Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

NHẬP MÔN KHI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.43 MB, 193 trang )

1
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
DNG CHO HV CAO HỌC KHƠNG THUỘC CN TRIẾT HỌC
(BI SOẠN CHO HỌC VIN CAO HỌC KHƠNG CHUYN NGNH TRIẾT)


Đinh Ngọc Thạch, Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG-HCM
(Tài liệu tham khảo lưu hành nội bộ)

NHẬP MÔN
KHI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC





2
I. KHI LUẬN TRIẾT HỌC
1. Triết học và đối tượng của triết học
Tư tưởng triết học ra đời từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VII Tr. CN tại
Trung Quốc, Ấn Độ và sau đó là Hy Lạp cổ đại. Thuật ngữ “Triết học”*
xuất phát từ tiếng Hy Lạp philosophia (với sự kết hợp phileo) – yêu thích,
và sophia – thông thái, có nghĩa là “yêu thích sự thông thái”, “yu mến sự
thơng thi”, “khát vọng vươn đến sự thông thái”.
Theo nghĩa rộng thuật ngữ “triết học” thể hiện: - khát vọng vươn đến
tri thức, sự hiểu biết, thông thái, - “thế tục hóa” sự thông thái thần linh. Khi
tự xem mình là “người yêu thích sự thông thái “(philosophos) Pythagoras
(nửa sau thế kỷ thứ VI - đầu thế kỷ V Tr.CN) đã nhấn mạnh ý nghĩa của
triết học là khát vọng vươn tới tri thức, tìm kiếm chân ly
1
. Platon (427 – 347


tr.CN) và Aristoteles (384 – 322 tr. CN) là những người đã phân biệt tri thức
triết học với các lĩnh vực khác của nhận thức, xác định nhiệm vụ của triết
học là nhận thức các chân lý vĩnh cửu và tuyệt đối (Platon), hay vươn tới cái
phổ quát (universaly) trong thế giới, suy ra, đối tượng của triết học là cơ sở
ban đầu và nguyên nhân của tồn tại. Như vậy triết học ở thời kỳ đầu tiên
được xem như tri thức lý luận phổ quát duy nhất, bao trùm là “ khoa học của
các khoa học”.
Từ thế kỷ XV trở đi quá trình chuyên biệt hóa tri thức đưa đến sự ra
đời các ngành khoa học cụ thể, với hệ thống lý luận chuyên biệt của
mình.Quan niệm truyền thống xem triết học là “khoa học của các khoa học”
trên thực tế đã không thể hiện được bức tranh chung và lôgíc nội tại của sự
phát triển tri thức. Định nghĩa triết học, do lệ thuộc vào các yếu tố khác nhau
như đặc thù của từng khu vực (phương Đông, phương Tây), sự mở rộng
không ngừng các lĩnh vực nghiên cứu, những biến đổi chính trị – xã hội,
cách tiếp cận chủ quan của từng nhà triết học… nên cũng không đạt được sự
nhất trí hoàn toàn. Mặc dù vậy vẫn có thể chú ý đến các điểm chung nhất
trong đối tượng nghiên cứu của triết học với tính cách là hình thái đặc thù
của ý thức xã hội và dạng nhận thức tổng quát như sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tồn tại, hay khía cạnh
bản thể luận * của triết học.
+ Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của nhận thức, hay khía
cạnh nhận thức luận * của triết học.
+ Nghiên cứu những vấn đề chung nhất của sự vận động và phát
triển xã hội, hay triết học xã hội.

1
Nhiều nh nghin cứu cho rằng Hraclít (Heraklitos) mới là người đầu tiên
sử dụng thuật ngữ” philosophos”, sau đó hình thnh thuật ngữ “philosophia”.

3

+ Nghiên cứu những vấn đề chung nhất và cơ bản nhất của con
người, do con người tạo ra trong quá trình sáng tạo lịch sử, hay nhân học
triết học* , triết học về con người.
Tóm lại, triết học là học thuyết về những vấn đề và những nguyên lý
chung nhất của giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người, mối quan hệ giữa
con người với con người và với thế giới chung quanh, vị trí của con người
trong thế giới
Một cách cô đọng, có thể hình dung các bộ phận của triết học là học
thuyết về tồn tại (hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này), học thuyết về nhận
thức, học thuyết về giá trị, thông qua đó làm sáng tỏ yếu tố nhận thức và
yếu tố đánh giá trong mọi hệ thống triết học. Là sản phẩm tất yếu của sự
phát triển và hoàn thiện của xã hội, triết học còn được xem như thành tố
không tách rời của văn hóa tinh thần, tinh hoa tinh thần của mỗi thời đại và
mỗi dân tộc trên những chặng đường nhất định.
Triết học luôn được trình bày dưới dạng lý luận, trong đó thể hiện hệ
thống các nguyên lý, các phạm trù, các quy luật, các phương pháp nghiên
cứu; chúng mang tính chất chung nhất, được phổ biến vào tự nhiên, xã hội,
con người (tư duy về tư duy) – đó là đặc trưng của lý luận triết học. Nói cách
khác, triết học xem xét thế giới như nội dung chỉnh thể và xác lập quan niệm
có tính hệ thống về chỉnh thể đó.
C.Mc xem mọi triết học chân chính như tinh hoa về mặt tinh thần của
thời đại mình, l linh hồn sống của văn hóa
2
. Nhận định ấy là một chỉ dẫn
quan trọng đối với việc tìm hiểu, đánh giá các học thuyết triết học trong quá
khứ, với sự kết hợp tinh tế cách tiếp cận tri thức – thế giới quan và cách tiếp
cận giá trị - văn hóa.

