Tải bản đầy đủ (.doc) (149 trang)

Ths báo chí hoc thông tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên đài PT – TH hà giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.83 KB, 149 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đồng bào dân tộc ở
nước ta đồn kết, một lịng theo Ðảng, theo cách mạng, khơng ngại hy sinh
xương máu, góp sức, góp của cùng quân và dân cả nước làm nên những chiến
thắng vang dội. Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước,
dưới sự lãnh đạo của Ðảng, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân
tộc được cải thiện và nâng lên, đồng bào tích cực hưởng ứng phong trào thi
đua xây dựng cuộc sống mới, thôn, làng bình yên, ấm no. Nhưng, vì phần lớn
đồng bào sống ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, giao thơng, thơng tin
văn hóa, xã hội tiếp cận và hưởng thụ chưa được đầy đủ và trọn vẹn, nên việc
hiểu biết về chính trị xã hội, ý thức chấp hành và thực hiện tuân thủ pháp luật
còn nhiều vấn đề đáng quan tâm. Trong cuộc sống hằng ngày, đồng bào dân
tộc thiểu số, có một số hành vi, việc làm vi phạm pháp luật mà họ không hay
biết (một phần do thói quen, tập quán) như: khi sinh con cha, mẹ khơng đăng
ký khai sinh cho con, gia đình có người chết khơng khai tử, tục người chết
chơn chung, nam nữ xây dựng gia đình khơng cần đăng ký kết hơn, hiện
tượng tảo hơn vẫn cịn xảy ra, phạt vạ theo lệ làng vẫn cịn, tình trạng du
canh, du cư phá rừng làm nương rẫy tái diễn.
Vì khơng hiểu biết pháp luật nên một bộ phận người dân tộc thiểu số dễ
bị lôi kéo, mua chuộc, dụ dỗ theo các tà đạo, gây ảnh hưởng đến lợi ích chung
của quốc gia, dân tộc, vi phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và một
số lĩnh vực khác. Thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng một xã hội Việt Nam
"Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh", thiết lập trật tự,
kỷ cương xã hội. Bảo đảm đạt được mục tiêu chung đó, thì pháp luật phải thật
sự đi vào cuộc sống để mọi người dân hiểu biết và chấp hành, sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, việc thông tin về pháp luật cho mọi người



2

dân nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng cần phải được tăng
cường, đẩy mạnh, nhất là cần hướng mạnh về vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới, nơi phần lớn đồng bào các dân tộc đang sinh sống, để từng bước nâng cao
hiểu biết pháp luật cho nhân dân, hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi, việc
làm vi phạm pháp luật do không hiểu biết đầy đủ về pháp luật.
Nằm ở địa đầu cực Bắc của Tổ Quốc, Hà Giang có vị trí địa lý chiến
lược quan trọng. Phía Bắc giáp với tỉnh Vân Nam và Quảng Tây Trung Quốc,
phía Nam giáp với tỉnh Tuyên Quang, phía đơng giáp với tỉnh Cao Bằng, phía
Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Hà Giang có đường biên giới dài hơn 277
km tiếp giáp với nước bạn Trung Quốc cùng hệ thống cửa khẩu trải khắp
tuyến biên giới Việt – Trung gồm: Cửa khẩu Quốc tế Thanh Thủy – Thiên
Bảo, cửa khẩu Săm Pun – Điền Bồng, Xín Mần – Đơ Long, Phó Bảng – Đổng
Cán. Dân số hiện nay của Hà Giang là gần 700.000 người, bao gồm 19 dân
tộc cùng chung sống, đông nhất là đồng bào dân tộc Mông chiếm tới trên 30%
dân số, đồng bào dân tộc Tày và Dao, mỗi dân tộc chiếm trên 22% dân số.
Tại Điều 5, Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất
nước Việt Nam; 2. Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng
phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; 3. Ngôn ngữ quốc gia
là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân
tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình; 4.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển tồn diện và tạo điều kiện để các dân
tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”. Để thực hiện điều
này, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người đồng bào dân tộc được
xác định là một trong những nhiệm vụ công tác trọng tâm, trọng điểm. Chính vì
vậy việc nâng cao chất lượng thơng tin về pháp luật cho người đồng bào dân tộc
thiểu số là vấn đề cấp bách và cần thiết nhất hiện nay



3

Thời gian qua, trên cơ sở quán triệt các Nghị quyết, chủ trương của
Đảng và Nhà nước, các cơ quan báo chí nước ta đã có nhiều nỗ lực trong việc
thông tin về pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số.
Trước tình hình đó, báo chí Hà Giang, trong đó, Đài PT - TH Hà Giang
đã tích cực thông tin về pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số. Ngồi
các bản tin thời sự, thì Đài PT - TH Hà Giang đã xây dựng một số chuyên
trang, chuyên mục để thông tin về pháp luật cho người đồng bào dân tộc trên
sóng phát thanh và truyền hình. Đặc biệt, trong các chương trình truyền hình,
phát thanh tổng hợp của Đài cũng đã phản ánh kịp thời những quan điểm,
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về pháp luật cho đồng bào dân
tộc thiểu số. Với đặc thù của một tỉnh miền núi biên giới, địa hình hiểm trở,
khí hậu khắc nghiệt, đời sống của đồng bào các dân tộc trong tỉnh còn gặp rất
nhiều khó khăn. Đặc biệt, nhận thức của đồng bào về pháp luật còn rất nhiều
hạn chế. Mặc dù được Đảng và Nhà nước quan tâm, đồng bào ở vùng cao Hà
Giang đã được đọc báo, xem truyền hình, nghe phát thanh và tiếp cận với các
dịch vụ khoa học công nghệ, viễn thông như internet... Song, do đời sống của
đại bộ phận đồng bào còn nghèo (năm 2015 tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh Hà Giang
chiếm 16,7 % tổng số hộ trên địa bàn tỉnh), chính vì vậy đồng bào khơng có
điều kiện để mua các thiết bị thu hình hiện đại, lắp đặt mạng internet hay đặt
mua báo thường xuyên. Theo kết quả khảo sát của tác giả luận văn, đại đa số
bà con trên địa bàn tỉnh Hà Giang nghe phát thanh nhiều hơn sau đó là đến
xem truyền hình, và đặc biệt là những thơng tin về pháp luật cũng được bà
con tiếp nhận phần lớn qua sóng phát thanh của Đài PT – TH Hà Giang.
Quá trình thơng tin về pháp luật cho người đồng bào dân tộc thiểu số
ở Hà Giang nói chung của Đài PT - TH Hà Giang nói riêng cần tổng kết, đúc
rút kinh nghiệm, đồng thời nghiên cứu chỉ ra những thành cơng và hạn chế
nhằm tìm các giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về pháp luật. Do vậy



