Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT tư TƯỞNG TRIẾT học TRẦN THÁI TÔNG GIÁ TRỊ và ý NGHĨA LỊCH sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.47 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA………….

TIỂU LUẬN

TÊN MÔN HỌC: LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM

ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN THÁI TÔNG
GIÁ TRỊ VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ

HÀ NỘI - NĂM 2021


2

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
PHẦN II. NỘI DUNG
ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
Chương 1
TRIẾT HỌC TRẦN THÁI TƠNG
Điều kiện kinh tế - xã hội hình thành triết học Trần Thái
1.1
Tơng
1.2
Tiền đề lý luận hình thành triết học Trần Thái Tông
1.3
Cuộc đời, sự nghiệp vua Trần Thái Tông
NỘI DUNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA TƯ TƯỞNG
Chương 2
TRIẾT HỌC TRẦN THÁI TƠNG


2.1
Nội dung tư tưởng triết học Trần Thái Tơng
2.2
Giá trị lịch sử của triết học Trần Thái Tông
PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
5
5
5
6
8
9
9
15
18
19


3

3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trần Thái Tông khơng chỉ là một nhà chính trị - một vị vua anh minh

mà còn là nhà quân sự tài năng; khơng chỉ là nhà văn, nhà thơ mà cịn là một
nhà tư tưởng lớn, một thiền sư lỗi lạc - người góp phần sáng lập ra một dịng
thiền mang bản sắc Việt Nam - Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Ông đã biết dung

hợp các nguồn tư tưởng từ quá khứ của dân tộc với triết lý phong phú, sâu
sắc, thâm trầm của Nho, Lão, đặc biệt là triết lý Phật giáo, bằng sự kế thừa,
chọn lọc tư tưởng triết học trong lịch sử dân tộc để sáng tạo nên hệ thống triết
lý nhân sinh với những nét độc đáo và đặc sắc riêng.
Triết học Trần Thái Tông ra đời không phải là một hiện tượng ngẫu
nhiên, tự phát mà có cội nguồn sâu xa từ đặc thù của lịch sử, từ tình hình kinh
tế - xã hội Đại Việt cuối thế kỷ XII đến nửa đầu XIII. Tư tưởng triết học Trần
Thái Tông là sự kế thừa những yếu tố tinh hoa của các dịng thiền trước đó,
như thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, thiền phái Vô Ngôn Thông, thiền phái Thảo
Đường.
Bằng sự kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa yêu nước với tinh thần nhập
thế cao cả, đem đạo vào đời để “cứu dân độ thế”, Trần Thái Tông đã kế thừa
và khắc phục những hạn chế của của các thiền phái và triết học Phật giáo thời
nhà Lý cịn tính tản mạn, cịn phụ thuộc vào những yếu tố ngoại lai, chưa
hồn tồn khẳng định tính độc lập về nội dung triết lý và tính chất tơn giáo
cũng như ý thức hệ, tư tưởng triết học Trần Thái Tơng ra đời đã góp phần đưa
triết lý đạo đức cho xã hội Đại Việt, xây dựng một tổ chức Phật giáo Việt
Nam thống nhất, một hệ tư tưởng độc lập, làm chỗ dựa tinh thần của dân tộc
thời kỳ nhà Trần.
Vì vậy, nghiên cứu làm rõ tư tưởng triết học Trần Thái Tơng trên ba
khía cạnh cơ bản: bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh quan để thấy
được sự độc đáo, đặc sắc và những giá trị, ảnh hưởng về triết học, đạo đức và
nhân sinh trong tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái Tông đối với văn hóa,


4

4

tơn giáo, hệ tư tưởng thời nhà Trần (1226-1400) nói riêng và trong dòng chảy

chung của lịch sử hành ngàn của xã hội phong kiến Việt Nam nói chung.
2. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu là tư tưởng triết học của vua Trần Thái Tông,
nhưng trong giới hạn của một tiểu luận chuyên đề tác giả xác định phạm vi
tập trung nghiên cứu của đề tài là vấn đề: bản thể luận, nhận thức luận và
nhân sinh quan trong triết học Trần Thái Tông.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Với cách tiếp cận dưới góc độ triết học lịch sử và triết học văn hóa, tiểu
luận tập trung:
+ Phân tích và chỉ ra cơ sở xã hội, tiền đề lý luận và nhân tố chủ quan
hình thành tư tưởng triết học của Trần Thân Tơng
+ Trình bày khái lược tư tưởng triết học của Trần Thái Tông qua những
vấn đề về thế giới quan, nhân sinh quan, triết lý đạo đức nhân sinh.
+ Rút ra ý nghĩa, giá trị lịch sử của tư tưởng triết học Trần Thái Tông
đối với lịch sử phát triển tư tưởng triết học, tôn giáo thời Trần, toàn bộ lịch sử
xã hội Việt Nam trong thời phong kiến và hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Tiểu luận được thực hiên trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài phương
pháp chung nhất là phương pháp biện chứng duy vật, tiểu luận còn sử dụng
tổng hợp các phương pháp như: Logic và Lịch sử, Phương pháp so sánh,
Phương pháp phân tích và tổng hợp...
4. Kết cấu của đề tài
- Chương 1: Điều kiện, tiền đề hình thành tư tưởng triết học Trần Thái Tông
- Chương II: Nội dung tư tưởng triết học Trần Thái Tông và giá trị lịch sử
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TRIẾT
HỌC TRẦN THÁI TƠNG
1.1. Điều kiện kinh tế - xã hội hình thành triết học Trần Thái Tông.



