều 8, Luật khẳng định: "Người tiêu dùng có thể tun bố vơ hiệu một
hợp đồng hoặc đề nghị giảm nghĩa vụ của mình nếu trong hợp đồng thể hiện rõ sự
không cân xứng giữa phần nghĩa vụ tương ứng của các bên mà phần lớn thuộc về
Người tiêu dùng hoặc nếu nghĩa vụ của Người tiêu dùng là q nhiều, khơng hợp
lý". Ngồi ra Luật cịn đưa ra những quy định mang tính nguyên tắc để xác định
tính hiệu lực trong các hợp đồng theo mẫu đồng thời quy định về các vấn đề liên
quan như: ngôn ngữ hợp đồng, địa điểm giao kết hợp đồng, hình thức, trình tự ký
kết hợp đồng.
Pháp luật của EU, EU đã ban hành nhiều chỉ thị liên quan đến người tiêu
dùng nhưng chỉ thị đáng chú ý nhất là chỉ thị số 1999/44/EC của Nghị viện châu Âu
và Hội đồng châu Âu ngày 25 tháng 5 năm 1999 về bán hàng hóa cho người tiêu
dùng. Mặc dù trong chỉ thị không đề cập trực tiếp đến người theo mẫu nhưng đã
đưa ra được những nguyên tắc cần thiết mà những thương nhân, người bán hàng

hóa cần phải tuân thủ khi soạn thảo, xác lập hợp đồng với người tiêu dùng. Đây là
văn bản tiến bộ nhất, mang tính định hướng cho hàng loạt các văn bản về sau về vấn
đề hợp đồng tiêu dùng và bảo vệ người tiêu dùng.
Cộng hòa Liên bang Đức là quốc gia rất quan tâm đến bảo vệ người tiêu
dùng. Từ năm 1976, Đức đã ban hành Luật quy định về điều kiện thương mại chung
và sau này được chuyển hóa vào Bộ luật Dân sự Cộng hịa Liên bang Đức. Theo đó
thì điều kiện thương mại chung được định nghĩa là tất cả các điều khoản hợp đồng

12


được soạn thảo sẵn để áp dụng cho hàng loạt hợp đồng mà một bên đưa ra cho bên
còn lại để ký kết hợp đồng. Trường hợp có những điều khoản mập mờ, tối nghĩa và
dễ gây hiểu nhầm cho bên giao kết thì chúng sẽ được giải thích "chống lại người
soạn thảo". Đó là những quy định cơ bản thể hiện việc bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng của pháp luật Đức.
Hàn Quốc là một trong số ít quốc gia ban hành một đạo luật riêng về hợp
đồng theo mẫu hay còn gọi là hợp đồng gia nhập. Khi định nghĩa về hợp đồng gia
nhập, pháp luật Hàn Quốc cho rằng "các điều kiện và điều khoản chung của hợp
đồng, ngoại trừ tên, loại hoặc vi phạm hợp đồng, được chuẩn bị trước bởi một bên
tham gia hợp đồng trong một hình thức nhất định cho mục đích để giao kết với một
số lượng lớn đối tác". Luật còn đưa ra những điều khoản rất cụ thể, chi tiết về các
điều khoản không công bằng trong hợp đồng gia nhập, các chế tài xử lý đối với
hành vi vi phạm về hợp đồng gia nhập,... Có thể nói, Hàn Quốc là quốc gia có
khung pháp lý vững chắc và toàn vẹn về hợp đồng gia nhập hay hợp đồng theo mẫu
và bảo vệ người tiêu dùng.
Nhìn chung, trên thế giới quy định về hợp đồng theo mẫu ở các quốc gia
đều xuất hiện sớm, mặc dù có những quan điểm không giống nhau nhưng đều
hướng tới bảo vệ người tiêu dùng
1.2.1.2. Hợp đồng theo mẫu tại Việt Nam

Tại Việt Nam, thuật ngữ hợp đồng theo mẫu là một thuật ngữ pháp lý khá
mới mẻ và mặc dù chưa được nghiên cứu một cách toàn diện song đã được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật (Bộ luật Dân sự, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng) và được đề cập trong một số cơng trình nghiên cứu của một một số tác giả.
hợp đồng theo mẫu được ghi nhận tại Bộ luật Dân sự, nó là một hợp đồng dân sự và
được sử dụng rộng rãi trong một số các lĩnh vực kinh doanh tại Việt Nam. Đã có
những doanh nghiệp có số lượng người tiêu dùng lên đến hàng nghìn thậm chí là
hàng triệu người nhất là trong những doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
thiết yếu đối với người tiêu dùng và các doanh nghiệp lớn khác. Để phù hợp với số

