Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Luan van thạc sĩ luật học pháp luật về đất di tích, lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh từ thực tiễn thi hành tại tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.2 KB, 80 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ khi dựng nước và giữ nước cho tới hôm nay, Việt Nam đã trải qua
biết bao thăng trầm và biến cố. Tất cả được thể hiện một cách rõ nét qua những di
tích lịch sử, văn hóa cịn được lưu giữ và bảo tồn đến tận ngày nay. Ở đó có sự kết
hợp hài hòa giữa thắng cảnh tự nhiên và cơng trình kiến trúc tinh tế tạo nên một
Việt Nam rất đặc trưng. Việt Nam vốn nổi tiếng là một quốc gia có nhiều danh lam,
thắng cảnh đẹp, là địa điểm thu hút ngày càng đông khách du lịch quốc tế. Danh
lam thắng cảnh của nước ta là một trong những niềm tự hào đối với bạn bè năm
châu. Mỗi vùng đất, địa danh, hay di tích ở Việt Nam đều gắn liền với những truyền
thuyết lịch sử. Mỗi phong tục, tập quán lại bắt nguồn từ những câu chuyện mang
đậm tính nhân văn, lịng ái quốc của tở tiên. Qua nhiều thế hệ, bản sắc văn hóa Việt
được tiếp nối, lưu truyền ngày càng phong phú và đa dạng. Ở Việt Nam, theo thống
kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tính đến nay đã có 2.795 di tích lịch sử, văn
hóa và danh lam thắng cảnh được xếp hạng. Bên cạnh đó là hàng vạn di tích với quy
mơ và giá trị lịch sử, văn hóa khác nhau trải khắp các vùng, miền của đất nước và
gắn bó chặt chẽ với cuộc sống cộng đồng dân cư. Những năm gần đây, vấn đề bảo
tồn di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh nhận được sự quan tâm đặc biệt
của Nhà nước và của toàn xã hội. Tuy nhiên, muốn bảo tồn các di tích lịch sử, văn
hóa, danh lam thắng cảnh có hiệu quả thì khó tách rời với việc quản lý và sử dụng
đất (SDĐ) di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh theo đúng pháp luật. Bởi lẽ,
di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh được xây dựng hoặc hình thành trên
đất và gắn liền với đất thành một khối thống nhất không thể tách rời. Suy cho cùng
mọi hành vi quản lý và SDĐ di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh đều tác
động, ảnh hưởng đến di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh. Trong điều kiện
kinh tế thị trường khi đất đai ngày càng có giá trị thì có khơng ít tổ chức, cá nhân do
ham muốn lợi nhuận đã không từ một thủ đoạn nào kể cả việc thực hiện hành vi vi

1



phạm pháp luật trong quản lý, SDĐ nói chung và quản lý, SDĐ di tích lịch sử, văn
hóa, danh lam thắng cảnh nói riêng. Đã có rất nhiều vụ việc xâm phạm, lấn, chiếm
hoặc xây dựng nhà trái phép trên đất di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh
diễn ra trong thời gian gần đây ở tất cả các địa phương được cơng luận lên tiếng,
gióng lên hồi chuông báo động như Báo điện tử Tài nguyên và Môi trường (TN&MT)
(2018), Lạng Sơn: Buông lỏng quản lý, đất di tích bị xâm hại, của tác giả Hồng
Nghĩa, Thứ sáu - 14/12 09:34; Báo Dân việt điện tử (2019), Di tích khảo cổ quốc
gia bị xâm phạm ngay giữa trung tâm thành phố Hạ Long, của tác giả Nguyễn Quý,
ngày 13/9/2019; Báo Nhân dân điện tử (2017), Cần xử lý nghiêm việc chiếm đất
cơng ở di tích lịch sử quốc gia đền Bảo Hà, của tác giả Quốc Hồng, Thứ Ba, 01/08,
00:24:01; Báo Dân trí điện tử (2012), Chiếm đất di tích lịch sử cấp quốc gia để
"chia lơ bán nền", của tác giả Hồng Long, Thứ Ba 10/04 - 00:04; Báo ảnh Dân tộc
và Miền núi (2018), Nhiều điểm, khu di tích ở Lạng Sơn bị xâm hại, lấn chiếm, của
tác giả Quang Duy, 11:02, 26/11/2018; Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh điện
tử (2011), Chiếm đất di tích làm của riêng, của tác giả Hùng Anh, Thứ Tư, ngày
9/11 - 00:04 v.v... Dư luận đặt câu hỏi tại sao việc quản lý đất di tích lịch sử, văn
hóa, danh lam thắng cảnh lại bị bng lỏng và để xảy ra nhiều hành vi vi phạm làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá trị và sự tồn tại của di tích lịch sử văn hóa, danh
lam thắng cảnh đặt ở các địa phương trong bối cảnh Đảng và Nhà ta đang xây dựng
Nhà nước và pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật đất đai nói chung và
các quy định về đất di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh thường xun được
rà sốt, sửa đởi, bở sung, hồn thiện với việc ban hành Luật Đất đai năm 2013 và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều này đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu,
đánh giá pháp luật về đất di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh một cách hệ
thống, tồn diện về lý luận và thực tiễn. Có như vậy mới có thể đưa ra được câu trả
lời thỏa đáng.
Nam Định là một tỉnh có nhiều di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng
cảnh, bao gồm 1.330 di tích lịch sử văn hóa; trong đó, 349 di tích được xếp hạng (có