5

5
Từ giữa thế kỷ XII trở đi, vương triều nhà Lý bước vào giai đoạn suy

tàn. Đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng. Thiên tai,
mất mùa, đói kém, dịch bệnh hồnh hành nhiều nơi trong nước làm cho nền
kinh tế ngày càng thêm sa sút. Mặt khác, bộ máy chính quyền nhà Lý từ trung
ương đến địa phương ngày càng quan liêu, lỏng lẻo trong việc quản lý xã hội
dẫn đến tình trạng ở nhiều địa phương, các lãnh chúa phong kiến đã tập hợp
lực lượng, nổi dậy chống phá triều đình, gây nên tình trạng phân quyền cát cứ.
Trong số các thế lực cát cứ thời bấy giờ nổi bật là tập đoàn quân sự của anh
em nhà họ Trần ở vùng Hải Ấp. Do có cơng giúp nhà Lý dẹp loạn, lập lại trật
tự, gia tộc họ Trần lần lượt đưa con cháu vào cung giữ những chức vụ quan
trọng trong triều chính để thao túng quyền lực. Mặc dù trên danh nghĩa, Lý
Huệ Tông là người đứng đầu một nước nhưng thực chất mọi quyền hành của
triều đình đều thâu tóm trong tay anh em họ Trần, đứng đầu là Trần Thủ Độ.
Vị vua cuối cùng của nhà Lý là Lý Huệ Tơng có thể chất yếu đuối lại
thêm bản tính nhu nhược, lại phải chịu những áp lực căng thẳng trong một
thời gian dài, cộng với nỗi buồn phiền vì khơng có con trai nối nghiệp đã
khiến cho Huệ Tơng mắc phải chứng bệnh tâm thần. Vào năm 1225, Huệ
Tông phải nhường ngôi cho Chiêu Thánh rồi lên làm Thái Thượng Hồng và
sau đó xuất gia đi tu ở chùa Chân Giáo. Với cương vị là vua một nước, nhưng
Lý Chiêu Hồng cịn q nhỏ nên mọi quyền hành trong thực tế đều do anh
em họ Trần thao túng, nhất là Trần Thủ Độ. Theo sự dàn xếp của Trần Thủ
Độ, Chiêu Hồng đã kết hơn với Trần Cảnh. Ngày 12 tháng 12 năm 1225
Chiêu Hồng nhường ngơi cho chồng là Trần Cảnh. Trần Cảnh lên ngơi
Hồng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung, mở đầu cho triều đại nhà Trần.

Dưới nhà Trần, đầu thế kỷ XIII, để phát triển sản xuất, triều Trần đã
ban hành những chính sách nhằm khẳng định quyền tư hữu ruộng đất, cho
phép lập nên những điền trang, thái ấp giàu có, tạo điều kiện kinh tế vững
chắc cho xã hội dưới thời nhà Trần. Sự phát triển mạnh mẽc của nền kinh tế xã hội giai đoạn đầu nhà Trần đã thể hiện trong mọi lĩnh vực nông nghiệp,


6

6

thương nghiệp, thủ cơng nghiệp. Thực tế đó, làm cho những làng nghề, những
phường hội chuyên sản xuất các mặt hàng nổi tiếng hình thành và phát triển,
thúc đẩy quá trình lưu thơng trao đổi hàng hóa giữa các vùng trong cả nước,
tạo điều kiện cho nước ta giao lưu với những nền văn hóa của nhiều nước
khác trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, chuyển biến mạnh mẽ trong
đời sống kinh tế đầu thời Trần đã ảnh hưởng đến sự phân hóa xã hội sâu sắc,
hình thành nên ba đẳng cấp chính trong xã hội gồm đẳng cấp quý tộc, tôn thất,
quan lại; đẳng cấp những người bình dân, nơng dân các làng xã, thợ thủ cơng
và thương nhân và những người nơ tỳ.
Tóm lại, xã hội Đại Việt từ cuối thế kỷ XII đến đầu thế kỷ XIII là một
thời kỳ đầy những biến động mạnh mẽ trên mọi mạt của đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội. Tuy nhiên, cùng với khuynh hướng phát triển của lịch sử,
trong những năm đầu thống trị, nhà Trần đã có nhiều chủ trương, chính sách
tiến bộ, phù hợp nhằm khơi phục lại nền kinh tế, ổn định tình hình chính trị xã
hội trong nước, tạo tiền đề cho sự phát triển rực rỡ của nhà Trần ở thời kỳ sau
đó. Đây chính là cơ sở kinh tế - xã hội cho sự hình thành, phát triển của tư
tưởng thời Trần, trong đó có triết học của Trần Thái Tơng.
1.2. Tiền đề lý luận hình thành triết học Trần Thái Tơng
Những biến động mạng mẽ trong đời sống chính trị - xã hội cuối thời
Lý, đầu thời Trần đã làm nảy sinh ra một địi hỏi cần phải có sự thống nhất về

mặt chính trị xã hội và tương ứng với nó là sự biến đổi và thống nhất về mặt
tư tưởng. Đây chính là lý do khiến cả ba thiền phái thời Lý gần như biến mất
vào thời đầu nhà Trần. Nên lý luận trong học thuyết Không hư của Trần Thái
Tơng ra đời có ý nghĩa lyw luận quan trọng. Đây là một học thuyết có sự tổng
hợp các yếu tố như: Thiền, Tịnh, Nho, Lão… trên cơ sở kế thừa tư tưởng của
các thiền phái trước đó tạo nên một bước phát triển mới cho Thiền học Việt
Nam.
Trong sự tiến triển nội tại của Thiền tông Việt Nam, “triết học Trần
Thái Tông ra đời không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà nó cịn có cội
nguồn sâu xa từ sự kế thừa thành tựu của các dịng thiền trước đó như: thiền


