Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

chuyen nguoi con gai nam xuong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.65 KB, 18 trang )

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
(Trích: Truyền kì mạn lục _ Nguyễn Dữ)
A. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Tác giả
- Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh, năm mất),
quê ở Hải Dương.
- Nguyễn Dữ sống vào nửa đầu thế kỷ
XVI, là thời kỳ Triều đình nhà Lê đã bắt đầu
khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê,
Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực, gây ra
những cuộc nội chiến kéo dài
- Sinh ra trong một gia đình khoa bảng. Là
học trị xuất sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ông học rộng, tài cao nhưng chỉ làm
quan một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở
vùng núi Thanh Hoa. Tuy nhiên, qua các
tác phẩm ông vẫn tỏ ra là người quan
tâm, lo lắng đến cuộc đời,
2. Tác phẩm:

a. Hoàn cảnh sáng tác – Xuất xứ
-Tác phẩm ra đời vào thế kỉ 16 ,thời kì
triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoàng,
các tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Mạc


tranh giành vô cùng cực khỏ quyền lực, gây
ra các cuộc nội chiến kéo dài, làm
đời sống nhân dân vô cùng cực khổ
-"Chuyện người con gái Nam Xương" là
truyện thứ 16 trong số 20 truyện nằm


trong tác phẩm nổi tiếng nhất của
Nguyễn Dữ “Truyền kỳ mạn lục". Truyện
có nguồn gốc từ một truyện cổ dân gian
trong kho tàng cổ tích Việt Nam "Vợ chàng
Trương".

b. Thể loại:Truyền kì
“Truyền kì là một thế văn xuôi thời trung
đại phản ánh hiện thực qua những yếu tố
kì ảo, hoang đường. Trong truyện truyền
kì, thế giới con người và thế giới cõi âm
có sự trong giao. Người đọc có thể thấy
rằng sau hiện thực chính là cốt lõi của hiện
thực và những quan niệm, thái độ của tác
giả.
*Tác phẩm Truyền kì mạn lục – Truyền kì
mạn lục của Nguyễn Dữ (ghi chép tản mạn
những điều kì lạ được lưu truyền); viết
bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, ra đời vào
nửa đầu thế kỉ XV1. Tập truyện khai thác từ
các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết


lịch sử, dã sử của Việt Nam từ các thời Lí,
Trần, Hồ và Lê sơ,
+ Nội dung các tác phẩm có giá trị hiện
thực và nhân đạo sâu sắc. Tác giả lấy
xưa để nói nay, lấy áo để nói thực, lấy âm
để nói dương nhằm phơi bày, phê phán
hiện thực xã hội đương thời.+ Nhân vật

chính trong các truyện thường là: • Những
người trí thức có tâm huyết, bất mãn với
thời cuộc, khơng chịu trói mình vào vịng
lanh lợi chất hẹp. • Những người phụ nữ có
phẩm chất tốt đẹp nhưng số phận bất hạnh,
đau khổ
+ Truyền kì mạn lục được đánh giá là một
tuyệt tác của thể truyền kì, Vũ Khâm Lân
(thế kỉ XVIII) đã khen tặng là “Thiên cổ kì
bút". Tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng
nước ngoài và được đánh giá cao trong số
các tác phẩm truyền kì ở các nước đồng
văn.

c.Ngơi kể: 3 -Tác dụng:
+ Tạo tính khách quan, chân thực
+ Khơng gian truyện được mở rộng
+ Người kể dễ dàng đan xen những suy
nghĩ, bình luận làm câu chuyện thêm sinh
động...


d. Tóm tắt :
Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương là người
con gái thùy mị, nết na. Nàng lấy chồng tên
là Trương Sinh, con nhà giàu nhưng khơng
có học, tính đa nghi, hay ghen. Cuộc sống
gia đình đang bình yên thì Trương Sinh phải
đầu qn đánh giặc. Ít ngày sau, Vũ Nương
sinh con trai, đặt tên là Dân. Mẹ của Trưởng