2



02 di tích quốc gia đặc biệt là di tích đền Trần - chùa Phở Minh và di tích chùa Keo
Hành Thiện), 81 di tích cấp quốc gia và 266 di tích cấp tỉnh. Nhiều quần thể di tích
có giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và kiến trúc như: Quần thể di tích văn hóa
Trần, Phủ Dầy, Chùa Cở Lễ, Chùa Keo Hành Thiện, Cầu Ngói Chùa Lương, Nhà lưu
niệm cố Tởng Bí thư Trường Chinh... Mặt khác, tỉnh Nam Định cịn có hơn 400 nhà
thờ cơng giáo với kiến trúc đặc trưng phương Tây tập trung ở các huyện phía Nam
cũng có sức hút đối với du khách trong nước và quốc tế. Những di tích lịch sử văn
hóa, danh lam thắng cảnh đã có từ rất lâu đời, có những ngơi chùa, ngơi đền đã
xuống cấp trầm trọng, hay bị một số người dân lấn chiếm, xâm phạm di tích để làm
nơi kinh doanh, bn bán,… Loại trừ nguyên nhân tác động của thiên nhiên nắng,
mưa, lũ lụt, thiên tai… thì sự xuống cấp nghiêm trọng một số di tích lịch sử văn hóa
của tỉnh Nam Định xuất phát từ những hành vi vi phạm pháp luật đất đai trong quản
lý và SDĐ di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh. Vậy làm thế nào để khắc
phục tình trạng này góp phần bảo tồn di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh
tại tỉnh Nam Định. Trên đây là những lý do để học viên lựa chọn đề tài: "Pháp luật
về đất di tích, lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh từ thực tiễn thi hành tại
tỉnh Nam Định" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật về đất di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được giới
luật học nước ta quan tâm tìm hiểu. Thời gian qua đã có một số cơng trình khoa học
tiêu biểu về vấn đề này được cơng bố như: i) Viện Chiến lược, Chính sách TN&MT Bộ TN&MT (2010): Báo cáo tổng kết khoa học đề tài cấp Bộ "Nghiên cứu cơ sở lý
luận, thực tiễn và đề xuất việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật đất đai" do TS.
Nguyễn Văn Tài - Chủ nhiệm, Hà Nội; ii) Nguyễn Quang Tuyến (2008): Pháp luật
về đất di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh, Tạp chí Luật học, số 6; iii)
Nguyễn Thế Hùng (2004), Đơi điều về tu bổ di tích tín ngưỡng - tơn giáo, Tạp chí
Di sản văn hóa, số 6; iv) Đặng Văn Bài (2006), Tu bổ và tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa là hoạt động có tính đặc thù chun ngành, Tạp chí Di sản văn hóa, số 15;

3



v) Nguyễn Thị Mai Lê (2014), Cụ thể hóa mức xử phạt vi phạm hành chính đất đai,
Tạp chí Tài chính, số 12; vi) Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật
Đất đai, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội; vii) Hồng Nghĩa (2018), Lạng Sơn:
Bng lỏng quản lý, đất di tích bị xâm hại, Báo điện tử TN&MT, Thứ sáu - 14/12
09:34; viii) Nguyễn Quý (2019), Di tích khảo cổ quốc gia bị xâm phạm ngay giữa
trung tâm TP. Hạ Long, Báo Dân việt điện tử, ngày 13/9; ix) Quốc Hồng (2017),
Cần xử lý nghiêm việc chiếm đất cơng ở di tích lịch sử quốc gia đền Bảo Hà, Báo
Nhân dân điện tử, Thứ Ba, 01/08, 00:24:01; x) Hồng Long (2012), Chiếm đất di tích
lịch sử cấp quốc gia để "chia lơ bán nền", Báo Dân trí điện tử, Thứ Ba 10/04 - 00:04;
xi) Quang Duy (2018), Nhiều điểm, khu di tích ở Lạng Sơn bị xâm hại, lấn chiếm, Báo
ảnh Dân tộc và Miền núi, 11:02, 26/11/2018; xii) Hùng Anh (2011), Chiếm đất di
tích làm của riêng, Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh điện tử, Thứ Tư, ngày
9/11 - 00:04 v.v...
Các cơng trình liên quan đến đề tài luận văn được đề cập trên đây, ở những
mức độ và phạm vi khác nhau đã phân tích khái niệm, đặc điểm của di tích lịch sử,
văn hóa và danh lam thắng cảnh nói chung và đất di tích lịch sử, văn hóa và danh
lam thắng cảnh nói riêng; đánh giá thực trạng pháp luật về đất di tích lịch sử, văn
hóa và danh lam thắng cảnh… cũng như đề xuất một số giải pháp hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam
thắng cảnh ở một số địa phương v.v... Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của
các cơng trình liên quan đến đề tài được công bố, luận văn đi sâu tìm hiểu pháp
luật về đất di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh từ thực tiễn thi hành tại
tỉnh Nam Định.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật
về đất di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh và nâng cao hiệu quả thi hành
tại tỉnh Nam Định.


4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về di tích lịch sử văn hóa và danh lam
thắng cảnh và đất di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh bao gồm phân tích
khái niệm, đặc điểm; ý nghĩa và tiêu chí phân loại di tích lịch sử văn hóa và danh
lam thắng cảnh; giải mã nội hàm khái niệm và đặc điểm đất di tích lịch sử văn hóa và
danh lam thắng cảnh; phân loại đất di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh...
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận pháp luật về đất di tích lịch sử văn hóa
và danh lam thắng cảnh bao gồm phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và cơ sở
xây dựng pháp luật về đất di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh; cấu trúc
pháp luật về đất di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh; các điều kiện đảm
bảo thực thi pháp luật về đất di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh…
- Tìm hiểu thực trạng pháp luật về đất di tích lịch sử văn hóa và danh lam
thắng cảnh và đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về đất di tích lịch sử văn hóa và
danh lam thắng cảnh tại tỉnh Nam Định.
- Đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đất di tích lịch sử
văn hóa và danh lam thắng cảnh và nâng cao hiệu quả thi hành tại tỉnh Nam Định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào một số vấn đề cơ bản sau:
- Các trường phái lý thuyết, học thuyết, quan điểm khoa học về di tích lịch
sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh; đất di tích lịch sử - văn hóa và danh lam
thắng cảnh v.v...
- Quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển nền văn hóa truyền thống
tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc nói chung và bảo vệ và giữ gìn các di tích
lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh nói riêng trong nền kinh tế thị trường.

- Các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành về đất di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh.

5


- Luật Di sản văn hóa và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Thực tiễn thi hành pháp luật về đất di tích lịch sử - văn hóa và danh lam
thắng cảnh tại tỉnh Nam Định…
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng liên quan đến một số lĩnh vực pháp luật.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bản luận văn thạc sĩ luật học, tác giả giới hạn
phạm vi nghiên cứu của luận văn vào những nội dung cụ thể sau đây:
- Giới hạn về nội dung: Các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các
văn bản hướng dẫn thi hành về quản lý và SDĐ di tích lịch sử - văn hóa và danh
lam thắng cảnh.
Trong phạm vi bản luận văn này, tác giả khơng có tham vọng phân tích tìm
hiểu các quy định về quản lý và SDĐ di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh
mà chỉ đi sâu bình luận, đánh giá các quy định về quy hoạch, kế hoạch SDĐ di tích
lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh; các quy định về giao đất và chuyển mục
đích SDĐ di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh; các quy định về thu hồi
đất di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh; các quy định về quyền và nghĩa
vụ của người SDĐ di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh; các quy định về
- Giới hạn về không gian: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu thực tiễn thi
hành pháp luật về đất di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh tại tỉnh Nam Định.
- Giới hạn về thời gian: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu trong khoảng
thời gian từ năm 1993 (năm ban hành Luật Đất đai năm 1993) đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
Một là, phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải được sử dụng xuyên
suốt các chương của luận văn. Phương pháp này được sử dụng khi giải mã khái
niệm, đặc điểm của di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; khái niệm và