13


lượng người tiêu dùng ngày càng tăng cũng như tạo thuận lợi trong hoạt động kinh
doanh của mình nhiều doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp có số lượng
khách hàng lớn đã lựa chọn giải pháp đưa ra quy định về hợp đồng theo mẫu để áp
dụng cho tất cả khách hàng của mình.
 Khái niệm hợp đồng theo mẫu

Khái niệm hợp đồng theo mẫu được quy định tại Điều 405 Bộ luật Dân sự
2015: "hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra
theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời
chấp nhận thì coi như chấp nhận tồn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề
nghị đã đưa ra".
Xét về nội dung điều khoản, nhà làm luật cũng đã đưa ra được một khía
cạnh nào đó của hợp đồng theo mẫu song việc nhấn mạnh tới việc đề nghị và chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng đã khơng nói lên được tính chất theo mẫu của hợp
đồng, có nghĩa là khơng nêu được tính chất "đại chúng" của các điều kiện mẫu, tính
"tiêu chuẩn hóa" của các điều khoản hợp đồng đã được đưa ra từ trước. Mặt khác,
có thể thấy khái niệm hợp đồng theo mẫu trong điều khoản này có nội hàm hẹp hơn

khái niệm hợp đồng theo mẫu trên thế giới, hợp đồng này còn được gọi là hợp đồng
theo mẫu tiêu chuẩn, được định nghĩa là loại hợp đồng trình bày theo mẫu chuẩn
trên cơ sở "chọn nó hoặc từ bỏ nó" do một bên đưa ra để ký kết với một bên khơng
có khả năng đàm phán thương lượng.
Khoản 5 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 lại định
nghĩa "hợp đồng theo mẫu là hợp đồng do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ soạn thảo để giao dịch với người tiêu dùng".
Khái niệm hợp đồng theo mẫu mà Bộ luật Dân sự đưa ra áp dụng chung
cho tất cả các lĩnh vực và mọi loại đối tượng còn khái niệm trong Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng hướng tới loại hợp đồng mà đối tượng giao kết hợp
đồng một bên là tổ chức, cá nhân kinh doanh, một bên là người tiêu dùng. Mặc dù
hai khái niệm khơng hồn tồn đồng nhất nhưng tựu chung lại đều làm nổi bật hợp

14


đồng theo mẫu là loại hợp đồng do một bên soạn thảo trước, bên cịn lại chỉ có
quyền xem xét và quyết định chấp nhận hay không chấp nhận các điều khoản đó
thơng qua việc ký hay khơng ký hợp đồng, khơng có quyền thương thảo các điều
khoản trong hợp đồng.
 Đặc điểm của hợp đồng theo mẫu
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ xã hội cụ thể. Hợp đồng theo mẫu
trước hết là một loại hợp đồng vì vậy mang nhũng đặc điểm của một hợp đồng nói
chung. Ngồi ra, hợp đồng theo mẫu còn mang những đặc trưng riêng, để phân biệt
với các loại hợp đồng khác:
Thứ nhất, hợp đồng theo mẫu là một dạng đặc thù của hợp đồng dân sự
nghĩa là nó mang đầy đủ những đặc điểm của một hợp đồng dân sự nói chung và
chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật dân sự. Điều này được thể hiện ở việc Bộ
luật Dân sự dành riêng một điều khoản (Điều 407 Bộ luật Dân sự 1995, Điều 407 Bộ