4

tôi chọn đề tài “Thông tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên
Đài PT – TH Hà Giang” để nghiên cứu với mong muốn góp một phần nhỏ
bé của mình vào nâng cao hơn nữa cơng tác thông tin, tuyên truyền về pháp
luật của Đài PT - TH Hà Giang. Qua đó nhằm nâng cao vai trị của cả hệ
thống chính trị và cộng đồng trong thông tin về pháp luật cho đồng bào,
cũng như nhằm thay đổi nhận thức của toàn xã hội; đặc biệt là đồng bào dân
tộc thiểu số về pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến thông tin,
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc của tập thể, cá
nhân đã được công bố. Cho dù việc thông tin, tuyên truyền về pháp luật cho
đồng bào dân tộc thiểu số được đề cập dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác
nhau, song về cơ bản gồm các nhóm vấn đề sau:
Nhóm 1: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung công tác thông tin,
tuyên truyền về pháp luật đã xuất bản dưới dạng sách. Tiêu biểu là cuốn "Bàn
về giáo dục pháp luật" của tác giả Trần Ngọc Đường – Dương Thị Thanh Mai
(1995), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội; cuốn Đề tài khoa học cấp Bộ “Tìm
kiếm mơ hình tun truyền pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít
người” của Bộ Tư pháp (1995); cuốn Một số vấn đề về giáo dục pháp luật ở
miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tác giả Nguyễn Du Lãm –
Trương Thị Phương – Nguyễn Đắc Bình (1996), NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; cuốn "Tuyên truyền, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên, quan trọng nhất
đưa pháp luật vào cuộc sống" của Viện Nhà nước – Pháp luật (2011).
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu khoa học của các tập thể, cá
nhân trên về công tác thơng tin pháp luật nói chung và thơng tin, tun
truyền về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng đã đóng góp rất

nhiều cho việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hiệu quả thông tin pháp


5

luật ở nhiều góc độ, nhiều đối tượng nhưng chưa có cơng trình nào đi sâu
nghiên cứu thơng tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn
tỉnh Hà Giang.
Nhóm 2: Liên quan đến vấn đề báo chí và pháp luật, báo chí thơng tin
cho đồng bào dân tộc thiểu số thì cũng có nghiên cứu, đề cập ở những góc độ
khác nhau. Tiêu biểu là cuốn "Cơ sở lý luận báo chí" do PGS.TS Nguyễn Văn
Dững (2012), NXB Lao động; cuốn “Cơ sở lý luận Báo chí truyền thơng” của
nhóm các tác giả Dương Xn Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang có viết về
vấn đề báo chí và luật pháp. Nội dung là nói đến mối quan hệ giữa báo chí và
luật pháp, cùng với những cơ sở pháp luật của báo chí Việt Nam. Hay như
cuốn "Giáo trình Báo chí - Truyền thơng cho các đối tượng chuyên biệt" của
nhóm tác giả PGS.TS Đỗ Thị Thu Hằng, PGS.TS Đinh Thị Thu Hằng,
PGS.TS Nguyễn Ngọc Oanh. Nội dung của cuốn này đã làm rõ những nguyên
tắc cơ bản mang tính lý luận khi viết về đối tượng chuyên biệt, trong đó có
đồng bào dân tộc thiểu số; Hoặc Luận văn thạc sỹ Truyền thông " Truyền
thơng về người dân tộc thiểu số trên sóng truyền hình các Đài PT – TH miền
núi Đơng Bắc" của An Thị Thanh Thu, Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Trong luận văn này, tác giả khảo sát chương trình truyền hình của 3 Đài vùng
miền núi Đơng Bắc để so sánh tỷ lệ thời lượng dành cho người dân tộc thiểu
số trên sóng truyền hình để có những điều chỉnh về nội dung và hình thức
truyền thơng.
Ngồi ra cịn nhiều bài viết trên các báo, tạp chí khoa học như: “Đổi
mới, phát triển hệ thống phát thanh truyền hình địa phương ở Việt Nam” của
PGS.TS Đức Dũng đăng trên tạp chí Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Nghiên cứu trên đã đi sâu làm rõ nhiều đặc điểm riêng biệt của vùng đồng bào

dân tộc thiểu số. Từ đó khẳng định rõ nét vai trị của báo chí, đặc biệt là phát
thanh, truyền hình trong giai đoạn hiện nay.


6

Qua thống kê trên cho thấy, cho đến thời điểm hiện tại đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn về đề tài thông tin về pháp luật, đồng bào
dân tộc thiểu số. Mỗi cơng trình nghiên cứu đã đề cập tới những khía cạnh khác
nhau của thông tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số. Tuy nhiên đến
hiện tại chưa có một cơng trình nào nghiên cứu về đề tài “Thơng tin về pháp luật
cho đồng bào dân tộc thiểu số trên Đài PT – TH Hà Giang”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là thông qua khảo sát và đánh giá thực trạng,
luận văn đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác thông
tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên Đài PT – TH Hà Giang
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề thông tin về pháp
luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên Đài PT - TH Hà Giang.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng thông tin về pháp luật cho đồng bào dân
tộc thiểu số trên Đài PT – TH Hà Giang.
Từ những kết quả khảo sát, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần nâng cao chất lượng thông tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số trên Đài PT – TH Hà Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thông tin về pháp luật cho đồng

bào dân tộc thiểu số trên Đài PT - TH Hà Giang hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu


7

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các tin, bài phát thanh, truyền hình
có nội dung thơng tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên Đài PT TH Hà Giang từ tháng 6/2015 đến tháng 6/2016.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Đề tài thực hiện trên cơ sở lí luận là đường lối, quan điểm, chính sách
của Đảng và Nhà nước về thông tin, tuyên truyền pháp luật. Đồng thời dựa
trên hệ thống cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm vụ của báo chí nói chung và
báo phát thanh, truyền hình nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Được sử dụng để nghiên cứu các
văn bản pháp luật có liên quan và các tài liệu tham khảo chuyên ngành, bao
gồm các tài liệu về đề tài thông tin pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
- Phương pháp phân tích nội dung:
Tiêu chí lựa chọn mẫu nghiên cứu: Nhóm các tin bài có đề cập trực tiếp
hoặc liên quan đến thông tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số. Tác giả
Luận văn đã khảo sát 1.115. tin, bài về thông tin về Pháp luật và liên quan đến
Pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên Đài PT – TH Hà Giang từ tháng
6/2015 đến tháng 6/2016. Phương pháp này được thực hiện nhằm thu thập cứ
liệu xác thực, tạo cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất các
giải pháp, kiến nghị có tính khả thi nhằm góp phần nâng cao chất lượng thông
tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên Đài PT - TH Hà Giang.
- Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi an-ket dành cho đối
tượng khán, thính giả: thu thập, phân tích, tổng hợp, đánh giá thực trạng công

tác thông tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên Đài PT - TH Hà


8

Giang qua ý kiến của các chuyên gia, những người làm công tác quản lý,
người trong nghề và công chúng. Tác giả luận văn phát ra khảo sát với 200
phiếu phát ra và thu về 198 phiếu. Các đối tượng, độ tuổi, thành phần dân tộc,
nghề nghiệp, trình độ được cơ cấu đều theo vùng miền.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Đối tượng phỏng vấn là những người
làm công tác quản lý, các phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên thực hiện
chương trình có nội dung thơng tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số
ở Đài PT - TH Hà Giang. Cụ thể, tác giả luận văn phỏng vấn 3 lãnh đạo, 6
phóng viên.
6. Cái mới của luận văn
Đây là lần đầu tiên vấn đề “Thông tin về pháp luật cho đồng bào dân
tộc thiểu số trên Đài PT – TH Hà Giang” được nghiên cứu. Nó góp phần làm
sáng tỏ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nâng cao hiệu quả công tác
thông tin về Pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Hà Giang.
Đề tài bước đầu hệ thống hóa các vấn đề lý luận chung về thơng tin về
pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên Đài PT - TH Hà Giang.
Góp phần mơ tả được thực trạng và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả công tác thông tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên
Đài PT - TH Hà Giang.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn bổ sung thêm lý luận về báo chí thơng tin về pháp luật cho
đồng bào dân tộc thiểu số
Luận văn rút ra một số phương pháp luận bổ ích cho những người làm
cơng tác quản lý, các phóng viên, biên tập viên trực tiếp sản xuất tin, bài, chương

trình phát thanh, truyền hình liên quan đến thơng tin về pháp luật cho đồng bào
dân tộc thiểu số của các cơ quan báo chí, đặc biệt là Đài PT - TH Hà Giang.


9

Đây là một đề tài nghiên cứu khoa học, đánh giá mức độ quan tâm đến
yếu tố pháp luật. Tìm hiểu thực trạng công tác thông tin về pháp luật cho đồng
bào dân tộc thiểu số trên Đài PT - TH Hà Giang hiện nay, so sánh với đường
lối của Đảng và Nhà nước. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm cho tồn xã hội về pháp luật. Đề tài
góp phần cùng các ban, ngành và địa phương trong việc hoạch định chính
sách và cơ chế điều phối, sự tham gia rộng rãi của cộng đồng trong thực hiện
các hoạt động thông tin pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số.
7.2. Giá trị thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở phân tích, đánh giá khách quan, luận văn góp phần tổng kết
thực tiễn về công tác thông tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên
Đài PT - TH Hà Giang, giúp những người đang công tác trong lĩnh vực PT TH nói chung và tại Đài PT - TH Hà Giang nói riêng có sự đánh giá, nhìn
nhận cụ thể hơn về cơng việc của mình, góp phần cải thiện và nâng cao chất
lượng cơng tác thông tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Những kiến nghị, đề xuất khơng chỉ có ích cho những người làm nghề
trực tiếp, mà còn là nguồn tham khảo cho các bộ phận có liên quan trong khâu
sản xuất chương trình để có sự phối hợp, tạo điều kiện tốt nhất để thông tin về
pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số đạt hiệu quả tốt. Ngồi ra, những đề
xuất này cịn có ý nghĩa đối với các nhà quản lý trong việc xây dựng tổ chức,
sắp xếp nhân sự và lên kế hoạch sản xuất các chương trình phát thanh, truyền
hình liên quan đến thơng tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn có 03 chương, 8 tiết.

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề thông tin về pháp
luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên sóng phát thanh, truyền hình


10

Chương 2: Thực trạng thông tin về pháp luật cho đồng bào dân tộc
thiểu số trên Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Giang
Chương 3: Giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin
về pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên Đài Phát thanh – Truyền
hình Hà Giang


11

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ THÔNG TIN VỀ
PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN SĨNG
PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH
1.1. Các khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu.
1.1.1. Thông tin
Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, con người thường xuyên
cần đến thông tin. Ngày nay với sự bùng nổ thơng tin thì thơng tin càng trở
thành một trong những nhu cầu sống còn của con người và khái niệm “thông
tin” đang trở thành khái niệm cơ bản, chung của nhiều khoa học.
Theo định nghĩa của Từ điển Hán Việt - Việt Hán thì “thơng tin” mang
từ tính vừa là động từ vừa là danh từ, nếu là động từ thì mang nghĩa là truyền
tin cho nhau để biết (ví dụ: thơng tin bằng điện thoại), nếu là danh từ thì có
nghĩa là điều được truyền đi cho biết, tin truyền đi (nói khái qt) (ví dụ: bài
báo có hàm lượng thơng tin cao). [1, tr.652]

Từ góc độ triết học, khái niệm “thông tin” được tiếp cận ở hai mặt: bản
thể luận và nhận thức luận. Cho đến nay, tuy có những vấn đề cịn phải tiếp
tục nghiên cứu nhưng một định nghĩa của triết học về “thông tin” được nêu ra
khá xác đáng, đó là: “Thơng tin là cái đa dạng được phản ánh”.
Theo PGS.TS Đoàn Phan Tân, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội cho rằng:
nghĩa thơng thường, thông tin là tất cả các sự việc, sự kiện, ý tưởng, phản đoán
làm tăng thêm sự hiểu biết của con người. Thơng tin hình thành trong q trình
giao tiếp: một người có thể nhận thơng tin trực tiếp từ người khác thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, từ các ngân hàng dữ liệu, hoặt từ tất cả các
hiện tượng quan sát được trong môi trường chung quanh. [40, tr.46].
Theo giáo trình Cơ sở lý luận báo chí của tác giả Tạ Ngọc Tấn chủ
biên, "Thơng tin là một loại hình hoạt động để chuyển đi các nội dung thông