6


đặc điểm của đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; ý nghĩa của di tích
lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; phân tích nội dung các quy định của pháp
luật về đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh v.v...
Hai là, phương pháp đánh giá, phương pháp bình luận được sử dụng để
đánh giá thực trạng pháp luật về đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh
và thực tiễn thi hành tại tỉnh Nam Định nhằm nhận diện những thành công, những
bất cập, tồn tại và nguyên nhân của bất cập, tồn tại.
Ba là, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp được sử dụng để
nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đất di tích lịch sử, văn hóa và danh
lam thắng cảnh và nâng cao hiệu quả thi hành tại tỉnh Nam Định.
Bốn là, phương pháp lịch sử được sử dụng trong các chương của luận văn
thể hiện việc phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về đất di tích lịch sử,
văn hóa và danh lam thắng cảnh trong quá trình hình thành,vận động, phát triển và
dự báo xu hướng trong tương lai.
Năm là, phương pháp so sánh, phương pháp lập luận lô gic, phương pháp
liên ngành được sử dụng khi tìm hiểu thực trạng pháp luật về đất di tích lịch sử, văn
hóa và danh lam thắng cảnh và thực tiễn thi hành tại tỉnh Nam Định nhằm nhận diện
những thành công, những bất cập, tồn tại và nguyên nhân của bất cập, tồn tại; tìm
hiểu những vấn đề lý luận pháp luật về đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam
thắng cảnh v.v...
6. Những đóng góp của luận văn
Gía trị của luận văn được thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau đây:

Một là, tập hợp, hệ thống hóa và góp phần hoàn thiện một số vấn đề lý luận
về đất di tích lịch sử - văn hóa và và danh lam thắng cảnh và pháp luật về đất di tích
lịch sử - văn hóa và và danh lam thắng cảnh ở nước ta.
Hai là, nghiên cứu thực trạng pháp luật về đất di tích lịch sử - văn hóa và
danh lam thắng cảnh và đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về đất di tích lịch sử văn hóa và và danh lam thắng cảnh tại tỉnh Nam Định.

7


Ba là, đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về đất di tích lịch sử văn hóa và và danh lam thắng cảnh và nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Nam Định.
Luận văn là tài liệu tham khảo bở ích khơng chỉ đối với các chuyên gia xây
dựng pháp luật đất đai, cho đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đất đai nói chung và
quản lý nhà nước về đất di tích lịch sử, văn hóa - danh lam thắng cảnh nói riêng mà
cịn là tài liệu có giá trị cho các cơ sở đào tạo luật ở nước ta.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về đất di tích lịch sử - văn hóa và danh
lam thắng cảnh và pháp luật về đất di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh
ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về đất di tích lịch sử - văn hóa, danh lam
thắng cảnh và thực tiễn thi hành tại tỉnh Nam Định.
Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đất di tích lịch
sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh và nâng cao hiệu quả thi hành tại tỉnh Nam Định.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẤT DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HĨA,

DANH LAM THẮNG CẢNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẤT DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HĨA, DANH LAM THẮNG CẢNH Ở VIỆT NAM
1.1. Lý luận về di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh và đất di
tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh
1.1.1. Lý luận về di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh
1.1.1.1. Khái niệm di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh
Theo quy định tại Điều 1 Luật Di sản văn hóa được Quốc hội nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2001,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 thì: "Di sản
văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm
tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ
này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Trong khái niệm này, di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và
di sản văn hóa vật thể. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với
cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và khơng gian văn hóa liên quan; có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học; thể hiện bản sắc của cộng đồng; không ngừng được tái tạo và
được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề,
trình diễn và các hình thức khác. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá
trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng
cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 4 Luật Di sản văn hóa năm 2001 thì: "Di tích là
cơng trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng
trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học". Di tích ln gắn liền với đất
đai, địa điểm có giá trị lịch sử.
Như vậy, di tích lịch sử - văn hóa (gọi chung là di tích) là một bộ phận của
di sản văn hóa vật thể. Theo quan niệm truyền thống, di tích lịch sử - văn hóa gồm

9


các bộ phận cấu thành chủ yếu sau đây: Một là, các cơng trình kiến trúc, địa điểm

có liên quan tới các sự kiện lịch sử hoặc nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa; Hai
là, những đồ vật trong nội thất các cơng trình kiến trúc (vật dụng cá nhân, đồ tế tự
trong các thiết chế văn hóa, tín ngưỡng...); Ba là, môi trường cảnh quan thiên nhiên
xen kẽ hoặc bao quanh di tích; Bốn là, những giá trị di sản văn hóa phi vật thể gắn
với các cơng trình địa điểm đó.
Mặc dù, thuật ngữ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh được sử
dụng gắn liền với nhau. Tuy nhiên, di tích lịch sử, văn hóa khác với danh lam thắng
cảnh ở điểm cơ bản sau đây: Di tích lịch sử, văn hóa là cơng trình, địa điểm, đồ
vật... gắn với một giai đoạn phát triển của đất nước, của địa phương có giá trị lịch
sử giáo dục truyền thống lịch sử, yêu nước cho các thế hệ hiện tại và tương lại hoặc
có giá trị kiến trúc văn hóa phản ánh lịch sử, nguồn gốc, truyền thống văn hóa của
một cộng đồng dân cư, của một địa phương, của một quốc gia; ví dụ: Di tích lịch sử
Đền Trần, Chùa Phở Minh (Nam Định).... Trong khi đó, danh lam thắng cảnh
thường là địa điểm, phong cảnh, cảnh quan thiên nhiên hoặc nhân tạo có cảnh đẹp
nởi tiếng có giá trị tham quan, du lịch, nghỉ ngơi hoặc có giá trị khoa học, ví dụ:
Danh Thắng Yên Tử (Quảng Ninh); danh thắng Chùa Hương - Suối Yến (Hà Nội)...
1.1.1.2. Ý nghĩa của di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội (KT-XH), cơng
nghệ, khoa học v.v thì chất lượng cuộc sống của người dân được tăng lên. Văn hóa
khẳng định được vai trò quan trọng trong đời sống xã hội là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH. Các di tích lịch
sử - văn hóa có vị thế quan trọng trong hệ thống di sản văn hóa của mỗi quốc gia.
Di tích chứa đựng những giá trị kinh tế to lớn (trị giá nhiều ngàn tỷ đồng) nếu bị
mất đi không đơn thuần là mất tài sản vật chất mà là mất đi những giá trị tinh thần
lớn lao khơng gì có thể bù đắp nởi. Đồng thời, di tích cịn mang ý nghĩa là nguồn
lực cho phát triển kinh tế, một nguồn lực rất lớn, sẵn có nếu được khai thác, sử dụng
tốt sẽ góp phần không nhỏ cho việc phát triển kinh tế đất nước và càng có ý nghĩa to
lớn khi đất nước đang rất cần phát huy tối đa các nguồn nội lực để phát triển.