7

7

phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, thiền phái Vô Ngôn Thông, thiền phái Thảo Đường” 1.
Thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, thiền phái Vô Ngôn Thông, thiền phái Thảo
Đường mặc dù có nhiều điểm khác nhau về giáo lý, cách tu tập cũng như vai
trò của từng thiền phái trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể của đất nước, thế
nhưng, tựu trung lại, giữa ba thiền phái trên đều chứa đựng điểm chung, đó là
chúng đều dựa trên những giáo lý cơ bản của thiền tông để luận bàn, phát
triển, làm sáng tỏ và phong phú hơn những vấn đề như: Tâm, Phật, … và đặc
trưng nổi bật ở ba thiền phái là đều mang tinh thần nhập thế tích cực, hịa
mình vào cuộc sống để giúp nước, giúp đời. Đồng thời đây cũng chính là
những tiền đề tư tưởng lý luận góp phần hình thành tư tưởng triết học Trần
Thái Tông.
Phật giáo du nhập vào nước ta từ rất sớm và đến nhà Lý trở thành quốc
giáo và tri phối mạnh mẽ tới đời sống tinh thần, chính trị - xã hội Đại Việt giai
đoạn Lý – Trần thế kỷ XII - XIII. Với Thái tông Trần Cảnh được coi như con

người chất chứa một khối mâu thuẫn lớn. Là con người của xã hội phong kiến
nhưng chịu phần tai tiếng về đổi vợ, anh em bất hồ; là nhà vua nhưng trị vì
phần lớn thời gian đầu dưới cái bóng rợp của Trần Thủ Độ; tham chính sống
đời nhưng tâm trí lại hướng về cửa Phật. Và có lẽ, chính giáo lý nhà Phật đã
làm cân bằng những khối mâu thuẫn lớn trong cuộc đời thi nhân triết gia Trần
Cảnh. Với vị thế cư sĩ Phật tử, Phật giáo có vai trị lý luận rất lớn, chi phối
ảnh hưởng trong việc hình thành tư tưởng và nhân sinh quan triết học của
Thái tông Trần Cảnh. Với ông, Phật Giáo không chỉ là một bộ giáo lý tín
ngưỡng, có thể nó cịn là một cơng cụ trị nước, hành dạo mà không xuất thế
lánh đời.
1.3. Cuộc đời, sự nghiệp vua Trần Thái Tông.
Trần Thái Tông tức Trần Cảnh, vua thứ nhất của nhà Trần, sinh ngày
17-7-1218, mất ngày 4-5-1277, làm vua 33 năm, nhường ngôi 19 năm, thọ 59
1

Dỗn Chính, Nguyễn Ngọc Phượng, Tư tưởng triết học Trần Thái Tơng, Nguồn Tạp chí Triết học, số 1, 2009,
truy cập 22/10/2021.


8

8

tuổi. Trần Cảnh là con thứ Trần Thừa, một người nhiều mưu lược, dưới triều
Lý từng giữ chức Nội thị khán thủ. Nhờ Trần Thủ Độ là chú sắp xếp, ông
thường xuyên được ra vào cung có cơ hội găp và lấy Lý Chiêu Hoàng.
Năm 1226, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh và vương
triều Trần được thành lập từ đấy. Lên làm vua, Trần Cảnh đổi niên hiệu là
Kiến Trung; năm 1232, đổi là Thiên ứng Chính bình; năm 1251, lại đổi là
guyên Phong và niên hiệu Nguyên Phong đã đi vào lịch sử như cái mốc lớn

ghi chiến công đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thế kỷ
13. Ngày 29-1-1258, Trần Thái Tông lãnh đạo đánh tan qn Ngun ở Đơng
Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
Nguyên Mông lần thứ nhất và trở thành ông vua anh hùng cứu nước.
Tuy vậy, Trần Thái Tông được lịch sử lưu truyền cịn vì ơng là một nhà
Thiền học, một triết gia có những tư tưởng sâu sắc, độc đáo và một cá tính
khá đặc biệt. Ơng là tác giả cuốn sách nổi tiếng Khóa hư lục, một tác phẩm cổ
nhất, quan trọng nhất về phương diện triết học Thiền của thời Trần. Khóa hư
lục nghĩa là ghi chép về phép tu dưỡng đạo hư tịch. Trần Thái Tông viết sách
này vào khoảng từ 1258 đến trước lúc mất 1277.
Xét về nội dung, Khóa hư lục vừa có giá trị triết học, vừa có giá trị văn
học, bởi Trần Thái Tơng mượn để biểu đạt tư tưởng, cảm xúc của mình là
hình thức văn, luận, thể biền ngẫu và kệ, thể thơ thất ngơn, ngũ ngơn... Tất cả
đều giàu hình tượng, giàu chất trữ tình.
Khơng có trong lịch sử Phật giáo quốc gia nào lại nêu vấn đề và giải
quyết theo hướng đặt "quốc gia xã tắc" lên trên hết, trước hết như Đại Việt
thời đó. Thái độ đối với "quốc gia xã tắc" chính là thước đo giá trị, nhân cách
của mỗi người, bất kể họ ở cương vị nào. Nghe theo tiếng gọi của "quốc gia
xã tắc", Trần Thái Tông trở về triều và 22 năm sau, Trần Thái Tông đã phá tan
quân xâm lược Nguyên Mông, giữ vững "quốc gia xã tắc".
Trần Thái Tơng quả là người có một tính cách đặc biệt. Lúc làm tướng,
đánh giặc thì anh dũng "xơng vào mũi tên hịn đạn", khi làm vua, thì "phú q
khơng đủ làm trọng", có thể sẵn sàng từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc.