12

báo. Hoạt động thơng tin khơng chỉ có trong hoạt động lồi người. Ngay trong
thiên nhiên cũng có những hoạt động thơng tin phức tạp, đa dạng của các lồi
dộng vật khác nhau". [42, tr.19].
Thông tin là chức năng cơ bản, quan trọng hàng đầu của báo chí. Báo
chí ra đời là để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu thông tin giao tiếp của công chúng
và xã hội. Xã hội càng phát triển, con người càng văn minh thì nhu cầu thông
tin giao tiếp càng cao, càng đa dạng, phong phú. Quá trình đáp ứng nhu cầu
này làm cho báo chí phát triển nhanh chóng. Báo chí thực hiện chức năng
thông tin – giao tiếp nhằm thực hiện các chức năng khác. Nói cách khác, báo
chí thực hiện mọi chức năng đều thơng qua con đường thơng tin. Báo chí
thơng tin để thực hiện chức năng tư tưởng, định hướng dư luận xã hội, thơng
tin để thực hiện vai trị giám sát, quản lý xã hội, thông tin để thực hiện chức
năng văn hóa, giải trí… Thơng tin là chức năng bao trùm, trực tiếp của báo
chí. Thực hiện chức năng thơng tin, báo chí phải đảm bảo tính chân thực, độ

nhanh nhạy, kịp thời… Thơng tin báo chí phải đảm bảo tính thời sự, diễn tả
những điểm nóng, những vấn đề nổi cộm nhất trong đời sống.
Cũng theo tác giả Tạ Ngọc Tấn, có các cấp độ thơng tin để xem xét tác
phẩm báo chí như sau:
Trước hết thơng tin mô tả là cấp độ đầu tiên, xuất phát điểm của mọi sự
định hướng trong hoạt động thực tế của cơng chúng. Đó là các sự kiện, hiện
tượng, vấn đề, mối quan hệ các quá trình của hiện thực được mơ tả, tạo thành
trên báo chí bức tranh về đời sống hiện thực. Nói cách khác , đây là thơng tin
có tính hiện tượng về cái gì đang tồn tại.
Cấp độ thứ hai thơng tin phân tích là nó được hình thành trên cơ sở tư
duy về những cái đang có dưới ánh sang lý tưởng xã hội của nhà báo. Những
sự kiện, vấn đề của đời sống hiện thực được mổ xẻ, phân giải bởi nhà báo
nhằm tìm ra các mối quan hệ, các yếu tố ảnh hưởng, phát hiện nguyên nhân
và hệ quả của chúng.


13

Cấp độ thứ ba thơng tin khái qt. Đó là thông tin về bản chất, giá trị
của sự kiện, hiện tượng vấn đề trong đời sống. Đây là kết quả của sự mơ tả
phân tích các sự kiện, vấn đế, quá trình, tìm ra những mối quan hệ bản chất,
xác định các giá trị của chúng đối với công chúng. Ý nghĩa của thông tin
khái quát rất quan trọng bởi vì nó tác động trực tiếp vào chiều sâu nhận thức
của con người, là cơ sở cho việc xác định phương hướng và phương pháp
hành động.
Cấp độ cuối cùng của thơng tin báo chí khi xem xét từ góc độ ngữ
nghĩa là thơng tin hướng dẫn. Đó là thơng tin mang lại cho cơng chúng những
hình dung cụ thể về phương hướng, về phương pháp hành động, về mục đích
và khả năng đạt được dựa trên các điều kiện hiện thực
1.1.2. Pháp luật

Điều 8, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm
2013 xác định: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp
luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ”. [23, tr.4]. Quy định này của Hiến pháp đã xác định vai trị của
pháp luật đối với tồn bộ hoạt động của đời sống xã hội.
Theo Từ điển Tiếng Việt, năm 2000 thì: “Pháp luật là những quy phạm
hành vi do Nhà nước ban hành mà mọi người dân buộc phải tuân theo, nhằm
điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã hội”[36, tr.578]
Với Việt Nam là Nhà nước xã hội chủ nghĩa nên khái niệm pháp luật
phải được hiểu là pháp luật xã hội chủ nghĩa. Theo cuốn Giáo trình lý luận về
Nhà nước và Pháp luật của Khoa Nhà nước và Pháp luật, Phân viện Báo chí
và Tuyên truyền thuộc Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thì: "Pháp
luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự, thể hiện ý chí của giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, do Nhà nước xã


14

hội chủ nghĩa ban hành và bảo đảm thực hiện bằng Nhà nước trên cơ sở giáo
dục và thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện" [23, tr.172].
Với tư cách là các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung, pháp luật
có vai trị đặc biệt quan trọng trong quá trình và phát triển nhân cách của con
người nói chung và đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Vai trị đó được thể
hiện trên những khía cạnh cụ thể như: hình thành tính hướng thiện của đồng
bào dân tộc thiểu số; hình thành ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ công dân của
đồng bào dân tộc thiểu số.
Pháp luật là các quy tắc xử sự do Nhà nước xác lập nhằm điều chỉnh
hành vi của mọi thành viên trong xã hội. Sự điều chỉnh của pháp luật nhằm
chống lại cái ác, bảo vệ cái thiện, hướng con người hành động theo những
mối quan hệ vươn tới cái thiện. Sự hiểu biết và tôn trọng pháp luật sẽ giúp

cho đồng bào dân tộc thiểu số luôn đảm bảo tính hợp pháp trong hành động.
Đồng thời hình thành ở đồng bào dân tộc thiểu số ý thức pháp luật và ý thức
đó xun suốt q trình sống và hoạt động của đồng bào dân tộc thiểu số.
1.1.3. Đồng bào dân tộc thiểu số
1.1.3.1. Dân tộc thiểu số
Dân tộc thiểu số (minorité ethnique) là thuật ngữ có nhiều định nghĩa
khác nhau trên thế giới. Đứng trên phương diện chính trị thì mỗi quốc gia có
định nghĩa khác nhau về thuật ngữ “dân tộc thiểu số”.
Giáo sư Francesco Capotorti (đặc phái viên của Liên hợp quốc) đưa ra
quan niệm về dân tộc thiểu số vào năm 1977 và đã được Hội đồng Liên hợp
quốc thông qua vào năm 1992 với nội dung như sau:
Dân tộc thiểu số là thuật ngữ ám chỉ cho một nhóm người:
- Cư trú trên lãnh thổ của một Quốc gia có chủ quyền mà họ là cơng
dân của Quốc gia này.
- Duy trì mối quan hệ lâu dài với Quốc gia mà họ đang sinh sống.