10



Việc bảo vệ, giữ gìn các di tích phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chính sách,
pháp luật, cơng tác quản lý, khoa học, kỹ thuật….Việc bảo tồn và phát huy giá trị
của di sản văn hóa nói chung và di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh nói
riêng có vai trị hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần phát triển kinh tế
đất nước, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong mấy
chục năm qua, hàng ngàn di tích được xếp hạng và tu bở đã thể hiện những nỗ lực
to lớn của toàn xã hội chăm lo và bảo vệ di tích. Về cơ bản hệ thống di tích của
nước ta được bảo vệ, chăm sóc và tu bổ bảo đảm khả năng tồn tại lâu dài. Nghị
quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng khẳng định nhiệm vụ bảo tồn di sản văn
hóa trong bối cảnh mới ở nước ta. "Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng
đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị văn hóa
mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị
văn hóa truyền thống (bác học và dân gian) văn hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa
vật thể và phi vật thể" [24].
1.1.1.3. Các tiêu chí cơ bản phân loại di tích lịch sử văn hóa, danh lam
thắng cảnh
Trên thực tế, chúng ta bắt gặp rất phổ biến các biển hiệu do người dân hoặc
cộng đồng dân cư ở các địa phương tự dựng lên với nội dung "di tích lịch sử đã xếp
hạng cấm xâm phạm" ở trước những ngôi chùa, ngôi đền, miếu, mộ, lăng tẩm v.v.
Vậy làm thế nào để có thể phân biệt được di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng
cảnh với những giá trị thực sự được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định,
xếp hạng, cơng nhận với các di tích do người dân, cộng đồng dân cư ở một địa
phương tự phong. Câu trả lời được tìm thấy trong Luật Di sản văn hóa năm 2001 và
Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 (sau đây gọi
chung là Luật Di sản văn hóa sửa đởi). Đạo Luật này quy định các tiêu chí cơ bản
để xác định và phân loại di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh; cụ thể:
Thứ nhất, di tích lịch sử văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây:
Một là, cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử, văn hóa tiêu

biểu của quốc gia hoặc của địa phương.

11


Hai là, cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển
của quốc gia hoặc của địa phương trong các thời kỳ lịch sử.
Ba là, địa điểm khảo cở có giá trị tiêu biểu.
Bốn là, cơng trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tông thể kiến
trúc đơ thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn phát
triển kiến trúc, nghệ thuật.
Thứ hai, danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí sau đây:
Một là, cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan
thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu.
Hai là, khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý,
đang dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những
dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất.
Thứ ba, di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh (sau đây gọi chung là
di tích) được xếp hạng như sau:
Một là, di tích cấp tỉnh có giá trị tiêu biểu của địa phương, bao gồm:
i) Cơng trình xây dựng, địa điểm ghi dấu sự kiện, mốc lịch sử quan trọng
của địa phương hoặc gắn với nhân vật có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của
địa phương.
ii) Cơng trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô
thị và địa điểm cư trú có giá trị trong phạm vi địa phương;
iii) Địa điểm khảo cở có giá trị trong phạm vi địa phương;
iv) Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên
nhiên với cơng trình kiến trúc, nghệ thuật có giá trị trong phạm vi địa phương.
Hai là, di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia, bao gồm:

i) Cơng trình xây dựng, địa điểm ghi dấu sự kiện, mốc lịch sử quan trọng
của dân tộc hoặc gắn với anh hùng dân tộc, danh nhân, nhà hoạt động chính trị, văn
hóa, nghệ thuật, khoa học nởi tiếng có ảnh hưởng quan trọng đối với tiến trình lịch
sử của dân tộc;

12


ii) Cơng trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô
thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển kiến trúc,
nghệ thuật Việt Nam;
iii) Địa điểm khảo cở có giá trị nởi bật đánh dấu các giai đoạn phát triển của
văn hóa khảo cở;
iv) Cảnh quan thiên nhiên đẹp hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan
thiên nhiên với cơng trình kiến trúc, nghệ thuật hoặc khu vực thiên nhiên có giá trị
khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù.
Ba là, di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu của
quốc gia, bao gồm:
i) Cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện đánh dấu bước chuyển
biến đặc biệt quan trọng của lịch sử dân tộc hoặc gắn với anh hùng dân tộc, danh
nhân tiêu biểu có ảnh hưởng to lớn đối với tiến trình lịch sử của dân tộc;
ii) Cơng trình kiến trúc, nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô
thị và địa điểm cư trú có giá trị đặc biệt đánh dấu các giai đoạn phát triển kiến trúc,
nghệ thuật Việt Nam;
iii) Địa điểm khảo cở có giá trị nởi bật đánh dấu các giai đoạn phát triển văn
hóa khảo cở quan trọng của Việt Nam và thế giới;
iv) Cảnh quan thiên nhiên nởi tiếng hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh
quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc, nghệ thuật có giá trị đặc biệt của quốc gia
hoặc khu vực thiên nhiên có giá trị về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học và
hệ sinh thái đặc thù nổi tiếng của Việt Nam và thế giới.