9

9

Ngơ Thì Sĩ, sử gia thế kỷ 18 đã nhận xét về Trần Thái Tông: "Trần Thái Tông

tuy ý từ gần với đạo khơng tịch mà chí thì rộng xa, cao siêu cho nên bỏ ngôi
báu như trút đôi dép rách vậy". Lời nhận xét này tưởng như một nét khắc thần
thái Trần Thái Tơng, bó đuốc của Thiền học Việt Nam, gương mặt văn hóa
đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sử Việt Nam.
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CỦA TƯ TƯỞNG
TRIẾT HỌC TRẦN THÁI TÔNG
2.1. Nội dung tư tưởng triết học Trần Thái Tông
Trần Thái Tông không chỉ là một vị vua anh hùng dám xả thân vì nghĩa
và vì quốc gia xã tắc, mà còn là một triết gia với những tư tưởng độc đáo, đặc
sắc về triết học Phật giáo. Trong đó, chúng ta phải đặc biệt kể đến sự kết hợp
hài hoà giữa chủ nghĩa yêu nước với tinh thần nhập thế cao cả, đem đạo vào
đời để cứu dân độ thế của ông. “Giá trị của tư tưởng triết học Trần Thái Tông
không chỉ là chấm dứt sự tản mát về tư tưởng giữa các dòng thiền cuối thời
Lý, mà còn là một trong những tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử” 1. Tiểu luận làm rõ tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái
Tông trên ba nội dung cơ bản: bản thể luận, nhận thức luận và nhân sinh
quan.
- Về bản thể luận:
Triêt học Trần Thái Tông cũng lấy cái tâm làm điểm xuất phát cho tư
tưởng của mình; và trên cơ sở luận giải về cái tâm ấy, ơng đào sâu, tìm kiếm
lời giải đáp cho những vấn đề triết học khác, như “ngộ”, “sinh tử”, “giải
thoát”, “Niết bàn”... Tâm này là cái tâm ban đầu, mà trong học thuyết của
mình, Trần Thái Tơng thường gọi nó bằng khái niệm khơng, hư. Theo ông,
bản thể, khởi nguyên, cội nguồn của vũ trụ, của vạn vật chính
là khơng và hư . Hai yếu tố này chuyển hóa biện chứng cho nhau và ngược lại
nên theo ơng Khơng chính là hư và ngược lại, hư cũng là khơng. Khơng bao
1

Dỗn Chính, Nguyễn Ngọc Phượng, Tư tưởng triết học Trần Thái Tơng, Nguồn Tạp chí Triết học, số 1, 2009,
truy cập 22/10/2021.



10

10

trùm tất cả, hướng đến cái khách quan bên ngoài con người và hư là sự thể
hiện của không trong tâm mỗi người, là mặt chủ quan bên trong con người.
Trần Thái Tông từng viết: “Do không khởi vọng, vọng thành sắc, sắc tự
chân khơng. Thị vọng tịng khơng, khơng hiện vọng, vọng sinh chúng sắc” 1.
Như vậy, theo Trần Thái Tông, từ không xuất hiện vọng và sự xuất hiện
của vọng từ khơng làm liên tưởng đến hình ảnh mặt nước hồ đang phẳng lặng,
yên ả, chỉ một làn gió thổi qua làm xuất hiện, gợn những con sóng lăn tăn; sự
xuất hiện của những con sóng ấy chính là vọng từ không mà sinh
khởi. Vọng ở đây được hiểu là cái ảo ảnh, lầm lẫn, không đúng sự thật – tức
hiểu là vô minh. Vô minh, theo bản thể khơng, cũng là vọng tịng khơng,
khơng hiện vọng. Từ vọng sinh chúng sắc, cũng có nghĩa là từ vơ minh sinh
ra thế giới hình danh sắc tướng.
Trong triết học Trần Thái Tông, vọng không chỉ là nguyên nhân làm
xuất hiện thế giới hiện tượng mà ngay cả con người và các sinh vật cũng đều
do vọng sinh ra, ông khẳng định: “Tri kỳ chúng sinh huyễn cấu, tòng vọng nhi
sinh”2, có nghĩa là chúng sinh được cấu tạo một cách ảo ảnh, theo vọng mà
sinh ra. Thực chất, ở trong mỗi con người, vọng còn được hiểu là niệm.
Nếu vọng là nguyên nhân xuất hiện của thế giới hiện tượng, thì niệm là
nguyên nhân xuất hiện của cái ngã, tức con người cá nhân. Niệm khơng cịn
dừng lại ở góc độ một hoạt động diễn ra nơi tâm thức con người nữa, mà với
Trần Thái Tông, niệm được kiến giải từ cái nhìn bản thể luận. Trần Thái Tơng
quan niệm rằng, cần phải thủ tiêu niệm là cách để đạt tới cái tâm vơ niệm. Chỉ
có ai biến tâm của mình thành vơ niệm thì mới vượt lên được vòng sinh tử
luân hồi, nghiệp báo.

Trong triết học Trần Thái Tơng, bản thể cịn là Phật tính , cũng được
gọi là chân như, tức cái tính chân thực, chưa hề biến cải, chẳng sinh chẳng
diệt, là mầm thiện, mầm giác ngộ sẵn có ở mỗi người. Phật tính cịn được ông
1 Viện Văn học. Thơ văn Lý - Trần,