2. Triết học và thế giới quan
Mọi triết học đều là thế giới quan, tức hệ thống các quan điểm về thế

giới khách quan, về vị trí con người trong thế giới, về quan hệ của con
người với thế giới xung quanh và với chính mình, kể cả thái độ sống của con
người, chính kiến, lý tưởng, nguyên tắc nhận thức và hoạt động, định hướng
giá trị, chịu sự chế định của những quan niệm ấy. Khái niệm “thế giới quan”
rộng hơn khái niệm “triết học”, nghĩa là triết học cũng là một dạng thế giới
quan, có thể so sánh với các thế giới quan khác như thế giới quan thần thoại,
thế giới quan nghệ thuật, thế giới quan tôn giáo…
Thế giới quan là kết quả phản ánh thế giới. Nó có thể diễn ra ở cấp độ
đời thường, chịu tác động trực tiếp của điều kiện sống và kinh nghiệm của

2
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.1; Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.
157
4
con người, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cấp độ này của thế
giới tồn tại dưới hình thức các quan niệm tự phát, thiếu hệ thống về thế giới.
Sự phản ánh thông quan các khái niệm, vạch ra được tính quy luật, bản chất
của các sự vật, hiện tượng, quá trình, là sự phản ánh ở cấp độ cao, gắn với tư
duy trừu tượng và tri thức lý luận. Triết học thuộc về cấp độ này của thế giới
quan. Thế giới quan triết học thể hiện dưới hình thức khái niệm, phạm trù,
dựa vào các thành tựu của khoa học chuyên biệt, cụ thể về tự nhiên, xã hội
và con người như chất liệu sống cho những luận giải mang tính khái quát lý
luận cao của mình.
Ở phương diện lịch sử thế giới quan triết học xuất hiện muộn hơn thần
thoại và tôn giáo. Theo các dữ liệu khoa học hiện đại tôn giáo xuất hiện vào
khoảng hơn năm mươi ngàn năm trước đây, vào thời kỳ chớm bắt đầu tan rã
của công xã nguyên thủy, còn thần thoại thì ngay từ buổi bình minh của lịch
sử loài người đã trở thành hình thái ý thức chủ đạo, là thế giới quan của
người nguyên thủy. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang
tưởng, của con người với thế giới xung quanh. Người nguyên thủy bị vây

bọc trong quyền lực của xúc cảm và của trí tưởng tượng; những quan niệm
của họ về sự vật còn mơ hồ, rời rạc, phi lôgíc. Các yếu tố tư tưởng và tính
cảm, tri thức và nghệ thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan,
hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên chưa bị phân đôi. Triết học ra
đời chính là sự vượt qua tư duy dưới hình thức hình tượng cảm tính và tự
phát bằng tư duy lý luận, hay tư duy dưới hình thức các khái niệm, xác lập
bức tranh về thế giới một cách có hệ thống. Triết học là trình độ tự giác
trong quá trình phát triển của thế giới quan.
Tóm lại, triết học là cấp độ cao nhất của thế giới quan, là hệ thống
các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong
thế giới. Theo nghĩa đó triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan; nó có
chức năng tìm hiểu và vạch ra ý nghĩa hợp lý và các quy luật phổ biến của
sự tồn tại và phát triển của thế giới và con người.

II VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
1. Thế nào là vấn đề cơ bản của triết học?
Với tính cách là tri thức lý luận có hệ thống luôn được làm giàu thêm
qua mỗi chặng đường phát triển của lịch sử, triết học đứng trước hàng loạt
các vấn đề cần giải đáp, trong đó có vấn đề vừa nêu trên: triết học là gì? Các
nhà triết học căn cứ vào việc giải quyết vấn đề đó mà hình thành quan điểm
của mình, xác nhận những nội dung cụ thể và sử dụng những phạm trù thích
hợp để làm sáng tỏ điều cần quan tâm. Mỗi học thuyết triết học thường đặt
ra một vấn đề chính xuyên suốt, thông qua đó bày tỏ quan điểm chủ đạo của
mình. Các vấn đề khác đều xoay quanh cái trục chính đó. Thời đại lịch sử
5
cũng vậy: những đổi thay của xã hội, sự mở rộng không ngừng chân trời
nhận thức của con người, sự phát triển ngày càng phong phú các lĩnh vực tri
thức đưa đến sự điều chỉnh các vấn đề triết học. Cái hôm qua đóng vai trò
chủ đạo ,hôm nay có thể biến thành thứ yếu,, nhược lại cái cá biệt, do sự vận
động tiếp theo của lịch sử, có thể trở thành cái phổ biến. Tuy nhiên bên cạnh

đó vẫn còn vấn đề chung, quy định bản chất của tư duy triết học, đó là vấn
đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại, hay “ tâm” và “vật”, ý thức và vật chất.
Đó là vấn đề cơ bản lớn của triết học, bởi lẽ việc giải quyết nó là cơ sở và
điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác, đồng thời cho phép xác định
tính khuynh hướng thế giới quan của các học thuyết triết học, mà tính
khuynh hướng đó, xét đến cùng, tập trung ở chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm, cùng các biến thái của chúng.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
1. Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước (mang tính thứ nhất), cái
nào có sau (tính thứ hai, phi sinh) và cái nào là quyết định?
2. Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không, va nhận
thức như thế nào?
2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đưa đến sự
hình thành hai khuynh hướng lớn trong lịch sử triết học là chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm. Các nhà duy vật giải thích mọi thứ từ vật chất, xem
vật chất là cái có trước (ci mang tính thứ nhất), xuất phát và quyết định ý
thức. Ngược lại, các nhà duy tâm giải thích mọi thứ trên cơ sở một bản
nguyên tinh thần nào đó, xem tinh thần là cái có trước và quyết định trong
quan hệ với thế giới vật chất. Sự phân cực thế giới quan như vậy được thực
hiện ngay từ thời cổ đại, và xuyên suốt quá trình phát triển của triết học, tạo
nên xung lực của sự phát triển tư tưởng triết học.
Chủ nghĩa duy tâm đối lập với chủ nghĩa duy vật ở khía cạnh thế giới
quan, nhưng cũng là sản phẩm tất yếu của lịch sử, gắn liền với những vấn đề
bản thể luận, nhận thức luận và giá trị - văn hóa. Chủ nghĩa duy tâm trong
nhiều trường hợp thể hiện sự ngạc nhiên thú vị trước cái “siêu phàm”, cái
“thần tính” của con người, để phân biệt với cái “không thuộc về thần linh”,
không “siêu phàm”, tức thế giới không-phải-con-người. Vì thế m nhn đọc
Socrates, Plato, Hegel, V.I.Lênin nhấn mạnh:”Chủ nghĩa duy tâm thông
minh gần với chủ nghĩa duy vật thơng minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu

xuẩn”
3


3
V.I.Lnin: Ttồn tập, t.29, Nxb Chính trị Quốc gia, H Nội, 2006, tr. 293.

6
+ Trong quá trình phát sinh và phát triển của mình chủ nghĩa duy
vật trải qua các hình thức cơ bản sau:
1) Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ (CNDV tự phát, xét theo
cơ sở, qu trình hình thnh lẫn trình độ của nó) tại các nước phương Đông(Ấn
Độ, Trung Quốc…) và Hy Lạp, La Mã cổ đại là hình thức đầu tiên của chủ
nghĩa duy vật. Các nhà triết học bước đầu vượt qua thế giới quan huyền
thoại, màthần thoại là hạt nhân của nó, giải thích nguyên nhân thế giới từ
chính các yếu tố vật chất của thế giới, trong đó có các yếu tố cụ thể (đất,
nước, lủa, khí…), hoặc giả định (apeiron, homeomoiria…), xem xét sự hình
thành của các sự vật một cách tự thân.
Trong sự phát triển của CNDV cổ đại nguyên tử luận, do Leucippos
sng lập, Demokritos kế thừa, phát triển, chiếm vị trí đặc biệt, trở thành diển
hình của tư tưởng duy vật cổ đại. Các nhà nguyên tử luận đ xc lập bức tranh
độc đáo về thế giới, theo đó thế giới được hình thnh từ những phần tử b nhất,
khơng phn chia (nguyn tử), những nguyn tử vận động theo vịng xốy lốc
trong khoảng khơng (hư không) tạo nên các sự vật. Tính đa dạng, phong phú
của thế giới vật chất được giải thích bởi tính đa dạng của các nguyên tử, vốn
khác nhau về hình dng, kích thước, trật tự, vị trí. Theo họ, các sự vật, hiện
tượng diễn ra trong thế giới theo tính tất yếu tự nhiên, không chiu sự chi
phối của bất kỳ lực lượng siêu nhiên nào. Vận dụng nguyên tử luận vào đời
sống con người và x hội, cc nh nguyn tử luận cho rằng linh hồn chỉ l một
dạng nguyn tử; sự sống v ci chết chẳng qua l sự sống v ci chết chẳng qua chỉ

l sự hợp nhất hay phn r cc nguyn tử, do đó quan niệm về sự bất tử của linh
hồn là thiếu cơ sở. Các nhà nguyên tử luận ủng hộ nền dân chủ chủ nô, nhấn
mạnh tính ưu việt của nó so với các chế độ chính trị khác. Cách đặt vấn đề
về nguyên tử (atomos) như cái bé nhất, không phân chia có ý nghĩa khoa học
tích cực, kích thích sự tìm tịi, khm ph về “ci b hơn” trong lịch sử khoa học.
Tuy nhiên, cũng như các nhà triết học cổ đại khác, các nhà nguyên tử luận
giải thích các vấn đề về thế giới vẫn giản đơn và ấu trĩ, chẳng hạn họ không
thừa nhận cái ngẫu nhiên trong thế giới, đồng nhất nguyên nhân với tất yếu,
đồng nhất linh hồn (ý thức) với một dạng vật chất.
Tính chất ấu trĩ của chủ nghĩa duy vật cổ đại gắn với trình độ nhận
thức chung của loài người thời kỳ này. Phần lớn nhận định của chủ nghĩa
duy vật căn cứ vào sự quan sát trực tiếp hay suy tưởng của các triết gia, mà
chư a được luận chứng bằng chất liệu sống của tri thức khoa học, vốn còn ở
tình trạng tản mạn, sơ khai. Bên cạnh đó do chịu sự quy định của điều kiện
xã hội, văn hóa hiện tồn, nhiều nhà duy vật chưa chấm dứt hẳn sự ràng buộc
của thế giới quan nguyên thủy (vật hoạt luận, vật linh thuyết, nhân hình
hóa…) và các yếu tố huyền học (occultism).
7
2) Chủ nghĩa duy vật máy móc - siêu hình ở châu Âu Phục hưng
và cận đại ( thế kỷ XVII -nửa đầu thế kỷ XIX) là hình thức lịch sử thứ hai
của chủ nghĩa duy vật. Nó bắt đầu từ tư tưởng duy vật trong việc xác lập bức
tranh vật lý về thế giới ở cc nh khoa học Phục hưng (Copernic, Bruno,
Galilei ) đến các nhà duy vật thế kỷ XVII tại Anh, Pháp, Hà Lan, Italia và
kết thúc ở chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach tại Đức, trước khi được
thay thế bằng hình thức tiếp theo. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này phát triển
trong mối liên hệ với khoa học tự nhiên. Nhờ biết dựa vào các thành tựu
khoa học các nhà duy vật đã xác lập được các bức tranh mới về thế giới,
bước đầu đưa ra những nhận định hợp lý về tự nhiên, các quy luật của nó,
phát triển tinh thần hoài nghi và phê phán đối với chủ nghĩa giáo điều và giả
khoa học, tham gia vào quá trình thiết lập “nhà nước học lý tính”, đề cao