luật Dân sự 2005 và hiện nay Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015) để quy định về hợp
đồng theo mẫu. Tuy nhiên, các quy định của Bộ luật Dân sự chưa thật sự đầy đủ,
vẫn mang tính chất chung chung thiếu những quy định cụ thể trực tiếp bảo vệ người
tiêu dùng khi giao kết, thực hiện hợp đồng theo mẫu, thể hiện ở việc: Bộ luật Dân
sự chưa trực tiếp hướng tới việc bảo vệ người tiêu dùng với tư cách là bên yếu thế
trong quan hệ với các nhà sản xuất, kinh doanh, chỉ đưa ra những quy định mang
tính nguyên tắc; Chưa đề cập hết các trường hợp vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
và các cơ chế kiểm soát đối với hợp đồng theo mẫu. Mặc dù không quy định một
cách chi tiết như pháp luật chuyên ngành nhưng Bộ luật Dân sự là cơ sở để hợp
đồng theo mẫu được đưa vào áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Thứ hai, tính chất theo mẫu. Đây được xem là đặc điếm nổi bật, mang tính
đặc trưng của loại hợp đồng này. Tính chất "theo mẫu" được thể hiện thơng qua các
điều khoản của hợp đồng đã được tiêu chuẩn hóa do một bên của hợp đồng chuẩn bị
từ trước mà không có sự thỏa thuận về các điều kiện, bên cịn lại chỉ có quyền chấp

15


nhận vô điều kiện nội dung của hợp đồng hoặc từ chối giao kết và luôn ở một vị thế
thấp hơn nhiều so với bên soạn thảo hợp đồng. Sự thỏa thuận trong hợp đồng theo
mẫu đã bị mất đi q trình đàm phán, thương lượng, có thể nói hai bên khơng có sự
thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm
dứt quyền, nghĩa vụ của các bên. Trong sự thỏa thuận, ngồi mục đích các bên khi
tham gia giao dịch sẽ được pháp luật điều chỉnh thì cần phải quan tâm đến hai yếu
tố chính: Đó là tự do ý chí và sự ưng thuận. Tự do ý chí có nghĩa là các bên trong
giao kết hợp đồng được tự do thể hiện ý chí, đưa ra quan điểm của mình nhưng
khơng được trái pháp luật, đạo đức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba
để các bên cùng nhau thương thảo đảm bảo mục đích cuối cùng trong hợp tác kinh
doanh là hai bên cùng có lợi. Những điều khoản mà các bên đưa ra để cùng nhau

thương lượng và thống nhất thơng qua để ý chí của các bên gặp nhau được xem là
ưng thuận. Như vậy, yếu tố tự do ý chí và sự ưng thuận là một trong những vấn đề
cốt lõi cơ bản khi soạn thảo hợp đồng để giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, hợp đồng
theo mẫu là một loại hợp đồng đặc biệt, tự do ý chí khơng được đề cao, ý chí của
hai bên vẫn được thể hiện qua hợp đồng tuy nhiên những điều khoản của hợp đồng
là những nội dung đã được dự liệu sẵn, hoàn toàn được xây dựng trên cơ sở ý chí
của nhà sản xuất, kinh doanh; ý chí của bên cịn lại chỉ được thể hiện khi họ đặt bút
ký rằng họ đồng ý hoàn toàn về nội dung của hợp đồng, sự không đồng ý nếu có của
người tiêu dùng thường khơng được bên cịn lại đồng ý và điều đó đồng nghĩa với
việc họ từ chối giao kết hợp đồng. Nhà sản xuất, kinh doanh bằng sức mạnh kinh tế
và sự chuyên nghiệp của mình để thiết lập những điều khoản ưu tiên bảo vệ quyền
lợi của mình, đơi khi người tiêu dùng biết nhưng họ vẫn buộc phải chấp nhận để có
được sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của mình. Quá trình ưng thuận ở đây đã
khơng được diễn ra hồn chỉnh mà gần như chỉ mang tính chất lý thuyết hơn là thực
tế bởi người tiêu dùng không được tham gia đàm phán với nhà sản xuất, kinh doanh
về ý chí được thể hiện trong hợp đồng, người tiêu dùng buộc phải chấp nhận các

16


điều khoản trong hợp đồng nếu đồng ý giao dịch.
Thứ ba, hợp đồng theo mẫu được áp dụng chủ yếu cho người tiêu dùng.
Mục đích của các nhà sản xuất kinh doanh khi ban hành hợp đồng theo mẫu là để
tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong quá trình giao dịch với người tiêu dùng. Do
vậy đối tượng áp dụng chủ yếu của hợp đồng theo mẫu là người tiêu dùng. Khi họ
ban hành hợp đồng theo mẫu không hướng đến các đối tượng khác như nhà cung
cấp nguyên liệu, phụ kiện, các khách hàng lớn mà chủ yếu là áp dụng cho các đối
tượng là người tiêu dùng nhỏ lẻ là đối tượng chiếm số lượng quá lớn trên thị
trường không cho phép họ sử dụng các hợp đồng truyền thống dựa trên nguyên tắc
tự do, tự nguyện. Ngồi ra, đây là đối tượng khơng có vị thế cân bằng trong đàm