tập 2. Nxb, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.42

2 Viện Văn học. Thơ văn Lý - Trần,

tập 2. Nxb, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.156


11

11

quan niệm như là bản tâm, tâm Phật, pháp thân… Điểm độc đáo ở Trần Thái
Tông là đã đưa ra cách lý giải mới về sắc thân con người trên cơ sở kế thừa
khuynh hướng dung hoà tư tưởng giữa Phật giáo, Nho giáo và triết lý Âm
dương. Điều này thể hiện khá rõ khi ơng khẳng định: “gửi hình hài ở tinh anh
cha mẹ, nhờ thai nghén nuôi dưỡng ở khí âm dương. Hơn hết tam tài mà đứng
giữa” 1. Qua đó cũng cho thấy, dù trên kế thừa nhiều quan điểm từ trước, Trần
Thái Tông vẫn thể hiện một sự sáng tạo, độc đáo riêng của mình chứ khơng lệ
thuộc vào lối mịn của kinh sách. Chỉ có nhưng người nhận thức được thực
tướng vơ tự tính của vạn pháp và lý vơ ngã của con người thì mới đạt đến
trạng thái thấu suốt tâm hư, tức giác ngộ và giải thoát. “Tâm hư” là để chỉ
trạng thái tĩnh lặng, rỗng không, tuyệt đối không vọng động, đã tẩy sạch mọi
dục vọng, ham muốn đời thường đang đeo bám.
Như vậy, thuyết Không hư của Trần Thái Tông ra đời trên cơ sở tiếp
thu tư tưởng của các thiền phái đã tồn tại trước đó, nhưng ơng khơng dừng lại

ở sự kế thừa ấy mà quan trọng hơn ông đã sáng tạo để làm phong phú, sâu sắc
hơn và đưa ra nhiều kiến giải mới mẻ, độc đáo hơn trong nhiều khái niệm cơ
bản, thiết yếu của thiền học. Qua đó, chúng ta có thể thấy được sự đa dạng,
phổ quát, giàu tính lý luận trong tư tưởng triết học của ơng. Có thể nói, trước
Trần Thái Tơng, chưa có nhà tư tưởng nào xây dựng nên học thuyết của mình
với mức độ khái niệm học thuật nhiều và giàu về nghĩa như ông đã làm.
- Về nhận thức luận:
Xuất phát từ quan điểm cho rằng bản nguyên, cội nguồn của vũ trụ,
của vạn vật, trong đó có con người, đều từ cái tâm mà ra, đối tượng nhận thức
trong triết học Trần Thái Tông hướng vào tâm, nhận thức cái tâm trong con
người, chứ không nhận thức sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan bên
ngoài. Trần Thái Tông đã diễn đạt tư tưởng này của ông: Tâm con người hiện
tại đã trải qua biết bao kiếp luân hồi sinh tử, bị tạp nhiễm, vẩn đục, mờ tối.
Vấn đề đặt ra là phải trở về với cái tâm bản lai, thanh tịnh, nguyên sơ ấy. Cho

1 Viện Văn học. Thơ văn Lý - Trần,

tập 2. Nxb, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.42


12

12

nên, ở Trần Thái Tơng, mục đích nhận thức là thấy được tính Phật, Phật tính ở
trong tâm.
Trần Thái Tơng viết: “Người học đạo chỉ cốt thấy được bản tính” 1. Ông
cho rằng, những ai đã lĩnh hội được Phật tính nơi mình rồi thì người đó khơng
cịn tạo nghiệp nữa. Vì chính cái tâm vơ minh là ngun nhân tạo tác của
nghiệp, nhưng khi con người đã tìm lại được bản tính của mình, đã biến tâm

mình thành tâm Phật rồi thì lẽ tất nhiên là người đó sẽ khơng cịn tham, sân, si
nữa. Lúc đó, tâm của con người sẽ trở nên thanh tịnh, trong sáng nên khơng
cịn tạo nghiệp nữa, do vậy họ cũng khơng cịn tái sinh trong vòng luân hồi
sinh tử.
Đặc điểm nhận thức trong triết học Trần Thái Tông là nhận thức trực
giác. Nhận thức trực giác là sự nhận thức không cần đến sự suy xét, kinh
nghiệm hay bất cứ sự phân tích nào của tư duy, lý trí. Đây là cách nhận biết
trực tiếp, trọn vẹn đối tượng, không thông cần giai đoạn trung gian nào. Theo
Trần Thái Tông, sự hiểu biết do trực giác mang lại đó là sự thấu suốt tuyệt
đối, vượt lên mọi lầm kiến, giới hạn của nhận thức thơng thường; đó cũng là
lúc đạt đến trạng thái giác ngộ, mà ông khảng định là: “thấy sinh niệm vì
vọng niệm mà mờ, khơi thủy giác cho bản giác có 1ợi” 2.
Về phương pháp nhận thức, Trần Thái Tơng là dung hòa giữa đường lối
đốn ngộ và tiệm ngộ. Ông đã hết lòng chuyên tâm xây dựng nên cả một hệ
thống tu tập cho phù hợp với tính căn riêng của từng người. Ông chú trọng
dùng phương pháp vấn đáp và niêm tụng để giúp họ mau chóng đi đến giác
ngộ. Trên tinh thần tổng hợp các thiền phái trước đó, Trần Thái Tơng cịn đưa
ra một phương pháp hành thiền khác, đó là sự kết hợp giữa trì giới, niệm Phật,
tọa thiền với sám hối theo pháp môn tiệm ngộ. Tiếp nối truyền thống của các
thiền sư thời Lý, Trần Thái Tơng đã nhấn mạnh vai trị của niệm Phật trong
Tịnh độ giáo trong việc tu tập thiền định. Ông chia thiền ra thành “Loại thứ
nhất, dùng kế lạ làm vui người trên, làm chán kẻ dưới mà tu hành, đó là ngoại
1 Viện Văn học. Thơ văn Lý - Trần,