15

- Thể hiện bản sắc riêng về chủng tộc, văn hóa, tơn giáo và ngơn ngữ
của họ.
- Đủ tư cách đại diện cho nhóm dân tộc của họ, mặc dù số lượng ít hơn
trong Quốc gia này hay tại một khu vực của Quốc gia này.
- Có mối quan tâm đến vấn đề bảo tồn bản sắc chung của họ, bao gồm
các yếu tố văn hóa, phong tục tập quán và ngôn ngữ của họ.
Năm 1995, Liên hiệp Âu châu đưa ra khái niệm về dân tộc thiểu số
trong Công ước của Liên hiệp Âu châu về dân tộc thiểu số: “dân tộc thiểu số
ám chỉ cho một nhóm người từ một Quốc gia khác đến cư trú trên lãnh thổ
của Quốc gia thuộc Liên hiệp Âu châu và có quốc tịch của khối Âu”
Như vậy, nhìn chung các học giả phương Tây quan niệm rằng, đây là

một thuật ngữ chuyên ngành dân tộc học (minorite ethnic) dùng để chỉ những
dân tộc có dân số ít. Trong một số trường hợp, người ta đánh đồng “dân tộc
thiểu số” với “dân tộc lạc hậu”, “dân tộc chậm tiến”, “dân tộc kém phát triển”,
“dân tộc chậm phát triển”. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự chi phối bởi
quan điểm chính trị của giai cấp thống trị trong mỗi quốc gia. Trên thực tế,
khái niệm “dân tộc thiểu số” chỉ có ý nghĩa biểu thị tương quan về dân số
trong một quốc gia đa nhiều dân tộc. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng dân tộc thì
khái niệm “dân tộc thiểu số” không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ
phát triển của các dân tộc. Địa vị, trình độ phát triển của mỗi dân tộc khơng
phụ thuộc vào số dân nhiều hay ít mà nó được chi phối bởi những điều kiện
kinh tế – chính trị – xã hội và lịch sử của mỗi dân tộc.
Vận dụng quan điểm trên vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định quan điểm nhất quán của mình:
Việt Nam là một Quốc gia thống nhất, gồm 54 dân tộc thành viên cùng chung
sống, với khoảng 90 triệu người. Trong tổng số các dân tộc trên thì dân tộc


16

Việt (Kinh) chiếm khoảng 86% dân số, được quan niệm là “dân tộc đa số”, 53
dân tộc còn lại chiếm khoảng 14% dân số, được quan niệm là “dân tộc thiểu
số” trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Khái niệm “dân tộc thiểu số” có
lúc, có nơi, nhất là những năm trước đây còn được gọi là “dân tộc ít người”.
Mặc dù hiện nay đã có quy định thống nhất gọi là “dân tộc thiểu số”, nhưng
cách gọi “dân tộc ít người” vẫn khơng bị hiểu khác đi về nội dung.
Tại Điều 4, Nghị định số 05 năm 2011 của Chính phủ về Cơng tác dân
tộc đã đưa ra khái niệm như sau: “dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số
dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam…

Như vậy, “dân tộc thiểu số” là khái niệm dùng để chỉ những dân tộc có
dân số ít, chiếm tỷ lệ thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong
một quốc gia đa dân tộc.
Khái niệm “dân tộc thiểu số” cũng khơng có ý nghĩa biểu thị tương
quan so sánh giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực và thế giới. Một
dân tộc có thể được quan niệm là “đa số” ở quốc gia này nhưng đồng thời có
thể là thiểu số ở quốc gia khác. Chẳng hạn người Việt (Kinh) được coi là “dân
tộc đa số” ở Việt Nam, nhưng lại được coi là “dân tộc thiểu số” ở Trung
Quốc. Ngược lại, người Hoa (Hán) được coi là “dân tộc đa số” ở Trung Quốc,
nhưng lại là “dân tộc thiểu số” ở Việt Nam. Rõ ràng quan niệm về “dân tộc
thiểu số”, “dân tộc đa số” cũng như nội hàm của chúng hiện nay cịn có vấn
đề chưa thống nhất và nó cũng được vận dụng xem xét rất linh hoạt trong
từng điều kiện cụ thể, tùy theo quan niệm và mối quan hệ so sánh về dân số
của mỗi quốc gia dân tộc.
1.1.3.2. Đồng bào dân tộc thiểu số
Theo Từ điển tiếng Việt thì từ “đồng bào” dùng để chỉ những người
cùng một giống nòi, một dân tộc, một tổ quốc với mình (hàm ý có quan hệ
thân thiết như ruột thịt).


17

Đây là sự xác định rằng, hễ ai thuộc dân tộc Việt Nam đều có chung
một nguồn cội, một tổ tiên, không chỉ riêng người Việt (Kinh) mà cả người
của các dân tộc khác. Chúng ta vẫn thường nói rằng “đồng bào Kinh”, “đồng
bào Dao”, đồng bào Mông”, nhưng điều quan trọng hơn là ý nghĩa thiêng liêng
của hai tiếng “đồng bào”. Nó thể hiện sự yêu thương, đùm bọc, đoàn kết, giúp
đỡ nhau của tất cả các dân tộc sống trên dải đất Việt Nam, từ Nam chí Bắc, từ
đồng bằng đến vùng cao, hải đảo trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và
giữ nước. Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Đồng bào

Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia rai hay Ê đê, Xê đăng hay Ba na và các
dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng
ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói cùng nhau”
Điều 5, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước
Việt Nam. 2. Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. 3. Ngôn ngữ quốc gia là
tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân
tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình. 4.
Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân
tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.”[23, tr.4].
Mặc dù tiếng nói của các dân tộc thuộc nhiều nhóm ngơn ngữ khác
nhau song do các dân tộc sống xen kẽ với nhau nên một dân tộc thường biết
tiếng của dân tộc khác mà được tiếp xúc hàng ngày. Tuy nhiên, dù sống xen
kẽ nhau, có sự giao lưu văn hóa với nhau nhưng các dân tộc vẫn giữ được nét
bản sắc văn hóa đặc trưng, riêng có của dân tộc mình. Trong thực tế hiện nay,
giữa các dân tộc dù có sự khác biệt về trình độ sản xuất nhưng vượt lên trên
đó là sự đồn kết, gắn bó tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Tình
đồn kết gắn bó này khơng ngừng được củng cố qua các cuộc đấu tranh dựng
nước và chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc. Cùng với quá trình hỗ trợ lẫn