phán hợp đồng với nhà sản xuất kinh doanh khiến họ dễ dàng chấp nhận hợp
đồng hơn.
Thứ tư, hợp đồng theo mẫu được áp dụng hàng loạt với nhiều người và
dược lặp đi lặp lại nhiều lần. Những quy định, điều khoản mà nhà sản xuất, kinh
doanh đưa ra trong hợp đồng theo mẫu không hướng đến người tiêu dùng cụ thể
hay trường hợp cụ thể mà nó dự một "đạo luật" riêng mà nhà sản xuất kinh doanh
áp dụng cho nhiều người tiêu dùng và áp dụng trong thời gian dài. Phương thức
bán hàng truyền thống dựa trên cơ sở hợp đồng được giao kết với từng đối tượng
cụ thể theo những cách thức khác nhau, quyền và nghĩa vụ cũng có thể khác nhau
trên cơ sở sự thương lượng thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên khi sử dụng hợp
đồng theo mẫu dường như không có bất kỳ sự phân biệt nào giữa những người tiêu
dùng với nhau hay nói cách khác là tất cả những quy định, quy tắc trong hợp đồng
mặc nhiên áp dụng cho tất cả người tiêu dùng khi xác lập giao dịch với nhà sản
xuất, kinh doanh [20, tr. 104-105].
Thứ năm, trong hợp đồng theo mẫu sự bất cân xứng về thông tin là rất lớn.
Thông tin là một trong những yếu tố mà người tiêu dùng quan tâm nhất khi sử dụng
hàng hóa, dịch vụ bởi vì để đảm bảo người tiêu dùng có thể đưa ra một quyết định,
một lựa chọn đúng đắn thì vấn đề quan trọng nhất là thơng tin về hàng hóa, dịch vụ

17


mà người tiêu dùng đang cân nhắc mua, sử dụng đặc biệt là những thông tin như:
nguồn gốc xuất xứ, giá cả, chất lượng, tính năng, cơng dụng, chế độ hậu mãi,
phương thức thanh tốn,... hay những thơng tin về nhà sản xuất, kinh doanh như: uy
tín, thương hiệu, năng lực hoạt động, địa điểm kinh doanh, địa điểm thực hiện bảo
hành, sửa chữa hàng hóa,... Tuy nhiên, ngồi tổ chức, cá nhân kinh doanh thì ít ai có
thể tiếp cận và biết rõ những thơng tin đó. Thơng thường khi giao dịch họ tung ra
những thơng tin có lợi cho doanh nghiệp và cố gắng giấu đi những điểm cịn hạn
chế. Thơng thường trong hợp đồng truyền thống thì bên giao kết hợp đồng với nhà

sản xuất kinh doanh họ có quyền đàm phán và yêu cầu cung cấp thêm thơng tin nếu
họ thấy chưa đầy đủ, có thể họ vẫn không thể khai thác hết được nhưng sự bất cân
xứng về thơng tin cũng ít hơn. Cịn trong hợp đồng theo mẫu, người tiêu dùng mặc
nhiên tiếp nhận những thơng tin sẵn có mà nhà sản xuất, kinh doanh cung cấp tại
hợp đồng, trường hợp khách hàng có hiểu biết muốn cung cấp thêm thơng tin thì đó
cũng chỉ là thông tin được truyền đạt bằng miệng không được xác thực trong hợp
đồng. Đây chính là biểu hiện về sự bất cân xứng về thông tin trong hợp đồng theo
mẫu, nó xuất phát từ đặc điểm hợp đồng theo mẫu được xây dựng trên cơ sở ý chí
của nhà sản xuất, kinh doanh.
Thứ sáu, nội dung của hợp đồng theo mẫu là những điều khoản đã được
định sẵn để bảo vệ tối đa lợi ích cho nhà sản xuất, kinh doanh. Thực tế hợp đồng
theo mẫu được soạn thảo rất tỉ mỉ, thông thường nhà sản xuất, kinh doanh họ có
luật sư tư vấn pháp luật, trong nhiều lĩnh vực như ngân hàng, bảo hiểm họ còn huy
động một hệ thống chuyên viên của phòng pháp chế để thảo ra từng điều khoản
trong hợp đồng. Ngôn ngữ trong hợp đồng được sử dụng là những ngơn ngữ mang
tính chuyên ngành, thường khó hiểu làm cho người tiêu dùng ngại đọc, đôi khi là
hiểu sai vấn đề dẫn đến bất lợi khi có tranh chấp xảy ra.
 Vai trị của việc sử dụng hợp đồng theo mẫu trong các giao dịch
Xuất phát từ tính lặp đi lặp lại của các giao dịch cùng loại, hợp đồng theo
mẫu ra đời như một đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế phát triển nhằm tiêu chuẩn hóa