tập 2. Nxb, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.87

2 Viện Văn học. Thơ văn Lý - Trần,

tập 2. Nxb, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.33



13

13

đạo thiền. Loại thứ hai, hết lòng tin ở nhân quả, nhưng cũng lấy việc làm vui,
gây chán mà tu thì đó là phường phàm phu thiền. Loại thứ ba, hiểu rõ cái lẽ
cuộc sống là không, chứng riêng được đạo chân chính mà tu hành, thì đó là
tiểu giáo thiền. Loại thứ tư, hiểu rõ người và pháp đều khơng mà tu hành, đó
là đại giáo thiền”1. Trần Thái Tơng muốn cho tư tưởng triết học của mình
được đơng đảo người bình dân được tiếp nhận. Ơng đã tận tụy, cố gắng xây
dựng nên một hệ thống tập luyện mới, làm phương tiện để tẩy rửa hết mọi dơ
bẩn trong tâm của con người. Bên cạnh đó, chúng ta cũng có thể thấy rằng,
Trần Thái Tơng rất chú trọng đến khía cạnh nghi thức trong thực tiễn tơn giáo
sao cho dễ thực hiện cả với bậc trí thức lẫn người bình dân, nhằm rũ sạch mọi
phiền muộn, chấp trược nơi thân ý, ln giữ mình ở trạng thái tỉnh thức,
hướng tới sự thanh khiết thân tâm, thôi thúc con người vươn đến cái thiện, cái
mỹ cao cả trong cuộc sống.
- Về triết lý nhân sinh:
Trần Thái Tơng cịn dành nhiều tâm trí cho vấn đề triết lý nhân sinh đạo đức. Ơng ln quan niệm rằng, do nơi biến kế sở chấp tánh, tức là tánh
hư vọng chấp dính sai lầm của tâm con người, quên thực quên gốc, khơng
nhận thức được rằng vạn pháp vơ tự tính, chẳng có cái nào gọi là có tự tính
riêng biệt cả, mà tất cả đều do nơi nương náu, giả hợp của nhân duyên mà ra.
Nếu hành giả nhận thức được thực tính của vạn pháp là khơng, thì thực ra
hồn tồn khơng có cái gọi là sinh, là hóa. Chỉ do con người khơng thấu suốt
được điều đó nên mới vướng mắc vào chuỗi cùng tận của hóa hóa, sinh
sinh.
Trong triết lý nhân sinh của Trần Thái Tông nổi bật lên quan và tinh
thần phá chấp triệt để, vượt lên mọi giới hạn, khuôn khổ của nhận thức thông
thường, siêu việt hữu vô, văn tự, để trực kiến vào tận chân bản thể của vạn

pháp và chúng sinh. Chỉ khi nào hành giả nhìn ra được bản tâm của mình thì
sẽ tỉnh ngộ rằng, nam - nữ, tăng - tục, tam giáo cũng đều có điểm tương đồng
ở tâm con người mà ra. “Quan điểm này của Trần Thái Tông phản ánh tư
1 Viện Văn học. Thơ văn Lý - Trần,

tập 2. Nxb, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.88


14

14

tưởng tam giáo đồng nguyên - một truyền thống đã có ở nước ta ngay từ buổi
đầu du nhập tam giáo. Trên nền tảng tâm học, Trần Thái Tông đã làm sâu sắc
hơn cơ sở cho sự đồng quy này của tam giáo Nho - Phật - Đạo” 1. Đây vừa là
sự kế thừa, vừa là sự phát triển tư tưởng đã được ươm mầm trước đó.
Trần Thái Tơng ln tạo ra nhưng khác biệt, không dừng ở sự kế thừa
lặp lại tư tưởng của đời trước, mà ở ông ln có sự khát khao sáng tạo nên
những giá trị mới, vừa mang hơi thở cuộc sống, vừa phù hợp với tinh thần dân
tộc. Trần Thái Tơng đã có một bước phát triển mới khi ông đi từ quan điểm về
“chân Phật” sang quan điểm về “hoạt Phật” - tức Phật sống. Đây là một nét
mới chưa từng có trong Phật giáo Việt Nam trước đó. Từ quan điểm “tâm
bình thường thị đạo” ở Quốc sư Trúc Lâm, Trần Thái Tông đã phát triển lên
thành yếu chỉ của cái tâm khi sống hài hòa giữa cuộc đời. Với vấn đề sinh tử,
người giác ngộ rồi thì chẳng mảy may sợ sệt, cái chết đối với họ nhẹ tựa lông
hồng, không còn dừng lại ở sự loay hoay coi sinh tử là vấn đề trọng đại nữa,
mà vượt lên đó, xem nó như lẽ tự nhiên, thường tình của đời người.
Trần Thái Tông coi tâm làm nền tảng để xây dựng nên quan niệm về
đạo đức của mình. Ơng cho rằng: “phàm tâm là gốc của thiện ác” 2. Như vậy,
mọi vấn đề thiện, ác của con người đều được ông đưa ra lý giải xoay quanh

cái tâm ấy. Với quan niệm lấy giới làm điểm khởi đầu cho mọi quá trình tu
dưỡng đạo đức, Trần Thái Tơng khun răn người đời không nên sát sinh hại
vật, tham lam của cải, sắc đẹp, công danh phú quý… dẫn đến trộm cướp, hãm
hại người khác, khinh vua, ghét cha, nhạo tăng, chửi Phật… mà mọi người
cần chú ý, tích cực làm việc thiện, thương yêu người khác, tôn trọng phép
nước… Trong tư tưởng về đạo đức của Trần Thái Tông, “bên cạnh những
quan niệm về đạo đức, luân lý thể hiện giá trị nhân văn cao đẹp, hướng con
người đến cái thiện trong cuộc sống, cịn có một số ý được lồng vào ngụ ý răn
1

Dỗn Chính, Nguyễn Ngọc Phượng, Tư tưởng triết học Trần Thái Tơng, Nguồn Tạp chí Triết học, số 1, 2009,
truy cập 22/10/2021.