hình ảnh” con người lý trí” và các giá trị nhân văn chủ đạo. Bên cạnh đó sự
phổ biến mạnh mẽ của cơ học, là ngành khoa học chiếm vị trí thống trị vào
thế kỷ XVII – XVIII, đã ảnh hưởng đến cách thức tư duy của đa phần các
nhà duy vật. Dưới tác động của cơ học, các nhà triết học ( nhất là các nhà
triết học thế kỷ XVII ) quy các quá trình của tự nhiên vào dạng vận động cổ
điển là vận động cơ học, xem con người và các thiết chế xã hội như hệ thống
máy móc phức tạp (công thức: “con người - cỗ máy”). Tính chất máy móc
tất yếu gắn với tính chất siêu hình: trong khi nỗ lực đào sâu từng mặt, từng
thuộc tính của sự vật , khám phá bản chất sâu kín của vạn vật (siêu hình),
các nhà triết học duy vật xem xét chúng trong trạng thái tách biệt, chưa vạch
ra mọt cách thấu đáo mối liên hệ, tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng
cũng như không đưa ra lời giải đáp hợp lý về nguồn gốc và động lực của vận
động và phát triển.
3) Chủ nghĩa duy vật biện chứng, ra đời vào những năm 40 của thế
kỷ XIX, đã khắc phục tính chất phiến diện của chủ nghĩa duy vật lẫn php
biện chứng thời trước, tạo nên sự thống nhất hữu cơ chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng, sự thống nhất về thế giới quan và phương pháp luận.
Những yếu tố biện chứng đ hiện diện trong chủ nghĩa duy vật chất
phc, v kể cả chủ nghĩa duy vật my mĩc – siu hình, nhưng diện mạo thực sự
của nó chỉ được biết đến vào những năm 40 của thế kỷ XIX tại một số nước
Tây Âu dưới tác động của những biến đổi mang tính bước ngoặt trong đời
sống x hội, trong nhận thức khoa học.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn liền trước hết với tên tuổi của C.
Mc (K. Marx) và Ph.Ănghen (F. Engels), là hình thức hiên đại của chủ
nghĩa duy vật, đánh dấu bước chuyển từ tư duy” cổ điển” truyền thống, bắt
đầu từ thời cổ đại sang phương pháp tiếp cận mới đối với các vấn đề tự
nhiên, xã hội và con người. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng
8
đánh dấu bước ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học, làm
tăng thêm vị trí và vai trò của triết học trong đời sống xã hội.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng – sự thống nhất hữu cơ chủ nghĩa duy
vật và phép biện chứng - đ khắc phục tính chất phiến diện của cả chủ nghĩa
duy vật lẫn php biện chứng thời trước, trước hết là chủ nghĩa duy vật siu
hình v php biện chứng duy tm.
Cc nguyn lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng được vận dụng một
cách sáng tạo vào việc phân tích tiến trình lịch sử - x hội, khắc phục quan
niệm duy tm về lịch sử. Với sự vận dụng ny, sự pht triển x hội được xem
như quá trình lịch sử - tự nhin, trong đó nổi bật quy luật x hội phổ biến l quy
luật về sự ph hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Cùng với quy luật ấy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đ phn
tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,
vấn đề đấu tranh giai cấp, cách mạng x hộ, nh nước v.v trên cơ sở thế giới
quan duy vật biện chứng. Việc phát minh ra quan niệm duy vật về lịch sử,
xây dựng lý luận về hình thi kinh tế - x hội l thnh cơng lớn của Mc v
Ăngghen, được tiếp tục làm sâu sắc thêm bởi Lênin và các nhà mácxít khác.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, với ý nghĩa vừa nu, khơng chỉ dừng lại
ở việc giải thích, m cịn hướng đến việc cải tạo thế giới. Nó là định hướng thế
giới quan trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, trong qu trình khắc phục tư duy tư
biện, thứ tư duy triết học “bay lượn cao trên thực tiển” của phái Hêghen, đ
nhấn mạnh nguyn tắc xuyn suốt – thống nhất lý luận v thực tiễn, tính cách
mạng và tính khách quan khoa học, không chỉ làm cho triết học mới – chủ
nghĩa duy vật biện chứng và quan niệm duy vật về lịch sử (chủ nghĩa duy vật
lịch sử) – trở thành triết học duy vật triệt để nhất trong lịch sử, mà cịn trở
thnh vũ khí lý luận của giai cấp vơ sản v nhn loại bị p bức trong cuộc đấu
tranh giải phóng, xây dựng x hội mới, một lin hợp “trong đó sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”
4

Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, sự

thay đổi nhanh chóng của thực tiễn xã hội, các luận điểm nền tảng của chủ
nghĩa duy vật biện chứng luôn thường xuyên được bổ sung, điều chỉnh, lm
phong ph v su sắc thm; v điều này hoàn toàn phù hợp với chính bản chất
khoa học v cch mạng của nó.
+ Trong phạm vi chủ nghĩa duy vật, cùng với việc làm sáng tỏ về mặt
lịch sử các hình thức cơ bản của nó, người ta còn phân biệt:

4
C.Mc và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4; Nxb Chính trị Quốc gia, H Nội, 2005, tr.
628
9
- Chủ nghĩa duy vật triệt để và chủ nghĩa duy vật không triệt để. Sự
so sánh này căn cứ vào tính chế định lịch sử – xã hội đối với từng học thuyết
và đại diện của nó, do đó khó tránh khỏi một số yếu tố chủ quan trong đánh
giá. Tuy nhiên căn cứ vào quy luật phát triển cái mới luôn thực hiện sự lọc
bỏ biện chứng đối với cái đã qua. Xét theo nghĩa này chủ nghĩa duy vật biện
chứng là chủ nghĩa duy vật triệt để, bởi các nguyên lý của nó được phổ biến
vào cả tự nhiên lẫn xã hội và tư duy con người. Ngược lại chủ nghĩa duy vật
Feuerbach không triệt để, vì không dựa vào quan điểm duy vật trong việc
phân tích các vấn đề lịch sử, xã hội. Một trong những ví dụ điển hình :
Feuerbach xem xét tiến bộ xã hội qua lăng kính của sự thay thế Kytô giáo
bằng “tôn giáo không có Chúa”, tức Tôn giáo của Tình yêu, nơi mà tất cả
mọi người, không phân biệt địa vị xã hội, lập trường chính trị, giới tính
…đối xử với nhau như những vị chúa nhân từ và hào hiệp, tức qua lăng kính
của những biến đổi tinh thần, đạo đức, chứ không phải qua hoạt động nền
tảng của con người. Trước đó chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII còn
chịu ảnh hưởng nhất định của thần luận, phiếm thần – đó cũng là biểu hiện
của chủ nghĩa duy vật không triệt để.
- Chủ nghĩa duy vật khoa học và chủ nghĩa duy vật tầm thường.
Chủ nghĩa duy vật khoa học (trong thời đại ngày nay là chủ nghĩa duy