18


và thống nhất các điều khoản chung của hợp đồng trong các giao dịch, tăng khả năng
cạnh tranh của các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ, đóng vai trị quan trọng trong việc
điều chỉnh quan hệ giữa nhà kinh doanh chuyên nghiệp và người tiêu dùng.
Hợp đồng theo mẫu đơn giản, thuận tiện cho các bên khi ký kết hợp đồng,
giúp các bên tiết kiệm được thời gian, công sức cho việc đàm phán, giảm thiểu chi
phí giao dịch qua đó tăng hiệu quả của việc giao kết hợp đồng giữa doanh nghiệp và

người tiêu dùng.
1.2.2. Tính tất yếu của cơ chế bảo vệ người tiêu dùng trong giao kết và
thực hiện hợp đồng theo mẫu
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng theo mẫu là một yêu cầu
khách quan và mang tính tất yếu bởi những lý do sau:
Trong hợp đồng theo mẫu, giữa nhà sản xuất, kinh doanh và người tiêu
dùng rõ ràng có vị thế khơng bình đẳng với nhau. Bất cân xứng về thông tin là
nguyên nhân cơ bản nhất tạo nên sự bất bình đẳng giữa các bên trong hợp đồng.
Trên thị trường, thơng tin ln đóng vai trị quan trọng, bởi nhờ có các thơng tin
được cung cấp, các bên có thể đánh giá, dự đốn rủi ro, lợi ích và sự công bằng khi
tham gia giao dịch với đối tác của mình. Hiện tượng dịng thơng tin khơng cân bằng
vì vậy đã làm "cán cân" lợi ích và thế mạnh nghiêng về nhà kinh doanh, đấy người
tiêu dùng vào vị thế bất lợi hơn. Trong khi đó, theo nguyên tắc tự do ý chí, hợp
đồng là nơi gặp gỡ của ý chí và ý chí đích thực là yếu tố cơ bản và khơng thể thiếu
để hình thành nên hợp đồng; bởi thế dù các bên có vị thế khơng bình đẳng với nhau
về khả năng đàm phán, thương lượng hợp đồng, thậm chí khơng có sự thương lượng
giữa các bên trong hợp đồng theo mẫu, song đây vẫn được coi là sự thỏa thuận của
các bên trong quan hệ hợp đồng. Khi tham gia quan hệ hợp đồng, người tiêu dùng
phải chấp nhận toàn bộ các điều kiện và điều khoản do nhà kinh doanh chuyên
nghiệp đưa ra, tức là hợp đồng theo mẫu vẫn là nội dung của ý chí của người tiêu
dùng kể cả khi họ khơng còn sự lựa chọn nào khác. Người tiêu dùng bị ràng buộc

19


bởi những gì mình đã "thỏa thuận", bởi vậy vơ hình chung ý chí của nhà kinh doanh
trở thành luật chơi chung trong các giao dịch, nguyên tắc tự do hợp đồng trở thành
tự do độc quyền áp đặt ý chí.
Sự xuất hiện của hợp đồng theo mẫu khơng chỉ thay đổi hình thức hợp
đồng truyền thống mà cịn mang đến thách thức cho nguyên tắc tự do hợp đồng, vì