2 Viện Văn học. Thơ văn Lý - Trần,

tập 2. Nxb, Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.27


15

15

đe cả giới q tộc, tơn thất lẫn giới bình dân cấm phạm vào các tội phương
hại đến lợi ích quốc gia, muốn điều hòa mâu thuẫn giai cấp” 1.
2.2. Giá trị lịch sử của triết học Trần Thái Tông
Trong tư tưởng triết học của Trần Thái Tông nổi bật lên những giá trị ,
chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, thể hiện ở tấm lịng khun răn mọi người tích
cực hành thiện, tránh ác, theo giữ giới luật, tiết dục, kiểm soát thân tâm nhằm
giữ cho pháp thân trong sạch, sống có ích cho cuộc sơng xã hội dựa trên triết
lý nhân quả của Phật giáo. Vần đề ông nêu ra có ý nghĩa to lớn để định hướng

cho việc tạo lập một xã hội tốt đẹp dựa trên nền đạo đức từ bi, hỉ xả của giáo
lý Phật giáo, đảm bảo cho nền thái bình thịnh vượng của quốc gia, dân tộc.
Những giá trị học thuật trong tư tưởng triết học Trần Thái Tơng giữ vai trị
quan trọng là một trong những tiền đề tư tưởng cho sự ra đời và phát triển của
thiền phái Trúc Lâm Yên Tử sau này.
Về nhân sinh - đạo đức, Trần Thái Tông đã tập trung vào việc giải
quyết các vấn đề căn banr của Phật Giáo như vô thường, sinh tử, khổ, giải
thốt, Niết bàn…; ơng đã làm sâu sắc, sinh động thêm, phát triển triết lý hành
động nhằm đưa ra một con đường mới để đi đến giải thoát của Phật giáo Đại
Việt trong thế kỷ XIII, Trong đó, “có sự kết hợp hài hòa giữa chủ nghĩa yêu
nước với tinh thần nhập thế cao cả” 2. So với các thiền sư thời Lý, Trần Thái
Tơng đã có bước phát triển mới hơn ở chỗ coi sinh tử khơng cịn là vấn đề
mang tính kinh viện, cao siêu, trừu tượng nữa, mà nó chính là thực tiễn cuộc
sống của con người với thái độ tự tại, ung dung, hài hòa giữa vật và tâm của
môi người. Thái độ sống không lầm sinh tử này đã được Trần Thái Tông nâng
lên thành một phương châm độc đáo là “sống thiền” - vui với cái vui của sự
hiểu biết chân thực, hòa với cái vô cùng tận của cuộc đời để xác lập, tao ra
1

Dỗn Chính, Nguyễn Ngọc Phượng, Tư tưởng triết học Trần Thái Tơng, Nguồn Tạp chí Triết học, số 1, 2009,
truy cập 22/10/2021.

2

Dỗn Chính, Nguyễn Ngọc Phượng, Tư tưởng triết học Trần Thái Tơng, Nguồn Tạp chí Triết học, số 1, 2009,
truy cập 22/10/2021.


16


16

một phương pháp để đạt đến giác ngộ của thiền học Việt Nam. Đó là con
đường cứu dân độ thế, đem đạo vào đời chứa đựng ý nghĩa nhân văn cao đẹp.
Tư tưởng triết học của Trần Thái Tông đã thực sự đáp ứng được đòi hỏi
bức thiết của thời đại. Vấn đề cần có một hệ tư tưởng đọc lập, làm chỗ dựa
tinh thần vững chắc cho dân tộc trong giai đoạn đầy biến động và chuyển giao
của lịch sử giữa nhà Lý sang nhà Trần. Cũng từ đây, đời sống tinh thần, tư
tưởng xã hội Đại Việt thu về một mối, chấm dứt sự tản mác về tư tưởng giữa
các dòng thiền cuối thời Lý trong đời sống tinh thần của xã hội. Nhưng quan
trọng hơn là, Trần Thái Tông đã tạo dựng được được sự thống nhất, đoàn kết
cao độ giữa giai cấp cầm quyền với toàn dân tộc đủ sức để bảo vệ nền độc
lập, tự chủ, ổn định lâu dài cho đất nước. Bên cạnh đó, “sự kết hợp hài hịa,
nhuần nhuyễn giữa tư tưởng Phật giáo với chủ nghĩa yêu nước trong tư tưởng
triết học Trần Thái Tông đã tạo nên nét độc đáo về tinh thần nhập thế, đem
đạo vào đời để cứu dân độ thế” 1. Thực tế này, chứng tỏ Phật giáo đã hồn
thành xuất sắc vai trị chủ thể trong nguồn lực nội sinh tiềm tàng của văn hóa
dân tộc thời đại nhà Trần trước mọi gian nguy, thử thách khắc nghiệt của lịch
sử. Nó đã chứng tỏ rõ giá trị, sự cần thiết của mình với dân tộc và luôn là sức
mạnh tinh thần sẵn sàng chuyển thành nguồn sức mạnh vật chất vô biên đáp
ứng nhưng yêu cầu và đòi hỏi của đất nước.
Trong triết học Trần Thái Tông, không dừng lại là cơ sở lý thuyết
suông, kinh viện, nặng tính tư biện, mà đã vượt lên đem thể nghiệm những
ngun tắc ấy vào chính cơng cuộc “an dân trị quốc” của mình, để tiếp nối
truyền thống xây dựng một xã hội với nền chính trị chú trọng đức trị, từ bi,
khoan dung, độ lượng hơn là pháp trị, hình phạt. Ơng cũng coi đó là cơ sở cho
đạo trị nước.
Với Phật giáo, ơng đã có cơng rất lớn trong việc kế thừa và phát triển
những nguyên tắc của Phật giáo phù hợp, phục vụ nhiều hơn cho thực tiễn và
1


Dỗn Chính, Nguyễn Ngọc Phượng, Tư tưởng triết học Trần Thái Tơng, Nguồn Tạp chí Triết học, số 1, 2009,
truy cập 22/10/2021.