18

nhau để cùng tồn tại và phát triển, một cộng đồng chung các dân tộc Việt Nam
đã được hình thành, không ngừng được củng cố và phát triển. Trên cơ sở
những quan niệm về đồng bào dân tộc thiểu số nêu trên có thể hiểu:
Đồng bào dân tộc thiểu số là khái niệm nhằm để chỉ các dân tộc có số
dân ít trong tương quan so sánh về số lượng dân số với các dân tộc khác trên
lãnh thổ Việt Nam nhưng có chung nguồn cội, có sự đồn kết gắn bó chặt chẽ

và là một bộ phận khơng thể tách rời của dân tộc Việt Nam.
1.1.4. Phát thanh
Có nhiều khái niệm về phát thanh khác nhau, nhưng thông thường nhất
người ta dựa vào phương thức truyền thông tin và đặc điểm của loại hình để
đưa ra khái niệm về phát thanh. Theo cuốn Báo phát thanh do PGS.TS Nguyễn
Văn Dững chủ biên năm 2002: “Báo phát thanh được hiểu như một kênh
truyền thơng, một loại hình báo chí điện tử hiện đại mà đặc trưng cơ bản của nó
là dùng thế giới âm thanh phong phú sinh động (lời nói, tiếng động, âm nhạc)
để chuyển tải thơng điệp nhờ sử dụng kĩ thuật sóng điện từ và hệ thống truyền
thanh, tác động vào thính giác (vào tai) của cơng chúng”. [8, tr.25].
Phát thanh có 2 loại hình: Phát thanh qua làn sóng điện và Phát thanh
truyền qua hệ thống dây dẫn. Trong đó loại hình thứ nhất là căn bản và là yếu
tố quan trong nhất tạo nên sức mạnh to lớn của phát thanh. Về mặt kỹ thuật
công nghệ của phát thanh chúng ta cũng cần phải đề cập tới. Trong kỹ thuật
phát thanh bao gồm hai loại là AM và FM
- AM (Amplitute Modutation) là kỹ thuật điều biên được áp dụng trong
sóng dài, sóng trung và sóng ngắn.
- FM (Frequency Modutation) là kỹ thuật điều tần được áp dụng trong
phát thanh cực ngắn.
Về hình thức, Phát thanh được chuyển tải theo 2 hình thức là gián tiếp
và trực tiếp.


19

- Phát thanh gián tiếp: Là chương trình được thực hiện và thu in vào
băng hoàn chỉnh rồi mới phát lên sóng để chuyển đến thính giả, trong đó các
biên tập viên chủ yếu là thông tin lại, kể lại những tin tức sự kiện đã diễn ra,
trao đổi, bình luận, phân tích các sự kiện đó. Thính giả nếu muốn có tham gia
thì chỉ có thể bằng cách gửi thư từ, điện thoại đến sau.

- Phát thanh trực tiếp: Là chương trình phát thanh được thực hiện và phát
sóng đồng thời, thơng tin được đưa đến thính giả cùng lúc với các sự kiện đang
diễn ra, trong đó thính giả có thể đối thoại, giao lưu trực tiếp với biên tập viên
thực hiện chương trình và khách mời về nội dung của chương trình.
Nói đến phát thanh là nói tới khả năng chuyển tải thông tin một cách
nhanh nhạy và rộng khắp. Chính nhờ sử dụng lời nói, tiếng động và âm nhạc
tác động vào tai người nghe nên báo phát thanh có khả năng phủ sóng rộng
khắp, thơng điệp của nó có thể len lỏi vào mọi tầng lớp dân cư khắp mọi nơi,
đặc biệt với các vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó báo phát thanh có khả năng
chuyển tải thơng tin tức thì và tỏa khắp. Tức là ngay lập tức, thơng điệp có thể
tác động đến hàng triệu người trên khắp hành tinh, vượt qua mọi biên giới
quốc gia… đó chính là ưu thế, là thế mạnh của loại hình báo phát thanh.
Những đặc điểm chính của báo phát thanh: Thơng tin nhanh; Tỏa sóng
rộng; Sử dụng âm thanh tổng hợp; Tiếp nhận thời gian theo tuyến tính; Sống
động, riêng tư, thân mật. Do phát thanh sử dụng kĩ thuật sóng điện từ và hệ
thống truyền thanh nên không chỉ giúp thông tin được truyền đi nhanh chóng
mà cịn có thể lan tỏa trên diện rộng. Sóng của phát thanh lan truyền theo hình
sin (truyền hình truyền sóng theo hình thẳng) cho phép phát thanh đến được
với cả những địa hình phức tạp, những vùng xa xôi hẻo lánh mà các phương
tiện thông tin đại chúng khác khó vươn tới.
"Phát triển trong mơi trường truyền thông số, phát thanh hiện đại đã và
đang thể hiện năng lực thích nghi, biến đối và có thể đang dần dần làm nhòa


20

đi những đặc điểm của phát thanh truyền thống. Hiện nay thuật ngữ phát
thanh hiện đại chủ yếu được dùng để chỉ phương thức sản xuất chương trình
với sự hỗ trợ của kỹ thuật và công nghệ số nhằm hướng tới thỏa mãn nhu cầu
tiếp nhận thông tin phát thanh của cơng chúng hiện đại. Theo đó, mơ hình tổ