trong nền kinh tế thị trường, khi sản xuất xã hội và tiêu dùng đều ở quy mô lớn,
bên cạnh các doanh nghiệp có thực lực hùng hậu như các tập đồn đa quốc gia
người tiêu dùng ngày càng đơng hơn, cho dù họ thành lập hợp đồng về mặt hình
thức là bình đẳng với nhau thì thực chất năng lực đàm phán khơng bình đẳng. Sự
phổ biến của hợp đồng theo mẫu trong đời sống kinh tế còn được nhiều học giả ví
như "xu hướng rời bỏ hợp đồng để quay lại với quy chế" hay là một biểu hiện của
"q trình xã hội hóa luật dân sự", q trình thu hẹp phạm vi hợp đồng cá nhân
bằng cách thay thế vào đó hợp đồng mang tính tập thể. Nói cách khác sự xuất hiện
của hợp đồng theo mẫu cho thấy một hạn chế của nguyên tắc tự do ý chí. Tự do ý
chí là tự do có giới hạn vì nếu để các bên tự do vơ hạn thì hợp đồng sẽ trở thành
phương tiện để kẻ giàu bóc lột người nghèo và sẽ là nguy cơ đối với lợi ích chung
của xã hội. Điều này được minh chững rất rõ trong hợp đồng theo mẫu hầu như
không có sự hịa hợp ý chí của các bên bởi trước một bên có sức mạnh kinh tế,
người tiêu dùng là bên yếu thế, thiếu tính chuyên nghiệp và ít khả năng lựa chọn
hơn, tự do ý chí chỉ cịn mang ý nghĩa là sự áp đặt ý chí của một bên đối với bên
kia, ngăn cản việc hình thành ý chí đích thực trong giao kết hợp đồng. Trong mối
quan hệ giữa một bên yếu và một bên mạnh, ý chí sẽ tạo ra sự lệ thuộc cịn pháp
luật là phương tiện để giải phóng họ, bởi vậy để tăng cường sự an toàn cho các
giao dịch và duy trì sự cơng bằng, đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng là tăng
cường quản lý tự do hợp đồng. Đây là tiền đề đầu tiên và quan trọng nhất để Nhà
nước can thiệp vào quan hệ hợp đồng giữa người tiêu dùng và nhà kinh doanh
chuyên nghiệp nhằm đảm bảo thực thi nguyên tắc tự do ý chí đã được ghi nhận

20


trong Bộ luật Dân sự và xa hơn là đảm bảo tính cơng bằng và đúng đắn của pháp
luật của một nền pháp chế văn minh.
Việc điều chỉnh hợp đồng theo mẫu bằng các quy định pháp luật đặc thù có
thể khơng được đặt ra nếu như các điều khoản của nó đảm bảo quyền và lợi ích hợp

pháp của cả hai bên trong quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, thực tế là nhà kinh doanh
với sức mạnh kinh tế và tính chun nghiệp ln nắm ưu thế trong việc thuyết phục
người tiêu dùng sử dụng hàng hóa, dịch vụ theo những điều kiện mà họ đặt ra cũng
như nắm ưu thế trong việc đàm phán, thương lượng các điều khoản hợp đồng. Là
bên soạn thảo hợp đồng, rõ ràng nhà kinh doanh hồn tồn có thể "lợi dụng" ngun
tắc tự do ý chí để có được những lợi thế khi ký kết hợp đồng, đặt người tiêu dùng ở
vị thế yếu hơn. Hợp đồng theo mẫu bởi vậy có nhiều bất lợi cho người tiêu dùng và
cần đến sự can thiệp của công quyền nhằm chống lại nguy cơ hình thành và áp dụng
các điều khoản hợp đồng khơng cơng bằng hoặc khơng thiện chí.
Việc độc quyền sản xuất hoặc cung cấp hàng hóa, dịch vụ cũng là một trong
những nguyên nhân hàng đầu tước bỏ cơ hội được đàm phán các điều khoản của
hợp đồng của người tiêu dùng, bởi với những loại hàng hóa, dịch vụ mang tính thiết
yếu như điện, nước... người tiêu dùng hồn tồn khơng thể có lựa chọn nào khác và
hầu như chấp nhận mọi điều khoản được nhà kinh doanh chuyên nghiệp đưa ra. Tuy
nhiên, cũng có một thực tế là các điều khoản dựng sẵn cũng khơng có ý nghĩa nhiều
với người tiêu dùng bởi điều khoản hợp đồng được coi là quan trọng nhất là giá cả
và chất lượng hàng hóa, dịch vụ lại thường được thỏa thuận trước khi hợp đồng theo
mẫu được ký kết. Những điều khoản khác có liên quan như quy định về sự kiện bất
khả kháng hay đề cập đến các quy chế cụ thể, các ngun tắc pháp lý mang tính
khn mẫu dường như không quan trọng đối với người tiêu dùng. Đây cũng là lý do
khiến cho các điều khoản này ngày càng ít được đọc hoặc có thể bị bỏ qua ngay cả
khi họ có đọc chúng và cũng là lý do để nhà kinh doanh không đưa ra các điều
khoản hợp đồng có lợi nhất và cơng bằng cho người tiêu dùng, kể cả trong thị
trường có sự cạnh tranh. Hợp đồng theo mẫu tiêu chuẩn đôi khi không được khách
hàng quan tâm bằng uy tín, danh tiếng của nhà kinh doanh chuyên nghiệp trong việc