Thứ tư, thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích được quy định như sau:
Một là, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh quyết định xếp hạng di
tích cấp tỉnh, cấp bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh;
Hai là, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định xếp hạng di
tích quốc gia, cấp bằng xếp hạng di tích quốc gia;
Ba là, Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt,
cấp bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo

13


dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc xem xét đưa di tích tiêu biểu của Việt
Nam vào Danh mục di sản thế giới.
Thứ năm, trong trường hợp di tích đã được xếp hạng mà sau đó có đủ căn
cứ xác định là không đủ tiêu chuẩn hoặc bị hủy hoại khơng có khả năng phục hồi thì
người có thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích nào có quyền ra quyết định hủy bỏ
xếp hạng đối với di tích đó [42, Điều 28, Điều 29, Điều 30].
1.1.2. Lý luận về đất di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh
1.1.2.1. Khái niệm đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh
Trên thực tế đất di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh là đất mà trên
đó xây dựng hoặc có các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh đã được
Nhà nước đánh giá, xếp hạng. Thuật ngữ đất di tích lịch sử văn hóa và danh lam
thắng cảnh được sử dụng khá phổ biến trong đời sống xã hội. Thuật ngữ đất di tích
thường được hiểu gắn liền với quan niệm về di tích; theo đó: "Đất di tích thuộc
nhóm đất phi nơng nghiệp, bao gồm một quần thể kiến trúc hồn chỉnh gồm nhiều
cơng trình kiến trúc gắn bó với nhau vào một cơ cấu thống nhất. Đó có thể là: i)
Trung tâm lịch sử của một đô thị cổ; ii) Khu phố cổ gồm nhiều đường phố khác
nhau; iii) Di sản kiến trúc đô thị. Bao gồm: Ý tưởng quy hoạch gắn kiến trúc với môi
trường tự nhiên; Cơ cấu đô thị; Diện mạo kiến trúc đô thị; Lối sống, nếp sống văn
minh đô thị; iv) Bộ phận di sản văn hóa phi vật thể gắn với di tích lịch sử - văn hóa.

Đất danh lam thắng cảnh là đất có cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có
sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên và cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm
mỹ, khoa học". Thuật ngữ đất di tích nêu trên giải mà khái niệm đất di tích chủ yếu
theo khía cạnh phân loại di tích và quản lý di tích. Khái niệm này dường như chưa
bao quát đầy đủ các loại đất di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh.
Thuật ngữ đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh được sử dụng
khá phổ biến trong các văn bản pháp luật đất đai ở nước ta. Tuy nhiên, thuật ngữ
này là không được giải thích chính thức trong Luật Đất đai năm 2013. Nghiên cứu
nội dung các quy định về đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh của

14


Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành, theo tác giả, đất di tích
lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh được hiểu như sau: Đất di tích lịch sử, văn
hóa và danh lam thắng cảnh là một thành phần độc lập trong nhóm đất phi nơng
nghiệp. Đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh là đất mà trên đó các
các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh do con người hoặc tự nhiên tạo
ra và được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hay cơ quan có thẩm quyền của
Liên hiệp quốc cơng nhận, xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh.
Bên cạnh các đặc điểm chung của đất đai, đất di tích lịch sử, văn hóa và
danh lam thắng cảnh là cịn có một số đặc điểm riêng chủ yếu sau đây:
Một là, đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh là đất mà trên đó
các các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh do con người hoặc tự nhiên
tạo ra và được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hay cơ quan có thẩm quyền
của Liên hiệp quốc cơng nhận, xếp hạng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng
cảnh. Đây là đặc điểm quan trọng nhất để nhận diện, phân biệt đất di tích lịch sử,
văn hóa và danh lam thắng cảnh với các loại đất khác trong nhóm đất phi nơng
nghiệp như đất thăm dị, khai thác khống sản; đất quốc phịng - an ninh; đất ở và
đất đô thị v.v... Một thửa đất được xác định là đất di tích lịch sử, văn hóa và danh

lam thắng cảnh phải thỏa mãn 02 điều kiện cơ bản sau đây: i) Trên đất phải có di
tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; ii) Di tích lịch sử, văn hóa và danh
lam thắng cảnh này phải được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hay cơ quan có
thẩm quyền của Liên hiệp quốc thẩm định công nhận, xếp hạng.
Hai là, chế độ quản lý và SDĐ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng
cảnh được quy định rất nghiêm ngặt; nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm, sử dụng
sai mục đích của đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh. Trong trường
hợp đặc biệt phải SDĐ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh vào mục
đích khác phải có ý kiến đồng ý của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch.
Trường hợp Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch khơng đồng ý thì phải có
ý kiến quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

15


Để bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh thì quy hoạch sử
dụng loại đất này được phân chia thành quy hoạch vùng lõi của di tích lịch sử, văn
hóa và danh lam thắng cảnh; quy hoạch vùng tiếp giáp vùng lõi của di tích lịch sử,
văn hóa và danh lam thắng cảnh và quy hoạch vùng bên ngồi, xung quanh di tích
lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh. Trong vùng lõi của di tích lịch sử, văn hóa
và danh lam thắng cảnh nghiêm cấm tuyệt đối mọi hành vi xâm phạm, lấn chiếm,
xây dựng cơng trình, SDĐ sai mục đích v.v... Đối với vùng tiếp giáp vùng lõi của di
tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh nghiêm cấm việc xây dựng cơng trình
trái phép. Trường hợp xây dựng cơng trình phải được phép của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền (bao gồm cơ quan quản lý đất đai và cơ quan quản lý di tích lịch sử văn
hóa) và phải phù hợp với quy hoạch SDĐ, quy hoạch xây dựng; không được làm
ảnh hưởng đến không gian bảo vệ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh.
Vùng bên ngoài vùng tiếp giáp vùng lõi của di tích lịch sử, văn hóa và danh lam
thắng cảnh được xây dựng hàng rào bảo vệ nhằm ngăn chặn các hành vi lấn chiếm,
vi phạm v.v...

Ba là, chủ thể SDĐ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh chủ yếu
là cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tở chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước mà
người quản lý trực tiếp là ban quản lý di tích do cộng đồng dân cư bầu ra hoặc Nhà
nước thành lập v.v...
Bốn là, đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh được Nhà nước
cơng nhận quyền SDĐ ổn định lâu dài. Trong trường hợp tôn tạo, tu bở và mở rộng
di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh, Nhà nước giao đất khơng thu tiền
SDĐ cho tổ chức, cơ sở tôn giáo, cộng đồng dân cư được giao quản lý di tích lịch
sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh đó dựa trên quy hoạch SDĐ đã được cấp có thẩm
quyền xét duyệt.
Người sử dụng loại đất này có quyền và nghĩa vụ chung của người SDĐ
quy định tại Điều 166 và Điều 170 Luật Đất đai năm 2013; khơng có quyền tặng
cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp và góp
vốn bằng quyền SDĐ...