Sinh vì nhớ thương con mà sinh bệnh, Vũ
Nương hết lịng chăm sóc nhưng bà khơng
qua khỏi, ít lâu sau bà mất. Qua năm sau,
việc quân kết thúc, Trường Sinh trở về, bé
Đàn cũng vừa học nổi, không chịu gọi
chàng là cha, chỉ một mực nói cha Đản
thường buổi tối mới đến, khơng nói, khơng
bể Đản, chỉ đi theo mẹ. Trương Sinh nghỉ
ngờ vợ, mắng nhiếc, đánh đập đuôi đi. Vũ
Nương khơng minh oan được, gieo mình
xuống sơng Hồng Giang tự vẫn rồi được
thần Rùa Linh Phi và các tiên nữ cứu giúp.
Một đêm thấy bóng cha trên tưởng, bẻ Đàn
gọi đó là cha, lúc bấy giờ Trương Sinh mới
mới biết vợ bị oan thì đã muộn. Dưới cung
nước của rùa thần, trong bữa tiệc Linh Phi
chiêu đãi trả ơn Phan Lang (người cùng
làng với Trường Sinh), Phan Lang đã nhận
ra Vũ Nương, nay đã là người của thủy
cung. Nghe Phan Lang kể chuyện nhà, Vũ


Nương thương nhớ chống con muốn về
dương thế. Hôm sau, Linh Phi đưa Phan
Lang ra khỏi cung nước, Vũ Nương nhân đó
nhờ Phan Lang nói với Trương Sinh lập đàn
giải oan, năng sẽ trở về. Nhưng khi Trường
Sinh lập đàn giải oan bên sơng. Vũ Nương
chỉ hiện lên giữa dịng, nói với chàng lời tạ
từ “ Đa tạ tình chàng thiệp chẳng thể trở về

nhân gian được nữa" rồi biến mất.

e. Chủ đề
Bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo xã hội
phong kiến nam quyền, bày tỏ niềm cảm
thông của tác giả với số phận bi thảm của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến
g. Bố cục: 3 đoạn
Đoạn 1.... của minh: Cuộc hôn nhân giữa
Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì
chiến tranh và - phẩm hạnh của nàng trong
thời gian xa cách.
- Đoạn 2: ... qua rồi: Nỗi oan khuất và cái
chết bi thăm của Vũ Nương.
- Đoạn 3: Còn lại: Cuộc gặp gỡ giữa Vũ
Nương và Phan Long trong đội Linh Phi. Vũ
Nương được giải oan.


3. Giá trị nội dung của tác phẩm: (Giá trị
hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc)
* Giá trị hiệu thực
- Phản ánh hiện thực xã hội phong kiến
đương thời với nhiều sự bất công - Khắc
họa rõ nét bức tranh về cuộc đời - số
phân của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến qua nhân vật Vũ Nương : chịu
nhiều oan khuất phũ phàng đến nỗi phải tìm
đến cái chết.
*Giá trị nhân đạo: Thông qua nhân vật Vũ

Nương, tác giả
: - Trận trọng, ca ngợi những phẩm chất
tốt đen của người phụ nữ Việt Nam. Trân
trọng của nhà văn đối với những ước mơ
chính đáng, khát vọng cao đẹp như: khát
vọng được hạnh phúc, ước mơ về sự công
bằng trong xã hội,
- Thương cảm sâu sắc trước số phận
bất hạnh của người phụ nữ trong XHPK
- Lên án phê phán, tố cáo chế độ XHPK
bất công, làn nhẫn, trọng nam quyền đã chà
đạp lên quyền sống của con người đặc biệt
là người phụ nữ.
4. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm:


- Xây dựng tình huống truyện độc đáo,
đặc biệt là chi tiết chiếc bóng.
- Nghệ thuật dụng truyện. Dẫn dắt tình
huống truyện hợp lý.
- Có nhiều sự sáng tạo so với cốt truyện
cổ tích "Vợ chàng Trương" bằng cách sắp
xếp thêm bớt chi tiết một cách độc đáo
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật. Nhân vật
được xây dựng qua lời nói và hành động.
Các lời trần thuật và đối thoại của nhân vật
sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ nhưng vẫn
khắc hoạ dậm nét và chân thật nội tâm nhân
vật.
- Sử dụng yếu tố truyền kỳ (kỷ do) làm

nổi bật giá trị nhân đạo của tác phẩm. Yếu
tố kỳ ảo, hoang đường làm câu chuyện vừa
thực vừa mơ, vừa có hậu vừa khơng có
hậu, làm hồn chính vẻ đẹp của Vũ Nương
, - Kết hợp các phương thức biểu đạt Từ
su + biểu cảm (trữ tình) làm nên một áng
văn xi tự sự cịn sống mãi với thời gian.
B. PHÂN TÍCH CHI TIẾT
PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VŨ NƯƠNG.
1. Vẻ đẹp tâm hồn của Vũ Nương