21


sản xuất, cung ứng các sản phẩm trên thị trường tiêu dùng. Thêm vào đó, nhà kinh

doanh khi soạn thảo hợp đồng theo mẫu cho rằng lợi ích từ việc soạn thảo các điều
khoản hợp đồng không nhất thiết phải đảm bảo tính cạnh tranh về nội dung các điều
khoản mà chủ yếu là để giới hạn trách nhiệm của nhà kinh doanh. Đơi khi hợp đồng
theo mẫu cịn được soạn thảo bởi một hiệp hội nghề nghiệp và được cung cấp cho
các thành viên trong hiệp hội để tăng tính thống nhất của hợp đồng, làm giảm khả
năng lựa chọn, đàm phán hợp đồng của người tiêu dùng.
Như vậy, bởi có vị thế yếu hơn trên nhiều phương diện, người tiêu dùng hầu
như khơng có cơ hội thương lượng các điều khoản của hợp đồng theo mẫu. Bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng trong quan hệ hợp đồng với nhà kinh doanh chuyên
nghiệp chính là bảo vệ quyền được bình đẳng khi ký kết hợp đồng và quyền giao
dịch trung thực của người tiêu dùng, vấn đề này được đặt ra cũng xuất phát từ thực
tiễn của công tác bảo vệ người tiêu dùng nói chung, theo đó người tiêu dùng thường
gặp bốn vấn đề (hay bốn yếu thế) cơ bản sau:
- Yếu thế trong việc tiếp cận, xử lý và hiểu các thơng tin về hàng hóa, dịch

vụ trong quan hệ mua bán, trao đổi (vấn đề thông tin bất cân xứng), thông tin bất
cân xứng ngày càng trở thành một lĩnh vực cần được quan tâm, đặc biệt trong
những hợp đồng giữa thương nhân và người tiêu dùng. Người tiêu dùng do không
trực tiếp tham gia vào q trình sản xuất hàng hóa, dịch vụ, cũng như do những hạn
chế trong hiểu biết về chuyên môn, kỹ thuật nên thường khơng hiểu được đầy đủ
tính năng, công dụng, chất lượng, các rủi ro liên quan tới q trình tiêu thụ hàng
hóa, dịch vụ như nhà kinh doanh chuyên nghiệp. Trong giao dịch với nhà kinh
doanh chuyên nghiệp, người tiêu dùng cịn có thể gặp các bất lợi khác như không
nắm bắt được thông tin về giá cả của các loại hàng hóa, dịch vụ tương tự, các thông
tin về chất lượng dịch vụ, hậu mãi,...
- Yếu thế trong việc đàm phán, thiết lập hợp đồng, giao dịch khi quan hệ

với nhà kinh doanh chuyên nghiệp trên thị trường.
- Yếu thế về khả năng chi phối giá cả, các điều kiện kinh doanh, giao dịch


22


trên thị trường, nhất là trong các thị trường mà chỉ có một số ít doanh nghiệp chi
phối, chiếm lĩnh.
- Yếu thế về khả năng chịu rủi ro trong quá trình tiêu dùng sản phẩm: Do

tiềm lực tài chính có hạn, khi xảy ra các rủi ro phát sinh trong q trình tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ, người tiêu dùng sẽ rất khó khăn khi phải tự mình trang trải các
chi phí khắc phục những rủi ro. Trong khi đó, nếu gánh nặng chi phí ngăn ngừa,
gánh chịu rủi ro ấy được chuyển sang cho nhà kinh doanh chuyên nghiệp thì khả
năng trang trải các chi phí này thường là tốt hơn [8, tr. 28-30].
Kết luận Chương 1
Xuất phát từ những đặc điểm và vai trò của hợp đồng theo mẫu nhận thấy
được những lợi ích mà hợp đồng theo mẫu mang lại, hợp đồng theo mẫu đã và đang
trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại. Với tư cách là bên yếu
thế hơn khi tham gia giao dịch với các tổ chức, cá nhân kinh doanh, sự bất cân xứng
về chi phí giao dịch và thông tin nên việc sử dụng hợp đồng theo mẫu thường gây
những hậu quả bất lợi cho người tiêu dùng vì vậy việc bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong giao dịch hợp đồng theo mẫu cần được quan tâm hơn nữa và đặc biệt là
bằng cơ chế kiểm soát hợp đồng theo mẫu để đảm bảo tối đa quyền lợi của người
tiêu dùng.