16


1.1.2.2. Các loại đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh
Di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh (sau đây gọi chung là di tích)
được phân loại theo Điều 11 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa (sau đây gọi tắt là Nghị định
số 98/2010/NĐ-CP của Chính phủ) và các tiêu chí quy định tại Điều 28 Luật Di sản
văn hóa, khoản 9, Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn
hóa, bao gồm: i) Di tích lịch sử (di tích lưu niệm sự kiện, di tích lưu niệm danh
nhân); ii) Di tích kiến trúc nghệ thuật; iii) Di tích khảo cở; iv) Danh lam thắng cảnh.
Như phần trên đã đề cập, di tích được xây dựng trên đất và luôn gắn liền với
đất đai. Do vậy, căn cứ vào việc xếp loại di tích thì đất di tích lịch sử, văn hóa, danh
lam thắng cảnh (sau đây gọi là đất di tích) được phân thành các loại chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, đất di tích lịch sử - văn hóa.
Đất di tích lịch sử, văn hóa là đất trên đó xây dựng hoặc có những cơng
trình, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ
nước; gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân đất nước, gắn
với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Di tích lịch sử
liên quan tới sự kiện hoặc nhân vật lịch sử có những đóng góp, ảnh hưởng tới sự
phát triển của lịch sử dân tộc. Đến với di tích lịch sử, khách tham quan như được
đọc cuốn sử ghi chép về những con người, những sự kiện tiêu biểu, được cảm nhận
một cách chân thực về lịch sử, những cảm nhận khơng dễ có được khi chỉ đọc
những tư liệu ghi chép của đời sau.
Di tích lịch sử - văn hóa là cơng trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học. Di tích lịch sử - văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây:
Một là, cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu
trong quá trình dựng nước và giữ nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như Đền
Hùng, Cổ Loa, Cố đô Hoa Lư, Bãi cọc Bạch Đằng, Cột cờ Hà Nội...

17


Hai là, cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân của đất nước. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như Khu
di tích lịch sử Kim Liên, Đền Kiếp Bạc, Quần thể di tích danh thắng Yên Tử, Lam
Kinh, đền Đồng Nhân...
Ba là, cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của
các thời kỳ cách mạng, kháng chiến. Các di tích tiêu biểu thuộc loại này như Khu di
tích chiến thắng Điện Biên Phủ, Địa đạo Củ Chi, Khu di tích lịch sử cách mạng Pắc
Bó, Phịng tuyến Tam Điệp, Hành cung Vũ Lâm, Khu rừng Trần Hưng Đạo...
Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tính đến năm 2010, di tích lịch sử

chiếm 51.2% số di tích được xếp hạng. Các di tích này khơng những có giá trị lịch
sử và văn hóa mà cịn mang lại những giá trị lớn trên phương diện kinh tế, nhất là
kinh tế du lịch.
Thứ hai, đất di tích kiến trúc nghệ thuật.
Đất di tích kiến trúc nghệ thuật là đất có quần thể các cơng trình kiến trúc
hoặc cơng trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một
hoặc nhiều giai đoạn lịch sử. Giá trị của di tích kiến trúc nghệ thuật thể hiện ở quy
hoạch tổng thể và bố cục kiến trúc, ở sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc với cảnh
quan, ở những bức chạm khắc trên kết cấu gỗ, ở vẻ đẹp thánh thiện của những pho
tượng cổ, ở nét chạm tinh xảo của những đồ thờ tự...
Di tích kiến trúc nghệ thuật là cơng trình kiến trúc nghệ thuật, tởng thể kiến
trúc đơ thị và đơ thị có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển nghệ thuật kiến
trúc của dân tộc. Quần thể các cơng trình kiến trúc hoặc cơng trình kiến trúc đơn lẻ
có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.
Các di tích tiêu biểu loại này như Chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), phố cổ Hội An
(Quảng Nam), nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình), chùa Keo (Thái Bình), đình Tây
Đằng (Hà Nội), Chùa Phật Tích (Bắc Ninh) v.v. Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch tính đến năm 2010, di tích kiến trúc nghệ thuật chiếm 44,2% tởng số di tích
được xếp hạng.

18


Thứ ba, đất di tích khảo cở học.
Đất di tích khảo cở học là đất có những địa điểm khảo cở có giá trị nởi bật,
đánh dấu các giai đoạn phát triển của văn hóa khảo cở. Việt Nam là một trong
những quốc gia có nhiều di tích khảo cở. Các di tích, di vật khảo cở học là nguồn sử
liệu quan trọng giúp việc biên soạn lịch sử trái đất và lịch sử dân tộc từ thời tiền/sơ
sử tới các thời kỳ lịch sử sau này. Di tích khảo cở là những địa điểm khảo cở có giá
trị nởi bật đánh dấu các giai đoạn phát triển của các văn hóa khảo cở. Các di tích

tiêu biểu thuộc loại này như Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội), Hang Con Moong,
di chỉ Đơng Sơn (Hịa Bình), động Người Xưa (Ninh Bình), thánh địa Mỹ Sơn
(Quảng Nam) v.v... Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tính đến năm 2010, di
tích khảo cở chiếm 1.3% các di tích được xếp hạng.
Thứ tư, đất danh lam thắng cảnh.
Đất danh lam thắng cảnh là đất có cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có
sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị lịch sử,
thẩm mỹ, khoa học được công nhận, xếp hạng. Danh lam thắng cảnh phải có một
trong các tiêu chí sau đây:
Một là, cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan
thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu. Các di tích quốc
gia đặc biệt tiêu biểu thuộc loại này như 4 danh lam thắng cảnh khu danh thắng Tây
Thiên (Vình Phúc), Tràng An - Tam Cốc - Bích Động (Ninh Bình), vịnh Hạ Long
(Quảng Ninh), động Phong Nha (Quảng Bình), v.v...
Hai là, khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý,
đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những
dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của Trái Đất. Các di tích tiêu biểu thuộc
loại này như vịnh Hạ Long (Quảng Ninh), Cao nguyên Đồng Văn (Hà Giang), các
vườn quốc gia và khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam như Vườn quốc gia
Cúc Phương, vườn quốc gia Ba Vì, vườn quốc gia Nam bãi Cát tiên v.v. Theo Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tính đến năm 2010, danh lam thắng cảnh chiếm
khoảng 3,3% số di tích được xếp hạng.