Vẻ đẹp ấy được khẳng định ngay ở lời mở
đầu truyện “tĩnh đã thuỳ mị, nết na, lại thêm
tư dùng tốt đẹp" và được làm sáng tỏ qua
nhiều nhiễu mối quan hệ của nhân vật và
trong nhiều tình huống cụ thể.
-Trong quan hệ với chồng: VN là người
phụ nữ thủy mị, nết na, thủy chung yêu
chồng hết mực,
+ Khi mới lấy chồng: biết chồng nàng da
nghi, đối với vợ phòng ngừa q sức, nàng
ln giữ tin khn phép. gia đình chưa từng
phải thật hồ.
+ Khi tiền chồng đi lính, Vũ Nưởng rót chén
rượu đây, dãn do chồng những lời tình
nghĩa đằm thắm nàng không mong vinh
hiển mà chỉ cầu cho chồng khi về mang
theo được hai chữ bình yên, thể là đủ rồi".
Vũ Nương cũng thông cảm cho những nỗi

gian họ, vất vã mà chồng mình sẽ phải chịu
đựng nơi biên ải. Và xúc động nhất là
những lời tâm tình về nỗi nhớ nhung, trông
chở khắc khoải của Vũ Nương khi xa chồng.
Những lời văn từng nhịp, từng nhịp biền
ngẫu như nhịp đập trái tim nặng - trái tim
của người vợ trẻ khát khao yếu thương
đang thổn thức lo âu cho chồng khiến ai ai
cũng xúc động ưa hai hàng lệ. Rồi đến khi
xa chồng VN cũng tỏ ra là người vợ thủy


chung, rất mực yêu chồng. Nổi buồn nhỏ
chồng và võ, kéo dài qua năm tháng. Mỗi
khi thấy “bướm lượn đầy vườn” — cảnh vui
mùa xuân hay “mây che kín núi"– cảnh buồn
mùa đơng, nàng lại chạnh "nỗi buồn góc bể
chân trời nhớ người đi xa". Năng nói với
chồng: cách biệt ba năm.....bên gót. " khi bị
nghi oan cũng khẳng định tiết hạnh thủy
chung.
*Trong quan hệ với mẹ chồng, với con :
VN là người mẹ hiền, là người đâu thảo.
+ TS xa nhà nàng hết lịng ni dạy, chăm
sóc, bù đắp cho đứa con trai nhỏ sự thiếu
vắng tình cha. Bằng chứng chính là chiếc
bóng ở phần sau câu chuyện mà nàng vẫn
bảo đó là cha Dân.
+ Mẹ chồng già yếu, ốm đau tận tình chăm
sóc mẹ. Nàng lo chạy chữa thuốc thang cho

mẹ qua khỏi, thành tâm lễ bái thần phật, bởi
yếu tố tâm linh đối với người xưa là rất quan
trọng. Nàng lúc nào cũng dịu dàng, “lấy lời
ngọt ngào khôn khéo, khuyên lớn”. Lời trăng
trối cuối cùng của bà mẹ chồng đã đánh giá
cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình
và khẳng định tỉnh cảm tình cảm chân thành
của VN: “Xanh kia quyết chẳng phụ con,
cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Thông
thường, nhất là trong xã hội cũ, mối quan hệ


mẹ chồng – con dâu là mối quan hệ căng
thẳng, phức tạp. Nhưng trước người con
dâu hết mực hiền thảo như Vũ Nương thì
ba mẹ Trương Sinh khơng thể khơng yêu
mến. + Khi mẹ chồng mất, Vũ Nương đã
“hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế
lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình". Có
thể nói, cuộc đời Vũ Nương tuy ngắn ngủi
nhưng nàng đã làm tròn bổn phận của
người phụ nữ trong gia đình: một người vợ
thuỷ chung, một người mẹ thương con, một
người dâu hiếu thảo. Ở bất kỳ một cương vị
nào, nàng cũng làm rất hoàn hảo.
* VN là người phụ nữ trọng danh dự,
trong ân nghĩa
- Khi bị chồng nghi oan, nàng đã tìm mọi
cách dễ xoả bỏ ngờ vực trong lòng Trương
Sinh.