vật biện chứng) trong khi khẳng định về nguyên tắc tính có trước và tính
quyết định của vật chất trong quan hệ với ý thức đã xét mối quan hệ đó một
cách cụ thể, đồng thời thừa nhận tính độc lập tương đối của ý thức, sự tác
động trở lại của nó đối với thế giới vật chất, cũng như các lĩnh vực hoạt
động vật chất của con người.
Ngược lại chủ nghĩa duy vật tầm thường quy toàn bộ cái tinh thần, ý
thức về cái vật chất, thậm chí đồng nhất ý thức với một dạng vật chất nhất
định. Manh nha từ thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật tầm thường thể hiện qua
các đại diện tiêu biểu của mình vào thế kỷ XIX như L.Buchner (1824-
1899), J. Moleschott (1822-1893), K. Vogt (1817-1895)… Chủ nghĩa duy
vật kinh tế* cũng có khá nhiều điểm tương đồng với chủ nghĩa duy vật tầm
thường.
Tương tự như chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm cũng không
đồng nhất. Trước hết cần phân biệt hai biến dạng cơ bản của nó.
1) Chủ nghĩa duy tâm khách quan tuyên bố về sự độc lập của ý niệm
( idea), thượng đế, tinh thần – nói chung bản nguyên tinh thần – không chỉ
đối với vật chất, mà con đối với con người. Các đại diện tiêu biểu của chủ
nghĩa duy tâm khách quan trong lịch sử: Platon, Thomas Aquinas, Hegel.
2) Chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định sự lệ thuộc của thế giới
bên ngoài, các thuộc tính và các mối quan hệ của nó, đối với ý thức con
người. Hình thức cực đoan của chủ nghĩa duy tâm chủ quan là thuyết duy
10
ngã
5
. Theo thuyết duy ngã để đảm bảo tính xác thực của các phán quyết chỉ
cần nói đến sự tồn tại của cái Tôi và cảm giác của cái tôi. Các đại đại diện
tiêu biểu của chủ nghĩa duy tâm chủ quan trong lịch sử :Berkeley, Hume (
thế kỷ XVIII tại Anh)…
Mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau, cuộc tranh luận thường xuyên
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, với tất cả tính phức tạp của

chúng, đã tạo nên động lực bên trong của quátrình phát triển và hoàn thiện
tri thức triết học. Chủ nghĩa duy vật về cơ bản là sự thể hiện quan điểm của
các lực lượng xã hội tiến bộ. Trong từng trường hợp cụ thể các nhà duy tâm
cũng đóng vai trò tích cực của mình trong “cuộc cách mạng lý trí” (ý nghĩa
tích cực của ‘bước ngoặt Sokrates” trong triết học Hy Lạp, tính đột phá của
triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII – XIX, một số gợi mở về trách nhiệm con
người trong một số học thuyết thuộc trào lưu nhân bản – phi duy lý của triết
học phương Tây đương đại v.v…).
- Cuộc tranh luận triết học về cơ sở ban đầu của tồn tại, ngoài việc dẫn
đến hai khuynh hướng chủ đạo – chủ nghia duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
còn làm nảy sinh chủ nghĩa nhất nguyên (monism), nhị nguyên (dualism) và
đa nguyên (pluralism).
+ Theo chủ nghĩa nhất nguyên chỉ có một bản nguyên duy nhất của
thế giới vật chất hoạc tinh thần. Với cách hiểu này chủ nghĩa nhất nguyên có
thể là nhất nguyên duy vật, có thể là nhất nguyên duy tâm. Nhất nguyên duy
vật nói chung dựa vào các dữ liệu của khoa học tự nhiên để rút ra cái tinh
thần từ cái vật chất. Ngược lại nhất nguyên duy tâm xem tinh thần là cái
quyết định tối hậu đối với vật chất và tìm giá đỡ tư tưởng ở quan niệm về sự
sáng tạo thế giới bởi tinh thần siêu việt nào đó ( thượng đế), hay ý thức, ý
niệm.
+ Chủ nghĩa nhị nguyên khẳng định tính đồng cấp của hai bản nguyên
vật chất và ý thức, vật lý và tâm lý. Trong lịch sử nhị nguyên luận thường
dẫn tới chủ nghĩa duy tâm, nghĩa là xác định một bản thể tối cao vượt lên
trên hai bản nguyên đồng cấp ấy, và chi phối chúng. Đại diện tiêu biểu của
nhị nguyên luận: Aristoteles (trong học thuyết về vật chất, đúng hơn, thể
chất, và mô thức), Descartes (trong Siêu hình học).
+ Chủ nghĩa đa nguyên nêu ra khá nhiều luận điểm xuất phát khác
nhau, nhưng đều đồng nhất ở sự thừa nhận nhiều bản nguyên của tồn tại .
Quan niệm đa nguyên về cơ sở của thế giới có nguồn gốc từ triết học Hy


5
Solipsism ( từ nguyên latinh: solus= duy nhất, ipse=tự nó): một quan điểm triết
học, thừa nhận ý thức c nhn tự thn l thực tại đáng tin cậy duy nhất, phủ nhận
thực tại khách quan của thế giới xung quanh.
11
Lạp cổ đại (phương án”đa nguyên” trong việc lý giải bản nguyên thế giới
vào thế kỷ V tr. CN ).

3. Vấn đề về khả năng và giới hạn nhận thức thế giới. Chủ nghĩa
hoài nghi và thuyết bất khả tri
Việc tìm hiểu cơ sở ban đầu của tồn tại có mối liên hệ với vấn đề về
tính nhận thức được thế giới. Phần lớn các nhà triết học, cả duy vật lẫn duy
tâm, đều tin vào khả năng con người đạt được tri thức đúng , chân lý, và cố
gắng xác lập những quy tắc, chuẩn mực, phương pháp định hướng cho quá
trình này. Những hiểu biết của con người về thế giới và bản thân sự tồn tại
của nó, sự thâm nhập, khám phá bản chất của tồn tại với những cách tiếp cận
khác nhau làm nảy sinh cuộc tranh luận về cơ sở của tính đồng nhất tư duy
và tồn tại. Các nhà duy vật cho rằng vật chất đóng vai trò cơ sở của tính
đồng nhất, ngược lại các nhà duy tâm nhấn mạnh đến ý nghĩa định hướng
của ý thức, khuôn mẫu sẵn có của tư duy, và cho rằng (Hegel chẳng hạn)
việc tìm hiểu các quy luật lôgíc của tư duy, hay “ ý niệm” trong nguyên chất
của nó, là cơ sở để nắm bắt và lý giải các quy luật của thế giới, giới tự nhiên,
xã hội.
+ Trong lịch sử triết học một số nhà tư tưởng cho rằng vấn đề chân lý
của nhận thức không thể được giải quyết trọn vẹn, và do đó thế giới về
nguyên tắc là không nhận thức được. Họ được biết đến như các đại biểu của
thuyết bất khả tri.* Các đại diện tiêu biểu: Giorgias (nhà triết học Hy Lạp cổ
đại, thuộc phái biện thuyết do Prothagoras sáng lập) với tuyên bố “không có
gì tồn tại cả”, Kant (nhà triết học Đức thế kỷ XVIII, người sáng lập ra triết
học cổ điển Đức) với tuyên bố về tính hữu hạn của nhận thức trong quá trình