23


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRONG GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG THEO MẪU Ở VIỆT
NAM

Như đã phân tích ở chương 1, việc ký kết và thực hiện hợp đồng theo
mẫu thường mang lại cho người tiêu dùng ở thế bất lợi vì vậy sẽ gây ra những
rủi ro cho họ. Xuất phát từ đặc điểm của hợp đồng theo mẫu, để bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng Nhà nước thường can thiệp sâu hơn bằng biện pháp đặt ra
cơ chế để kiểm soát loại hợp đồng này thông qua các quy định pháp luật sau
đây.
2.1. Quy định về đối tượng của hợp đồng theo mẫu bị kiểm soát
Khoản 1 Điều 19 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 quy định:
"Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch
vụ thiết yếu do Thủ tưởng Chính phủ ban hành phải đăng ký hợp đồng theo mẫu,
điều kiện giao dịch chung với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dừng".
Theo đó những tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thiết yếu bao
gồm 11 hàng hóa, dịch vụ thiết yếu theo Quyết định số 35/2015/QD-TTg ngày
20/8/2015 có hiệu lực từ ngày 15/10/2015 gồm:

1. Cung cấp điện sinh hoạt
2. Cung cấp nước sinh hoạt
3. Truyền hình trả tiền
4. Dịch vụ điện thoại cố định mặt đất
5. Dịch vụ thơng tin di động mặt đất (hình thức thanh tốn: trả sau), Dịch
vụ thơng tin di động mặt đất (hình thức thanh toán: trả trước)

6. Dịch vụ truy nhập internet
7. Vận chuyến hành khách đường hàng không

24


8. Vận chuyển hành khách đường sắt

9. Mua bán căn hộ chung cư, các dịch vụ sinh hoạt do đơn vị quản lý khu
chung cư cung cấp

10. Phát hành thẻ ghi nợ nội địa, mở và sử dụng dịch vụ tài khoản thanh
toán (áp dụng cho khách hàng cá nhân), vay vốn cá nhân (nhằm
mục đích tiêu dùng).

11. Bảo hiểm nhân thọ
Là những đối tượng bắt buộc phải đăng ký hợp đồng theo mẫu. Những
hàng hóa dịch vụ theo danh mục trên được liệt kê là những hàng hóa dịch vụ mà
khi kinh doanh nhà kinh doanh phải thực hiện việc đăng ký hợp đồng theo mẫu với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà khơng cho phép họ tự ban hành, tự ý sử dụng
bởi lẽ phần lớn đó là những mặt hàng kinh doanh mang tính độc quyền ví dụ điện,
nước,...người tiêu dùng khơng có quyền lựa chọn nhà cung cấp khác, họ bắt buộc
phải sử dụng vì nhu cầu cuộc sống; ngoài ra một số các mặt hàng khác như: bảo
hiểm, mua bán căn hộ, phát hành thẻ ghi nợ,... là những lĩnh vực kinh doanh tiềm
ẩn những rủi ro lớn đối với người tiêu dùng. Vì vậy, việc đăng ký hợp đồng theo
mẫu để cơ quan nhà nước có thể kiểm sốt nội dung, hạn chế rủi ro đến mức tối đa
và bảo vệ người tiêu dùng một cách tốt nhất khi tham gia các giao dịch này.
2.2. Quy định về cơ quan kiểm soát hợp đồng theo mẫu
Theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, Chính phủ thống nhất
quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong hợp đồng theo mẫu nói riêng. Cơ quan tham gia vào việc
kiểm sốt hợp đồng theo mẫu bao gồm các cơ quan chủ quản đóng vai trị nịng cốt
và các cơ quan phối hợp thực hiện.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
thì Bộ Cơng thương đóng vai trị là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong cơng tác
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong hợp đồng theo mẫu nói riêng.


25


×