19


Như vậy, danh lam thắm cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự
kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ cao
hoặc địa điểm ghi dấu hoạt động của con người trong lịch sử để lại, có giá trị về lịch
sử, văn hóa, khoa học. Danh lam thắng cảnh thường được kết hợp giữa cơng trình

tơn giáo, tín ngưỡng với cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp. Đất nước ta ở miền nhiệt
đới, trải dài trên nhiều vĩ tuyến, có "Rừng vàng, biển bạc" với một hệ động, thực vật
đặc biệt phong phú và nhiều hang động kỳ thú đủ sức hấp dẫn mọi du khách trong
nước và quốc tế.
1.1.2.3. Yêu cầu của quản lý và sử dụng đất di tích lịch sử, văn hóa và danh
lam thắng cảnh
Đất di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng phải
quản lý nghiêm ngặt theo quy định tại Điều 158 Luật Đất đai năm 2013 như sau:
- Đối với đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh do tở chức,
hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư trực tiếp quản lý theo quy định của pháp
luật về di sản văn hóa thì tở chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đó chịu
trách nhiệm quản lý.
- Đối với đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh khơng thuộc
quy định trên thì UBND cấp xã nơi có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh
chịu trách nhiệm chính trong việc quản lý diện tích đất có di tích lịch sử - văn hóa,
danh lam thắng cảnh;
- Đối với đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh bị lấn, bị
chiếm, sử dụng khơng đúng mục đích, sử dụng trái pháp luật thì Chủ tịch UBND
cấp xã nơi có đất có trách nhiệm phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời.
- Trong trường hợp đặc biệt cần thiết phải SDĐ có di tích lịch sử - văn hóa,
danh lam thẳng cảnh vào mục đích khác thì việc chuyển mục đích phải phù hợp với
quy hoạch, kế hoạch SDĐ đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và
phải có văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định xếp
hạng đối với di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh đó.

20


Theo quy định tại khoản 2 Điều 158 Luật Đất đai năm 2013, thì trong
trường hợp đặc biệt cần thiết có thể SDĐ có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam

thắng cảnh vào mục đích khác song phải đáp ứng những yêu cầu sau: Một là, việc
chuyển mục đích sử dụng phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch SDĐ đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; Hai là, phải có văn bản chấp thuận của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định xếp hạng đối với di tích lịch sử - văn hóa,
danh lam thắng cảnh đó. Như vậy, đất có di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh cũng
có thể sử dụng vào mục đích khác thuộc những trường hợp đặc biệt cần thiết song
phải tuân thủ các quy định của pháp luật.
1.2. Lý luận pháp luật về đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh
1.2.1. Cơ sở xây dựng pháp luật về đất di tích lịch sử, văn hóa và danh
lam thắng cảnh
Pháp luật về đất di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh là một chế
định của pháp luật đất đai. Chế định pháp luật này ra được dựa trên một số căn cứ
cơ bản sau đây:
Thứ nhất, pháp luật mang những đặc trưng mà các biện pháp quản lý khác
khơng có được; đó là tính quy phạm, tính bắt buộc chung, tính cưỡng chế và tính
thích ứng.
- Tính quy phạm của pháp luật: Những quy tắc đạo đức được sử dụng một
cách phổ biến trong quan hệ ứng xử hàng ngày của con người được pháp luật "pháp
điển" hóa thành các quy định pháp luật. Điều này có nghĩa là pháp luật xây dựng
những quy tắc ứng xử mẫu thông qua nội dung các quy định để con người căn cứ
vào đó tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mình cho ngày càng gần với những hành vi
ứng xử mẫu này.
- Tính bắt buộc chung: Quy định của pháp luật được xây dựng trên cơ sở
các quy tắc đạo đức, quy ước chung được xã hội thừa nhận rộng rãi. Tuy nhiên khác
với quy tắc đạo đức, quy phạm pháp luật có tính bắt buộc chung đối với mọi người
trong xã hội. Điều này có nghĩa là mọi người phải có nghĩa vụ và trách nhiệm tuân

21



thủ, chấp hành pháp luật. Thơng qua đó, sự cơng bằng, bình đẳng được thiết lập
giữa những chủ thể, những giai tầng khác nhau trong xã hội. Mọi người đều có
quyền bình đẳng như nhau về quyền và nghĩa vụ trong việc thụ hưởng các giá trị
văn hóa, tinh thần của cha ơng để lại và có bởn phận, trách nhiệm trong việc bảo vệ,
giữ gìn các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh.
- Tính cưỡng chế: Sự tuân thủ quy tắc đạo đức của con người được thực
hiện dựa trên ý thức tự giác và sức cảm hóa, sự giác ngộ, lan tỏa của lẽ phải, của
ứng xử mẫu mực. Khác với quy tắc đạo đức, pháp luật là thiết chế mang tính quyền
lực nhà nước. Nó do Nhà nước ban hành và đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của
Nhà nước. Điều này có nghĩa là nếu con người tự giác chấp hành việc tuân thủ pháp
luật thì họ sẽ được Nhà nước cho hưởng quyền và lợi ích hợp pháp; đồng thời, các
quyền và lợi ích hợp pháp này được Nhà nước bảo hộ thông qua các biện pháp pháp
lý. Ngược lại, nếu con người khơng tn thủ pháp luật thì họ sẽ nhận được những
chế tài xử lý của Nhà nước. Những chế tài này là sự cưỡng chế bắt buộc và được
đảm bảo bởi yếu tố quyền lực nhà nước. Thuộc tính này đã làm cho pháp luật có
tính nghiêm minh và nhờ đó trật tự xã hội nói chung và trật tự trong quản lý, SDĐ
di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh nói riêng được thiết lập và duy trì.
- Tính thích ứng: Pháp luật khơng hồn tồn là sản phẩm mang tính chủ
quan của con người mà nó cịn là "tấm gương" phản chiếu thực tế sinh động cũng
như yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Khi hoàn cảnh khách quan của đời
sống xã hội thay đởi thì pháp luật cũng phải tự thay đởi theo nhằm đáp ứng u cầu
của thực tiễn. Có như vậy thì pháp luật mới phù hợp và có thể đi vào cuộc sống.
Do có những đặc trưng cơ bản trên đây mà pháp luật trở thành biện pháp
quản lý xã hội có hiệu quả nhất "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật chứ không
phải bằng đạo lý" [23]. Vì vậy, pháp luật phải được sử dụng để quản lý đất di tích
lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh; bởi lẽ, di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng
cảnh có giá trị tinh thần vơ giá, là yếu tố đảm bảo cho nước ta không bị "hịa tan"
trong q trình hội nhập quốc tế.