tìm hiểu bản chất sâu kín của vạn vật. Khá gắn với thuyết bất khả tri là
khuynh hướng hoài nghi*, phủ nhận khả năng của tri thức xác thực, đề cao
yếu tố xác xuất. Các đại diện tiêu biểu: Pyrrhon (người sáng lập phái hoài
nghi trong triết học cổ đại Hy Lạp), Hume ( nhà triết học Anh thế kỷ
XVIII)…
Cần nhớ rằng thuyết bất khả tri hay hoài nghi ra đời trong những
điều kiện xã hội nhất định; chúng không phải là những khuynh hướng độc
lập, mà chỉ là suy nghĩ hoặc nhận định nhất thời, cá biệt, đóng vai trò phản
biện đối với quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Bên
cạnh đó cũng nên phân biệt hoài nghi như nguyên tắc thế giới quan với tinh
thần hoài nghi khoa học, hoài nghi vào cái lỗi thời để vạch ra con đường
khám phá chân lý, xác lập cái mới, phù hợp hơn trong sự vận động tiến bộ
của lịch sử.

III. BIỆN CHỨNG VÀ SIÊU HÌNH
12
1.Triết học như phương pháp luận
+ Mỗi khoa học đều có phương pháp của mình. Tuy nhiên triết học
đóng vai trò là phương pháp luận chung nhất, và đó cũng là thực chất của
phương pháp triết học. Phương pháp luận triết học là hệ thống các nguyên
tắc chung nhất của việc nắm bắt về mặt lý luận và thực tiễn đối với toàn bộ
hiện thực, đồng thời là cách thức xác lập và luận giải chính hệ thống tri
thức triết học.
Cũng như phương pháp của các khoa học khác, phương pháp triết
học lấy hoạt động thực tiễn của con người làm cơ sở, và ngay từ đầu đã là sự
phản ánh lôgíc các quy luật của sự phát triển hiện thực khách quan. Đương
nhiên điều này chỉ liên quan đến triết học nào dựa vào khoa học, bám sát vào
trình độ nhận thức và khoa học của thời đại.
Phương pháp triết học đem đến các nguyên tắc nghiên cứu chung, ví
như ngọn đuốc soi tỏ con đường hướng tới chân lý( F. Bacon). Tuy nhiên

các trường phái và các khuynh hướng khác nhau xác lập và sử dụng các
phương pháp triết học khác nhau tùy thuộc vào đặc trưng của mình và quan
niệm về đối tượng triết học. Chẳng hạn chủ nghĩa đa nguyên cũng chủ
trương đa nguyên cả trong phương pháp.
Tư duy lý luận chung được diễn đạt trong các phạm trù, các nguyên lý
và các quy luật triết học.
Tìm hiểu phương pháp triết học không thể bỏ qua các nguyên tắc có
tính định hướng trong lý luận nhận thức, mà điều này lại liên hệ chặt chẽ với
việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, đưa đến sự hình thành chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm, đại diện cho các cách tiếp cận và phương thức
xem xét tồn tại và nhận thức. Lý luận nhận thức ngay từ đầu được quy định
bằng việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, thiên nhiên và tinh
thần, hay nói cách khác nó dựa trên một cơ sở thế giới quan nhất định – duy
vật hoặc duy tâm. Ở trường hợp của chủ nghĩa duy vật quá trình nhận thức
được xem như sự phản ánh hiện thực khách quan vào ý thức, còn ở trường
hợp thứ hai nó biến thành sự nhận thức của ý thức, ý niệm tuyệt đối. Nói
cách khác bản thể luận về cơ bản quy định nhận thức luận, trước hết ở việc
lý giải nguồn gốc, cơ sở của tri thức.
+ Bước tiếp theo trong phương pháp triết học là phân biệt phương
pháp biện chứng và phương pháp siêu hình. Đó là hai phương pháp tư duy
đối lập nhau trong lịch sử triết học, khi giải quyết vấn đề bản chất của tồn
tại.
Tư duy biện chứng thừa nhận sự vận động, biến đổi khơng ngừng
của sự vật, xem xét chúng trong mối liên hệ, tác động, chế ước nhau, trong
sự chuyển hóa, nhấn mạnh sự tự vận động, xem sự thống nhất và đấu tranh
13
của các mặt đối lập ngay trong chính sự vật như cơ sở và động lực của phát
triển
Tư duy siêu hình xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời
nhau, ngưng đọng, xác định tính chỉnh thể của thế giơi một cách đơn giản và

cứng nhắc, không vạch ra một cách thấu đáo cơ sở và động lực của vận
động, phát triển.
Về nguyên tắc nhà duy vật lẫn nhà duy tâm đều có thể sử dụng
phương pháp biện chứng, tạo nên phép biện chứng duy vật hay phép biện
chứng duy tâm. Nhà duy vật có thể chịu sự chi phối của phép siêu hình,
ngược lại nhà duy tâm có thể là nhà duy tâm biện chứng.
- Phép biện chứng (Dialectic) trải qua các hình thức và các giai đoạn
phát triển, từ cổ đại đế hiện đại.
Phép biện chứng chất phc, ngây thơ (tự pht) trong triết học cổ đại, thể
hiện trình độ nhận thức chung của thời đó. Tại phương Đông cổ đại tư tưởng
biện chứng về thế giới hình thành tự phát trong thuyết Âm Dương, triết học
Lão – Trang (Trung Quốc), một số triết học tôn giáo (Ấn Độ) . Thuật ngữ
“phép biện chứng”* được nêu ra lần đầu tiên trong triết học Hy Lạp cổ đại.
Tại đây trong một số học thuyết, từ Heraklitos đến Platon và Aristoteles, đã
có những biểu hiện khác nhau của phép biện chứng. Nhà duy vật Heraklitos
nhấn mạnh tính vận động và biến đổi thường xuyên, sự chuyển hóa của các
mặt đối lập trong thế giới sự vật. Đó là biện chứng của các sự vật, hay biện
chứng khách quan. Các nhà duy tâm Sokrates và Platon xem phép biện
chứng như nghệ thuật đối thoại (dẫn dắt người đối thoại đến với chân lý
bằng tư duy lôgíc, khả năng biện luận thuyết phục, có cơ sở, chứng cứ). Đó
là biện chứng của các khái niệm, hay biện chứng chủ quan.
Phép biện chứng tự pht (về tính chất có thể gọi là chất phác, ngây thơ)
trong triết học cổ đại, thể hiện trình độ nhận thức chung của thời đó. Tại
phương Đông cổ đại tư tưởng biện chứng về thế giới hình thành tự phát
trong thuyết Âm Dương, triết học Lão – Trang (Trung Quốc), một số triết
học tôn giáo (Ấn Độ) . Thuật ngữ “phép biện chứng”* được nêu ra lần đầu
tiên trong triết học Hy Lạp cổ đại. Tại đây trong một số học thuyết, từ
Hraclít (Heraklitos) đến Platơn (Platon) và Arixtốt (Aristoteles, Aristotle),
đã có những biểu hiện khác nhau của phép biện chứng. Nhà duy vật Hraclít
nhấn mạnh tính vận động và biến đổi thường xuyên, sự chuyển hóa của các