+ Ở lời nói đầu tiên, nàng nói đến thân phận
mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định
tấm lòng chung thuỷ trong trắng của mình.
Cầu xin chồng đừng nghi oan, nghĩa là nàng
đã cố gắng hàn gắn, cứu vãn hạnh phúc gia
đình đang có nguy cơ tan vỡ.
+ Lời 2: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng
vì có cái thu vui nghi gia nghĩ thất... đâu còn


có thể lên núi Vọng Phu kia nữa. "Ở lời nói
thứ hai trong tâm trạng “bắt đắc dĩ”, Vũ
Nương bày tỏ nỗi thất vì sao bị đổi xử tàn
nhẫn, bất cơng, khơng có quyền tự bảo vệ
mình, thậm chí khơng có quyền được bảo
vệ vọng khi khơng hiểu bởi những lời biện
bạch, thanh minh của hàng xóm láng giềng.
Hạnh phúc gia đình, “thứ vui nghi gia nghi
thất mà nàng Lớn thờ cả đời đã tan vỡ. Tình
cảm thuỷ chung năng dành cho chồng đã bị
phủ nhận không thương tiếc; giờ đây “bình
rơi trầm gãy, máy lạnh mưa tan, sen ra
trong ao, liễu lần trước gió, khóc tuyển bằng
hoa rừng cuống, khi xuân cái in là dẫn nước
thầm buồn xa”, cả nỗi nhỏ chờ chồng đến
hố đá trước đầy cũng khơng cịn “đầu con
có thể lên núi Vọng Phu kia nữa . Vậy thì
cuộc đời cịn gì ý nghĩa nữa đối với người
vợ trẻ khao khát yêu thương ấy"
- Chẳng còn gì cả, chỉ có nỗi thất vọng tốt

cùng, đau đón ở thế bởi cuộc hơn nhân đã
khơng cịn cách nào hàn gắn nổi, mà nâng
thi phải chịu oan khuất tầy trời. Bị dồn đến
bước đường cùng, sau mọi cố gắng khơng
thành, Vũ Nương chỉ cịn biết mượn dịng
nước Hồng Giang dễ rửa nỗi oan nhục.
Nàng đã tắm gội chạy sạch mong dòng
nước mắt làm dịu đi tức giận trong lòng,


khiến nàng suy nghĩ tình táo hơn để khơng
hành động bồng bột. Lời than của nàng
trước trời cao sông thẩm là lời nguyện xin
thần sông chứng giám cho nỗi oạn khuất
cũng như tiết sạch gia trong của nàng. Hành
động trăm mình là hành động quyết liệt cuối
cùng để bảo tồn danh dự, tuy chất chưa
nỗi tuyệt vọng đẳng cay nhưng cũng đi theo
sự chỉ đạo của lý trị. * Khi sống dưới thủy
cung: nàng sống dưới thủy cung và được
đối xử tỉnh nghĩa nên hết sức cảm kích ơn
cứu mạng của Linh Phi và các tiền nữ cũng
nước. Nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi
nhớ cuộc sống trần thế cuộc sống nghiệt
ngã đã đẩy nàng dẫn cái chết. Vũ Nương
vẫn là người vợ yêu chồng, người mẹ
thương con, vẫn nặng lòng nhung nhớ quê
hương, mộ phần cha mẹ, đồng thời vẫn
khao khát được trả lại danh dự. Bởi vậy mà
nàng đã hiện về khi Trương Sinh lập dàn

giải oan. Thế nhưng “cảm ơn đức của Linh
Phi, đã thề sống chết cũng khơng bỏ”, Vũ
Nương khơng quay trở về trần gian nữa.
Tóm lại: Vũ Nương là người phụ nữ đức
của người phụ nữ Việt Nam. hạnh vẹn tồn
là điển hình tiêu biểu cho vẻ đẹp truyền
thống


2. Số phận bất hạnh của VN (Nỗi oan
của Vũ Nương: Bi kịch của Vũ Nương) Vũ
Nương đã làm tròn bổn phận của một phụ
nữ, người vợ, người mẹ người con, ở
cương vị nào nàng cũng làm rất hoàn hảo.
Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc
nhưng hạnh phúc đã không mịn cười với
nàng. Ngày Trường Sinh trở về cũng là lúc
bi kịch cuộc đời năng xảy ra.
*Bi kịch cuộc đời Vũ Nương:
2.