chức, phương thức tổ chức hoạt động, sản phẩm truyền thông của các cơ quan
phát thanh, tích hợp đa kỹ năng của người làm phát thanh... cũng đang thay
đổi nhanh chóng." [11, tr.112]. Đây chính là những lợi thế, tính ưu việt mà
phát thanh đang triệt để ứng dụng để tạo ra hiệu quả thông tin tại các vùng
đồng bào dân tộc thiểu số.
1.1.5. Truyền hình.
So với phát thanh và báo in thì truyền hình ra đời muộn hơn, nhưng
tốc độ phát triển và sức hấp dẫn của nó hơn hẳn các loại hình báo chí khác.
Đây là một loại hình phương tiện truyền thông đại chúng chuyển tải thông
tin bằng hình ảnh động và âm thanh. Trong đó, yếu tố hình ảnh được nhấn
mạnh và là thành phần chủ đạo, mang tính đặc thù có tính chất quyết định
đối với truyền hình.
Ngay sau khi ra đời, truyền hình đã thừa hưởng thành quả của điện ảnh,
phát thanh, báo in... Nếu như phát thanh dựa vào âm thanh để đến với cơng
chúng thính giả thì ở truyền hình trước hết là ở hình ảnh. Hình ảnh là yếu tố
khách quan, chứa đựng sự sinh động của một cuộc sống thực, không bị dàn
dựng. Chính hình ảnh là yếu tố đầu tiên và yếu tố đem lại chất lượng thông tin
cao cho truyền hình. Bên cạnh những yếu tố hình ảnh cịn có vai trị khơng thể
thiếu được của âm thanh mà chủ yếu là lời nói. Hình ảnh và âm thanh trong
tác phẩm báo chí truyền hình quan hệ với nhau một cách hữu cơ, gắn bó.
Chúng tạo tiền đề cho nhau, bổ sung và nâng đỡ nhau, hòa quện với nhau
trong một tổng thể.
Hiện nay có nhiều khái niệm, quan niệm về truyền hình. Theo Giáo
trình báo chí truyền hình của PGS.TS. Dương Xuân Sơn: “Truyền hình là


21

một loại hình truyền thơng đại chúng chuyển tải thơng tin bằng hình ảnh và
âm thanh về một vật thể hoặc một cảnh đi xa bằng sóng vơ tuyến điện”.

[39, tr.27].
Thuật ngữ truyền hình (Television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và
tiếng Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có nghĩa là ở xa cịn “videre” là
“thấy được”, cịn tiếng Latinh nghĩa là xem được từ xa. Ghép hai từ đó lại
thành “Televidere” có nghĩa là xem được ở xa. Tiếng Anh là “Television”,
tiếng Pháp là “Télévision”, tiếng Nga gọi là “Tелевидение”. Như vậy, dù có
phát triển bất cứ ở đâu, ở quốc gia nào thì tên gọi truyền hình cũng có chung
một nghĩa là nhìn được từ xa.
PGS.TS Tạ Ngọc Tấn trong cuốn Truyền thông đại chúng nêu: “Truyền
hình là một loại hình phương tiện truyền thơng đại chúng chuyển tải thơng tin
bằng hình ảnh động và âm thanh. Ngun nghĩa của thuật ngữ vơ tuyến
truyền hình (television) bắt đầu từ hai từ tele có nghĩa là “ở xa” và vision là
“thấy được”, tức là “thấy được ở xa”. [41, tr.57].
Như vậy, nguyên nghĩa gốc của từ truyền hình đều chung nghĩa là thấy
được ở xa.
Sự ra đời của truyền hình đã góp phần làm cho hệ thống truyền thông
đại chúng càng thêm hùng mạnh, không chỉ tăng về số lượng mà cịn tăng về
chất lượng. Cơng chúng của truyền hình ngày càng đơng đảo trên khắp hành
tinh. Với những ưu thế về kỹ thuật và công nghệ truyền hình đã làm cho cuộc
sống như được cơ đọng lại làm giàu thêm ý nghĩa, sáng tỏ hơn về hình thức
và phong phú hơn về nội dung.
Xét theo góc độ kỹ thuật có truyền hình Analog và truyền hình số
Truyền hình Analog: được truyền tín hiệu qua dây cáp hoặc anten
Truyền hình số: "là việc truyền dẫn âm thanh và hình ảnh được phát
bằng những tín hiệu đã được mã hóa. Truyền hình số là một cơng nghệ tiên


22

tiến có thể cung cấp số lượng kênh truyền hình lớn hơn, với chất lượng cao

hơn và nội dung chuyên biệt hơn rất nhiều. Rất nhiều quốc gia trên thế giới đã
thay thế truyền hình Analog thơng thường với truyền hình số. Đây được coi là
xu hướng phát triển tất yếu của truyền hình trên tồn thế giới. Việt Nam cũng
đang khẩn trương thực hiện và đặt mục tiêu sẽ hồn thành số hóa truyền hình
trong giai đoạn 2015 - 2020".[45, tr.23]
Thế mạnh của truyền hình là khả năng tích hợp trong nó hầu hết các
loại thơng tin từ báo in, phát thanh, điện ảnh.. Sự kết hợp hài hoà giữa hình
ảnh và âm thanh, tạo ra cho nó khả năng truyền tải thơng tin vơ cùng phong
phú, có sức hấp dẫn đặc biệt nhờ việc tạo sự giao tiếp với con người bằng cả
thị giác và thính giác. Nói về điều này PGS.TS Tạ Ngọc Tấn viết: "Thông tin
truyền hình tái hiện cuộc sống hiện thực trong trạng thái sống. Nghĩa là truyền
hình có thể là một phạm vi, một bộ phận nguyên dạng của những gì đang diễn
ra ngồi đời nhưng nó được cho là rõ hơn, đẹp hơn.. Người xem truyền hình
có cảm giác như họ có mặt, trực tiếp chứng kiến hay đang tham gia vào
những sự kiện thực tế đó" ”.[42, tr.57]
Tuy nhiên, truyền hình vẫn có những hạn chế nhất định, đó là tín hiệu
hình ảnh động và âm thanh được truyền theo tuyến tính, người tiếp nhận
thơng tin hầu như tập trung tồn bộ các giác quan vào những gì diễn ra trên
màn hình, làm hạn chế khả năng tiếp nhận thơng tin truyền hình với các hoạt
động khác của con người. Mặt khác về mặt thiết bị cũng địi hỏi cơng chúng
phải có sự đầu tư tương đối lớn mới có thể tiếp cận được với truyền hình.
1.1.6. Đặc điểm của đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn
tỉnh Hà Giang.
Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới ở cực Bắc của Tổ quốc, có vị
trí chiến lược đặc biệt quan trọng. Phía Bắc và Tây có đường biên giới giáp
với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa dài trên 277 km; phía Đơng giáp