mặt đối lập trong thế giới sự vật. Một số nội dung trong tư tưởng biện chứng
về thế giới của Hêraclít: 1) tính biến đổi phổ biến của thế giới (quá trình sinh
thnh, pht triển, diệt vong của vạn vật, dịng thời gian, hình ảnh dịng sơng –
đó là những ví dụ sinh động mà thí sinh cần sử dụng); 2) quá trình chuyển
hố, mối lin hệ phổ biến, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
(trong đó Hêraclít nhấn mạnh :chiến tranh là “cha của tất cả, ông hoàng của
14
tất cả, hiện thân của tất cả”); 3) tính quy luật, tính tất yếu, trật tự, chuẩn mực
của tồn bộ thế giới các sự vật, nói khác đi, là LOGOS của vạn vật. Khái
niệm logos bao chứa toàn bộ những nội dung của tư tưởng biện chứng về thế
giới, mà Hêraclit là người xây dựng một cách sinh động đầu tiên.
Tư tưởng biện chứng hình thnh một cch tự pht ở Hraclít là biện
chứng của các sự vật, hay biện chứng khách quan.
Bn cạnh đó cịn cĩ biện chứng chủ quan, biện chứng của qu trình nhận
thức. Trường phái Êlê (Eleatics) đ gợi mở khía cạnh ny. Thông qua các luận
chứng “bác bỏ vận động”, thay nguyên tắc “vạn vật biến dịch” bằng nguyên
tắc “vạn vật bất biến”, thay “vạn vật đa tạp” bằng “vạn vật đồng nhất”, các
đại diện tiêu biểu của trường phái Êlê như Pácmênhít (Parmenides), Dênông
(Zeno, Zenon) không chỉ khẳng định nguyên tắc đồng nhất tư duy – tồn tại,
m cịn gợi mở quan điểm về biện chứng của quá trình nhận thức: 1) nhận
thức l một qu trình phức tạp, đầy mâu thuẫn (nghịch lý), do đó không thể
chấp nhận lối giải thích đơn giản, một chiều về sự vật (nhìn sự vật ở gĩc độ
bản chất tự thân mà không xem xét nó ở khía cạnh “tồn tại”, ở trạng thái
tương đối cân bằng, ổn định, tức ở trạng thái đứng im); 2) địi hỏi hình thnh
phương pháp nghiên cứu nghiêm túc, khoa học về mối quan hệ giữa vận
động và đứng im, tồn tại và hư vô, liên tục và gián đoạn, hữu hạn và vô
hạn…Nói cách khác, các luận chứng của phái Êlê, theo Arixtốt, đ kích thích
tư duy của nhiều nhà khoa học qua các thời đại. Các nhà duy tâm Sokrates
và Platon xem phép biện chứng như nghệ thuật đối thoại (dẫn dắt người đối
thoại đến với chân lý bằng tư duy lôgíc, khả năng biện luận thuyết phục, có

cơ sở, chứng cứ). Chính Platơn v Arixtốt đ xy dựng lý luận nhận thức m ở
đó chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng, được kế thừa và phát triển có chọn
lọc ở các thời đại sau.

Phép biện chứng duy tâm thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX phát
triển tại Đức, bắt đầu từ Kant (biện chứng của qu trình nhận thức, tính mu
thuẫn tất yếu, hay nghịch lý của tư duy lý luận, “lý tính thuần ty” v.v ),
Fichte (Biện chứng ci Tơi v ci khơng-Tơi, ý thức v vật chất, tinh thần v tự
nhin), đạt đến sự hoàn thiện ở Hegel. Phép biện chứng trong triết học cổ
điển Đức gĩp phần hình thnh phong cách tư duy mới trong văn hóa tinh thần
châu Au vào thời đó.
Cơng lao lịch sử to lớn trong sự pht triển php biện chứng thuộc về
Hghen. 1) Hghen pht triển php biện chứng từ trình độ tự phát thành một
khoa học về phương pháp nhận thức, từ tản mạn thành hệ thống, từ “nghệ
thuật đối thoại” mang nặng tính chủ quan thành khoa học về mối liên hệ và
sự phát triển, đem đến cách hiểu mới về phép biện chứng, được Mác và
Ăngghen kế thừa, cải tạo và làm sinh động thêm bằng biện chứng của tiến
15
trình lịch sử v đấu tranh cách mạng; 2) trong Khoa học lơgíc, hay Lơgíc học
– bộ phận cấu thành cùa hệ thống, Hêghen đ trình by nội dung cơ bản của
phép biện chứng với các nguyên lý, cc quy luật v cc cặp phạm tr cơ bản cùa
nó; 3) theo V.I.Lênin, lần đầu tiên, từ sự phân tích nội dung của phép biện
chứng, Hêghen đ đi đến quan điểm về sự thống nhất phép biện chứng – lý
luận nhận thức và lôgíc học; 4) nhờ có phép biện chứng như phương pháp
luận triết học mà Hêghen đ tìm hiểu v phn tích su sắc cc lĩnh vực khc của
đời sống x hội v nhận thức, từ tơn gio, nghệ thuật đến kinh tế, chính trị, v thể
hiện mình như bộ óc bách khoa của thời đại; 5) phép biện chứng Hêghen
phản ánh mặt tích cực, tiến bộ của giai cấp tư sản Đức ở đêm trước của
những chuyển biến cách mạng.
Php biện chứng duy vật, ra đời cùng với bước ngoặt cách mạng trong