Đoạn trích cho thấy Vũ Nương bị Trường
Sinh nghi oan là thất tiết, rồi bị chồng cuồng
rãy, bị trả đạp, bị vùi rập, rẻ rúng không
thương tiếc. Mọi công lao, nỗ lực trong việc
vun đắp tổ ấm của nàng đều đã bị vút bỏ
phủ phẳng, tấm lòng của năng dành cho gia
đình cho chồng con bị Trương Sinh phụ bạc
Khơng những thế nàng cịn bị chồng dần
đến bước đường cùng, buộc lịng phải tìm

đến cái chết một cách đau đớn, oan khuất.
* Nguyên nhân dẫn đến nỗi oan của Vũ
Nương:
-Nguyên nhân trực tiếp: do lời nói ngây
thơ của bé Đản. Đêm đêm, ngồi buồn dưới
ngọn đèn khuya, Vũ Nương thưởng “trỏ
bóng mình mà bảo là cha Đản”. Vậy nên


Đán mới ngộ nhận đó là cha mình, khi
người cha thật chở về thì khơng chịu nhận
và cịn vơ tĩnh đưa ra những thông tin khiến
mẹ bị oan
. - Nguyên nhân sâu sa:
Nỗi oan của VN xuất phát từ người
chồng đã nghỉ, hay ghen. Ngay từ đầu,
Trương Sinh đã được giới thiệu là người
"đa nghi, đối với vợ phòng ngừa q sức",
lại thêm "khơng có học". Đó chính là mầm
mống của bi kịch sau này khi có biển cổ xảy
ra. Biến cố đó là việc Trương Sinh phải đi
lính xa nhà, khi về mẹ đã mất. Mang tâm
trạng buồn khổ, chàng bế đứa con lên ba đi
thăm mộ mẹ, đứa trẻ lại quấy khóc khơng
chịu nhân cha. Lời nói ngây thơ của đứa trẻ
làm đau lịng chàng: "Ơ hay! Thể ra ơng
cũng là cha tơi ư? Ơng lại biết nói chứ
khơng như cha tơi trước kia, chỉ nin thin thít"
Trương Sinh gạn hỏi đứa bé lại đưa thêm
những thông tin gay cấn, dáng nghi: "Có

một người đàn ơng đêm nào cũng đến"
(hành động lén lút che mắt thiên hạ), “mẹ
Đản đi cũng đi, mẹ Đảng ngồi cũng ngồi”
(hai người rất quấn quýt nhau), “chẳng bao
giờ bế Đàn cả" (người này khơng muốn sự
có mặt của đứa bé). Những lời nói thật thả


của con đã làm thổi bùng lên ngọn lửa ghen
tuông trong lòng Trường Sinh.
+ Do cách cư xử hồ đồ, thái độ phủ
phàng, thô bạo của Trương Sinh. Là kẻ
không có học, lại bị ghen tng làm cho mù
mắt, Trường Sinh khơng dù bình tĩnh, sáng
suốt để phân tích những điều phi lý trong lời
nói con trẻ. Con người độc đoán ấy đã vội
vàng kết luận, “đinh ninh là vợ hư". Chàng
bỏ ngoài tại tất cả những lời biện bạch,
thanh minh, thậm chí là van xin của vợ. Khi
Vũ Nương hỏi ai nói thì lại giàu khơng kể lời
con. Ngay cả những lời bênh vực của họ
hàng, lãng xóm cũng không thể cởi bỏ oan
khuất cho Vũ Nương. Trương Sinh đã bỏ
qua tất cả những cơ hội để cứu vãn tấn
thảm kịch, chị biết là lên cho hả giận,
Trương Sinh lúc ấy khơng cịn nghĩ dễn tình
nghĩa vợ chồng, cũng chẳng quan tâm đến
công lao to lớn của Vũ Nương đối với gia
đình, nhất là gia đình nhà chồng. Từ đây có
thể thấy Trương Sinh là con dẻ của chế độ