23


tỉnh Cao Bằng; phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang; phía Tây và Tây Nam giáp
tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Tỉnh Hà Giang cách thủ đô Hà Nội 320 km về phía
Bắc theo quốc lộ 2. Tỉnh Hà Giang có diện tích tự nhiên là 7.945,8 km 2 và
nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nên khí hậu về cơ bản mang những đặc điểm
của vùng núi Việt Bắc – Hồng Liên Sơn, song cũng có những đặc điểm riêng,
mát và lạnh hơn các tỉnh miền Đông Bắc, nhưng ấm hơn các tỉnh miền Tây
Bắc. Hà Giang duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, bình quân giai đoạn
2011 - 2015 đạt 8,8%, thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 17,64 triệu
đồng, tăng 8,86 triệu đồng so với năm 2010. Dân số tồn tỉnh có trên 694.000
người, với 19 dân tộc cùng sinh sống tạo nên một sự đa dạng về bản sắc văn
hố. Trong đó dân tộc Mông chiếm 30,6%, Tày chiếm 24,9%, Dao chiếm
15,2%, dân tộc Kinh chiếm 12% và các dân tộc khác.
- Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang có truyền thống đoàn
kết lâu đời với dân tộc Kinh trong đấu tranh chinh phục thiên nhiên và
đấu tranh chống giặc ngoại xâm; đã đang và sẽ tích cực tham gia xây
dựng quê hương.
Tỉnh Hà Giang có 19 dân tộc cùng sinh sống tạo nên một sự đa dạng về
bản sắc văn hố. Trong đó dân tộc Mơng chiếm 30,6%, Tày chiếm 24,9%,
Dao chiếm 15,2%, dân tộc Kinh chiếm 12% và các dân tộc khác. Đồng bào
dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang luôn tự hào và nêu cao tinh thần, truyền thống
đoàn kết trong đấu tranh chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm.
Trải qua bao thế kỷ, đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang đã cùng người
Kinh khai phá và phát triển mảnh đất địa đầu của Tổ quốc. Luôn tương trợ,
giúp đỡ nhau, chia sẻ những thuận lợi cũng như khó khăn của vùng Đơng Bắc
khắc nghiệt. Trong lịch sử cận đại, đã có nhiều cuộc nổi dậy của đồng bào dân
tộc thiểu số tỉnh Hà Giang chống lại nhà nước phong kiến và chính quyền
thực dân. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm


24


lược, đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang đã tự nguyện đi theo cách
mạng do Đảng lãnh đạo, chiến đấu qn mình để góp phần vào chiến thắng
lịch sử 30/4/1975. Truyền thống đó tiếp tục được thể hiện trong cuộc chiến
đấu bảo vệ biên giới phía Bắc 17/2/1979. Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu
số tỉnh Hà Giang đã trở thành nơi nuôi giấu cán bộ, vùng căn cứ cách mạng
vững chắc, nhiều cán bộ, đảng viên và đồng bào dân tộc thiểu số đã anh dũng
hi sinh cho sự nghiệp cách mạng. Phát huy truyền thống anh hùng, ngày nay
đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang đang ra sức phấn đấu trong lao động
sản xuất, phát triển kinh tế xã hội, cùng giúp đỡ nhau trong cơng cuộc xóa đói
giảm nghèo, cùng nhau tiến bộ. Hiện nay, Đảng bộ tỉnh Hà Giang có trên
61.000 đảng viên, trong đó có gần 40.000 đảng viên là người dân tộc thiểu số.
Đây là lực lượng tiêu biểu trong việc tập hợp, quy tụ đồng bào các dân tộc
thiểu số tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ quê hương.
- Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang từ lâu sống xen kẽ và hòa
nhập với đồng bào Kinh, nhưng do yếu tố lịch sử, đến nay đại bộ phận vẫn
cư trú vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Trong các cuộc kháng chiến, nơi này thường là căn cứ, là cái nôi của
cách mạng. Cán bộ, chiến sỹ cách mạng được đồng bào dân tộc thiểu số đùm
bọc, ni dưỡng, bảo vệ, đồng bào ln gắn bó với Đảng với cách mạng, góp
sức người, sức của giải phóng q hương. Đồng bào cảm ơn Đảng vì đã đem
lại độc lập, tự do, hịa bình, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Đây là cơ sở để
Đảng xây dựng khối đoàn kết các dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới, làm thất bại âm mưu chia rẽ dân tộc trong chiến lược "diễn biến hịa
bình" của các thế lực thù địch.
Tuy nhiên, địa bàn đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu là những
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, giao thơng
đi lại khó khăn cùng với đó là kết cấu hạ tầng kém, trình độ dân trí thấp, trình



25

độ sản xuất, canh tác lạc hậu, tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, văn hóa xã hội
chậm phát triển nên đời sống đồng bào dân tộc thiểu số nói chung cịn gặp
nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, trong một bộ phận dân cư, thậm chí là trong cả
đội ngũ cán bộ, đảng viên người dân tộc thiểu số ở cơ sở còn khá nặng nề tư
tưởng an phận, bằng lịng với những gì đã có, thiếu ý thức vươn lên. Điều này
gây cản trở không nhỏ đến việc thực hiện các chương trình, chính sách của
Đảng, Nhà nước và của tỉnh, nhất là trong thực hiện xóa đói giảm nghèo.
- Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Hà Giang có trình độ học vấn thấp.
Theo Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần
thứ XVI, nhiệm kỳ 2015 - 2020 thì trình độ học vấn của đồng bào dân tộc
thiểu số như sau: Trình độ Tiểu học chiếm 40,3%, Trung học cơ sở chiếm
34%, Trung học phổ thơng trở lên chiếm 25,7%.
- Tình hình tơn giáo, tín ngưỡng của đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh
Hà Giang còn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định an
ninh trật tự trên địa bàn.
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Hà Giang chỉ có 2 loại hình tơn giáo đang
hoạt động là đạo Công giáo và Tin lành. Số lượng đồng bào dân tộc thiểu số
theo đạo này chiếm chưa tới 10% dân số tồn tỉnh. Tuy nhiên do trình độ dân
trí của đồng bào theo đạo thấp nên nhiều người còn chưa hiểu hết giáo lý,
giáo luật, lễ nghi cơ bản của đạo mình theo nên việc hành đạo chủ yếu tự
phát, đức tin chưa sâu sắc. Phần đông đồng bào khơng xác định được mục
đích theo đạo và nội dung sinh hoạt đạo chủ yếu phụ thuộc vào số trưởng
điểm nhóm. Các đối tượng cầm đầu hệ phái, tổ chức tơn giáo trong và ngồi
nước gia tăng các hoạt động, âm mưu thực hiện ý đồ "tơn giáo hóa vùng dân
tộc thiểu số", tranh giành tín đồ nhằm mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Cấp ủy,
chính quyền tỉnh Hà Giang đã sớm nhận biết được vấn đề này nên đã chỉ đạo
các lực lượng chức năng đấu tranh, triệt phá việc xâm nhập của các loại tà đạo
vào địa bàn nhằm giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.



×