22



Thứ hai, thông qua cơ chế điều chỉnh của pháp luật mà trật tự quản lý và
SDĐ di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh được xác lập và đi vào nề nếp;
theo đó: i) Đối với những hoạt động quản lý và SDĐ phù hợp với yêu cầu của pháp
luật như SDĐ đúng mục đích, thực hiện đầy đủ quy hoạch, kế hoạch SDĐ…thì
pháp luật bảo vệ, khuyến khích, tạo điều kiện để nó ngày càng phát triển; ii) Đối với
những hoạt động quản lý và SDĐ không phù hợp với yêu cầu của pháp luật như lấn,
chiếm, xây dựng cơng trình trái phép trên đất di tích lịch sử văn hóa, danh lam
thắng cảnh… thì pháp luật ngăn chặn, xử lý và loại bỏ dần ra khỏi đời sống xã hội.
Thông qua cơ chế điều chỉnh này, pháp luật xác lập một trật tự quản lý ngày càng có
hiệu quả đối với loại đất này.
Thứ ba, như phần trên đã đề cập, đất di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng
cảnh trên đó tồn tại các di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh. Đây là loại đất
khơng chỉ có giá trị vật chất mà cịn có giá trị tinh thần vơ cùng to lớn. Có nhiều di
tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng là bảo vật quốc gia không
để xác định hoặc "cân đong, đo đếm" quy đởi thành tiền được. Hay nói cách khác,
những di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh này là vơ giá, có bao nhiều tiền
cũng khơng thể mua hoặc tái tạo được. Hơn nữa, giá trị căn bản, cốt lõi của di tích
lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh chính là giá trị phi vật chất gắn liền với một
sự kiện lịch sử, một thời kỳ phát triển mà khơng thể tái tạo hoặc "làm giả" được. Vì
vậy, việc bảo tồn, giữ gìn, tơn tạo di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh phải
giữ nguyên vẹn giá trị gốc/giá trị ban đầu. Do đó, đất di tích lịch sử văn hóa, danh
lam thắng cảnh phải được bảo vệ nghiêm ngặt, quản lý chặt chẽ hơn so với các loại
đất phi nông nghiệp khác để đảm bảo giá trị gốc, giá trị ban đầu và không được làm
thay đổi hiện trạng ban đầu, sơ khai của di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng
cảnh. Muốn vậy, việc quản lý và SDĐ di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh
phải được thực hiện bằng pháp luật.
Thứ tư, bằng pháp luật, Nhà nước thành lập một hệ thống cơ quan được tổ
chức chặt chẽ, thống nhất từ trung ương đến địa phương và quy định chức năng,


23


nhiệm vụ, quyền hạn để các cơ quan nhà nước này phối, kết hợp các hoạt động quản
lý đất di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh; kịp thời xử lý các tình huống
nảy sinh trong quá trình quản lý. Hệ thống cơ quan này chịu trách nhiệm trước
Chính phủ quản lý thống nhất đất di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh. Mặt
khác, việc quản lý đất di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh liên quan đến
các bộ ngành, địa phương mà trước hết là Bộ TN&MT; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch; UBND các cấp nơi có di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh. Vấn đề đặt
ra là cần phải xác lập một cơ chế phối kết hợp thống nhất, chặt chẽ, hiệu quả giữa
các bộ ngành, địa phương trong quản lý và SDĐ di tích lịch sử văn hóa, danh lam
thắng cảnh. Điều này chỉ có thể thực hiện được thông qua pháp luật về đất di tích
lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh v.v...
1.2.2. Khái niệm pháp luật về đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam
thắng cảnh
Pháp luật về đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh là một lĩnh
vực của pháp luật đất đai. Nó bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước nhằm
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý và SDĐ di tích lịch
sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh nhằm bảo vệ, giữ gìn, tơn tạo các giá trị di tích
lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh bền vững, phát huy giá trị đích thực trong
đời sống xã hội.
Bên cạnh các đặc điểm chung của pháp luật đất đai, pháp luật về đất di tích
lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh cịn có một số các đặc điểm riêng cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, pháp luật về đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh
là lĩnh vực pháp luật tổng hợp. Nó bao gồm quy phạm pháp luật của một số lĩnh vực
pháp luật có liên quan mà trước hết là lĩnh vực pháp luật đất đai, pháp luật về quy

hoạch, kiến trúc; pháp luật hành chính và pháp luật về di sản văn hóa v.v...
Pháp luật đất đai quy định về chế độ quản lý và SDĐ di tích lịch sử, văn
hóa và danh lam thắng cảnh; quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân SDĐ

24


di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; quy định về cấp giấy chứng nhận
quyền SDĐ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh v.v...
Pháp luật quy hoạch, kiến trúc quy định về các nguyên tắc chung, điều kiện,
yêu cầu, mục đích xây dựng quy hoạch, không gian kiến trúc; hệ thống quy hoạch v.v...
Những quy định này đòi hỏi phải tuân thủ khi xây dựng quy hoạch di tích lịch sử,
văn hóa và danh lam thắng cảnh, xây dựng không gian kiến trúc của di tích lịch sử,
văn hóa và danh lam thắng cảnh v.v...
Pháp luật hành chính quy định về cơ cấu, tở chức bộ máy quản lý hành chính
nhà nước; quy định nguyên tắc, thời hiệu, thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
v.v... Những quy định này địi hỏi khi xây dựng cơ cấu, tổ chức các cơ quan quản lý
đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh... phải tuân thủ.
Pháp luật về di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan quản lý di tích lịch sử, văn hóa và danh
lam thắng cảnh; quy hoạch di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh; vấn đề
bảo tồn, giữ gìn, tơn tạo và phát huy giá trị của di tích lịch sử, văn hóa và danh lam
thắng cảnh. Những quy định này địi hỏi tở chức, cá nhân quản lý và SDĐ di tích
lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh phải tuân thủ để không gây phương hại đến
di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh v.v...
Thứ hai, pháp luật về di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh là lĩnh
vực thuộc pháp luật cơng. Nó bao gồm các quy định về quản lý đất di tích lịch sử,
văn hóa và danh lam thắng cảnh của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; quy định
về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân SDĐ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam

thắng cảnh; quy định về vấn đề thanh tra, xử lý vi phạm về đất di tích lịch sử, văn
hóa và danh lam thắng cảnh v.v...
Thứ ba, pháp luật về đất di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh còn
chịu ảnh hưởng của các điều ước quốc tế về di sản văn hóa; các quyết định của Tở
chức Văn hóa, khoa học và giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) về công nhận

25


×