nam quyền bất cơng, thiếu lịng tin và thiếu
tình thương, ngay cả với người thân yêu
nhất.
+ Do cuộc hôn nhân khơng bình đẳng. Vũ
Nương chỉ là "con nhà kẻ khơ”, còn Trương
Sinh là con nhà hào phủ". Thái độ tàn tệ, rõ


rằng của Trường Sinh đối với Vũ Nương đã
phần nào thể hiện quyền thể của người giàu
đối với người nghèo trong một xã hội mà
dồng tiền đã bắt đầu làm đen bạc thói đời.
+ Do lễ giáo hà khắc, phụ nữ khơng có
quyền được nói, khơng có quyền được tự
bảo vệ mình. Trong lễ giáo ấy, chữ trinh là
chữ quan trọng hàng đầu; người phụ nữ khi
đã bị mang tiếng thất tiết với chồng thì sẽ bị
cả xã hội hắt hủi, chỉ cịn một con đường
chết để tự giải thốt.
+Do chiến tranh phong kiến gây nên cảnh
sinh lý và cũng góp phần dẫn đến cảnh tử
biệt. Nếu khơng có chiến tranh, Trương Sinh
khơng phải đi linh thì Vũ Nương đã không
phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết
thương tâm như vậy,
Tóm lại: Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố
cáo xã hội phong kiến xem trong quyền uy
của kẻ giàu có và của người đàn ơng trong
gia đình, đồng thời bày tỏ niềm cảm thương
của tác giả đối với số phận oan nghiệt của

người phụ nữ. Người phụ nữ dức hạnh ở
đây không những không được bênh vực, trở
che mà lại còn bị đối xử một cách bất cơng,
vơ lý; chỉ vì lời nói thơ ngây của dứa trẻ và
vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng hay


ghen tng mà đến nỗi phải kết liễu cuộc
đời mình.

3. Ý nghĩa của chi tiết kỳ ảo
* Các chi tiết kỳ ảo trong câu chuyện:
- Phan Lang năm mộng rồi thả rủa.
- Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rủa, gặp
Linh Phi, được cứu giúp; gặp lại Vũ Nương,
được sử giả của Linh Phi rẽ đường nước
đưa về dương thế.
- Vũ Nương hiện về trọng lễ giải oan trên
bển Hoàng Giang giữa lung linh, huyền ảo
rồi lại biển đi mất.
* Cách đưa các chi tiết kỳ ảo:
- Các yếu tố này được đưa vào xen kẽ với
những yếu tố thực về địa danh, về thời điểm
lịch sử, những chi tiết thực về trang phục
của các mỹ nhân, về tình cảnh nhà Vũ
Nương khơng người chăm sóc sau khi năng
mất... Cách thức này làm cho thế giới kỳ ảo
lung linh, mơ hồ trở nên gần với cuộc đời
thực, làm tăng độ tin cậy, khiến người đọc
không cảm thấy ngỡ ngàng. Ý nghĩa của

các chi tiết kỳ ảo:
- Cách kết thúc này làm nên đặc trưng của
thể loại truyện truyền kỳ.Làm hoàn chỉnh


thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương nặng
tỉnh, nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con,
phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi
danh dự,
- Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho
câu chuyện.
- Thể hiện về ước mơ, về lẽ công bằng ở
cõi đời của nhân dân ta
. - Chi tiết kỳ ảo đồng thời cũng không làm
mất đi tinh bị kịch của câu chuyện. Vũ
Nương trở về mà vẫn xa cách ở giữa dòng
bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia
lìa đơi ngả, hạnh phúc đã vĩnh viễn rời xa.
Tác giả đưa người đọc vào giấc chiêm bao
rồi lại kéo chúng ta sực tỉnh giấc mơ - - giấc
mơ về những người phụ nữ đức hạnh vẹn
tồn. Sương khói giải oan tan đi, chỉ cịn
một sự thực cay đắng: nỗi oan của người
phụ nữ không một dàn tràng nào giải nổi.
Sự ân hận muộn màng của người chồng,
đàn cầu siêu của tôn giáo đều không cứu
vãn được người phụ nữ. Đây là giấc mơ mà
cũng là lời cảnh tỉnh của tác giả. Nó để lại
dư vị ngậm ngùi trong lòng người đọc và là
bài học thẩm thía về giữ gìn hạnh phúc gia

đình.
_ Chúc bạn học tốt_



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×