17

17

văn hóa Đại Việt. Về đời, ơng là một vị vua anh hùng, xả thân vì lợi ích chung
của quốc gia xã tắc. Ơng có cơng lớn chung tay góp sức gây dựng cơ đồ, khai
sáng cả một triều đại mang tầm vóc lịch sử. Triết lý hành động, tinh thần nhập
thế của Trần Thái Tơng cịn thể hiện rõ bằng những hành động thiết thực đáp
ứng những yêu cầu bức thiết của thực tiễn và cũng chính là để thỏa lịng mong
đợi của nhân dân.
Trần Thái Tơng có vai trị to lớn, tiếp tục góp phần kiến tạo nên mạch
nguồn về vai trò của Phật giáo và sự đồng quy hài hòa giữa tam giáo, làm nên
những nét đẹp thiết yếu của bản sắc văn hóa trong chiều sâu tâm thức dân tộc,
để lại một ảnh hưởng sâu sắc, lâu dài đến các giai đoạn phát triển về sau của
dân tộc. Những gì Trần Thái Tơng đã kế thừa và sáng tạo trong tư tưởng triết
học của mình có ý nghĩa quan trọng không chỉ về học thuật, tôn giáo mà cả
thuật trị quốc an dân cho triều Trần đạt đến thịnh trị trong thế kỷ XIII –XIV
mà ảnh hưởng quan trọng đến văn hóa, tư tưởng, chính trị các triều đại phong
kiến sau này của Việt Nam.
KẾT LUẬN
Ngày nay trong xu thế hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ và đem lại
những kết quả to ở nhiều mặt: chính trị, kinh tế, văn hố và xã hội; nhưng
cũng đặt ra nhiều thách thức, nhất là trong văn hoá và xã hội. Một vấn đề đặt
ra làm sao hồ nhập mà khơng hồ tan để hội nhập mà vẫn giữ được các giá
trị truyền thống, cội nguồn để xây dựng một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản

sắc dân tộc và còn để “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước” 1 theo quan
điểm của Đảng. Do đó, việc quan tâm, tìm hiểu, gìn giữ và phát huy những
giá trị văn hoá, tư tưởng nền tảng và truyền thống của dân tộc được đặt ra một
cách cấp thiết hơn bao giờ hết.
Trong những di sản văn hoá tư tưởng của dân tộc thì tư tưởng triết học,
trong đó có tư tưởng triết học của vua Trần Thái Tông là một bộ phận quan
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb. CTQG Sự Thật, Hà Nội, tr.206


18

18

trọng quan trọng cốt lõi. Vì ở đó, đọng lại thế giới quan, nhân sinh quan của
người Việt và phản ánh những thăng trầm, biến cố của lịch sử, văn hoá và tư
duy của người Việt trong những thời kỳ lịch sử nhất định. Đó là sự kết tinh,
tập trung mọi giá trị cho công cuộc dựng nước và giữ nước trong tiến trình
lịch sử dân tộc. Ở đó sáng lên những quan niệm về thế giới, đạo đức nhân
sinh, về sự giao lưu văn hoá ... của người Việt xưa và nay. Những yếu tố đó
góp phần quan trong để cố kết cộng đồng dân tộc trong công cuộc dựng và
giữ nước mấy ngàn năm qua. Vì vậy, nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng triết học
của Trần Thái Tơng có một ý nghĩa quan trọng. Đây khơng chỉ là dịp giúp
chúng ta có một cái nhìn tồn diện và sâu sắc hơn về một trong những nhân
vật lịch sử lỗi lạc trong lịch sử dân tộc Việt Nam – Hồng đế, triết gia Trần
Thái Tơng, mà cịn là cơ hội để tìm hiểu những tư tưởng triết học dân tộc, là
cơ hội vận dụng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin
vào xem xét một khía cạnh của cuộc sống. Qua đó, để thấy được triết học có ý
nghĩa và vai trị thế giới quan, phương pháp luận quan trọng như thế nào trong
nhận thức và cải tạo thực tiễn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Dỗn Chính, Nguyễn Ngọc Phượng, Tư tưởng triết học Trần Thái Tông,
Nguồn Tạp chí Triết học, số 1, 2009, truy cập 22/10/2021.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc
lần thứ XIII,tập I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội.
[3] Nguyễn Hùng Hậu – Dỗn Chính- Vũ Văn Gầu (2002), Đại cương lịch sử
tư tưởng Việt Nam ,Tập1, Nxb. ĐHQHHN, Hà Nội.
[4] Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Nxb.KHXH,
Hà NộI.
[5] Trịnh Thị Nga Vua Trần Thái Tông, cuộc đời và sự nghiệp (14/5/2008),
nguồn />

19

19

/102337/van-hoa---xa-hoi/vua-tran-thai-tong--cuoc-doi-va-su-nghiep-.aspx,
truy cập ngày 28/10/2021.
[6] Trần Quốc Vượng – Hà Ân(14/10/2004), Trần Thái Tông mở nghiệp nhà
Trần, nguồn />%c3%b4ng-m%e1%bb%9f-nghi%e1%bb%87p-nh%c3%a0Tr%e1%ba%a7
n-511634/, truy cập ngày 28/10/2021.
[7] Viện Văn học (1989), Thơ văn Lý - Trần, tập 2. Nxb, Khoa học xã hội, Hà
Nội.



×