lịch sử triết học, do C. Mác và Ph. Ăngghen thực hiện vào những năm 40
của thế kỷ XIX. Phép biện chứng duy vật đ khắc phục sự đối lập giữa
phương pháp và hệ thống trong phép biện chứng duy tâm. C. Mác và Ph.
Ăngghen không chỉ tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong triết học của cc bậc tiền
bối, nhất l php biện chứng Hghen, m cịn cải tạo php biện chứng đó, thống
nhất với thế giới quan duy vật, đồng thời vận dụng vào quá trình thực tiễn x
hội, đưa vào nội dung của phép biện chứng những yếu tố mới, mang tính
khoa học và cách mạng. Phep biện chứng duy vật là sự thay thế tất yếu và
xứng đáng phép biện chứng duy tâm, là sự đáp ứng những địi hỏi của thời
đại mới.
Trong nội dung của php biện chứng duy vật ngồi cc nguyn lý, cc quy
luật v cc cặp phạm trù cơ bản, cịn hình thnh nhiều yếu tố mới, ngy cng mở
rộng cng với sự pht triển của khoa học, của nhận thức v biến đổi của thực
tiễn x hội, những vấn đề mà hình thức trước đó của phép biện chứng chưa
đặt ra.
Phép biện chứng duy vật là phương pháp luận của tri thức khoa học và
hoạt động thực tiễn. Trong mối liên hệ (liên minh) giữa triết học và các
khoa học chuyên biệt, phép biện chứng có vai trị định hướng về phương
pháp luận (và cả thế giới quan) đối với các nhà khoa học, đồng thời từ
phương pháp luận ấy các nhà khoa học tiếp cận với cấp độ trừu tượng hóa
triết học, vời phương pháp triết học (đọc thêm chuyên đề Php biện chứng
duy vật trong Gio trình dnh cho hv SĐH không chuyên ngành triết học).
Phép biện chứng duy vật là phương pháp luận của đấu tranh cách
mạng của cải tạo thực tiễn.
C. Mc v Ph. Ăngghen tiếp thu có chọn lọc giá trị của phép biện
chứng duy tâm, nhất là phép biện chứng Hegel, cũng như những thành quả
của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII –XVIII, đặc biệt là tư tưởng duy vật của
Feuerbach (nửa đầu thế kỷ XIX), đồng thời khắc phục những mặt phiến diện
16
của cả phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật thời trước, sáng tạo ra phép

biện chứng duy vật như hình thức hiện đại của phép biện chứng. Quá trình
này bắt đầu từ những năm 40 của thế kỷ XIX. Phép biện chứng duy vật là sự
định hướng phương pháp luận trong hoạt động cách mạng cải tạo thế giới.
Cc nguyn lý cơ bản của phép biện chứng duy vật – nguyên lý về mối
lin hệ phổ biến v nguyn lý về sự pht triển – đ được thể hiện trong hệ thống
các cặp phạm trù cơ bản (cái chung – cái riêng, bản chất – hiện tượng, nội
dung – hình thức, tất nhin – ngẫu nhin, nguyn nhn – kết quả, khả năng –
hình thức) v cc quy luật cơ bản (quy luật những biến đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại – phương thức phát triển; quy luật thống
nhất và đấu tranh của các mặt đối lập – nguồn gốc và động lực của phát
triển; quy luật phủ định của phủ định – tính khuynh hướng của pht triển).
- Phép siêu hình (Metaphysics), với tính cách là phương pháp tư duy
và nhận thức đối lập với phép biện chứng, cũng có lịch sử của mình. Nghĩa
nguyên thủy của nó (trong triết học cổ đại Hy Lạp) gắn với nỗ lực của triết
gia tìm hiểu bản chất sâu kín của vạn vật (không phải là các hiện tượng của
thế giới vật lý, mà là những gì ẩn chứa đằng sau nó). Cuộc tranh luận về
phương pháp nhận thức, cách thức tiếp cận và lý giải bản chất thế giới diễn
ra sôi nổi và gay gắt vào thời cận đại, làm nảy sinh nhu cầu đánh giá có phê
phán các quan điểm truyền thống. Phép siêu hình, xét từ góc độ đối lập với
phép biện chứng, là khuynh hướng xác lập bức tranh tĩnh, một nghĩa về thế
giới. Nói đến phương pháp siêu hình là nói đến cách thức xem xét các sự vật
theo nguyên tắc tách biệt “có” – “không”, “trắng”, “đen”, “bạn” , “thù”…
Khi tìm hiểu vận động phép siêu hình quy các hình thức phong phú của nó
về một hình thức nào đó, thậm chí quy hình thức vận động cao về hình thức
vận động thấp hơn. Điển hình cho trường hợp này là chủ nghĩa duy vật thế
kỷ XVII –XVIII, đã quy các hình thức vận động về vận động cơ học, do đó
còn được gọi là chủ nghĩa duy vật máy móc, thực chất là chủ nghĩa duy vật
siêu hình.

Trong qu trình tìm hiểu php biện chứng v php siu hình cần nắm vững

phương pháp luận khoa học. Một là, cần thấy rằng phương pháp nhận thức
chủ trương xem xét các sự vật và hiện tượng trong trạng thái tĩnh, đứng im,
cũng như “cắt rời”, “đơn giản hóa” tồn tại,vẫn có chỗ đứng trong lịch sử.
Phương pháp trừu tượng hóa của triết học siêu hình hoàn toàn có cơ sở khoa
học trong những điều kiện nhất định và được các lĩnh vực chuyên môn
khác nhau sử dụng. Nếu như không vì đứng im mà xem nhẹ vận động,
không vì trạng thái tĩnh mà xem nhẹ trạng thái động, thấy cây mà không
thấy rừng, thì yếu tố đó của phép siêu hình tỏ ra cần thiết trong nhận thức,
bởi lẽ nó cũng là một phần của phép biện chứng. Sai lầm phương pháp luận
17
xuất hiện khi sự đứng im, hay một đặc tính, một khía cạnh nào đó của nhận
thức tách khỏi mối liên hệ phổ biến và sự chế ước lẫn nhau, biến thành cái
tuyệt đối. Đây cũng là nguồn gốc nhận thức luận của tất cả hệ thống triết
học duy tâm. Vấn đề là ở chỗ theo quan điểm duy tâm nhân tố tinh thần tách
khỏi vật chất, đóng vai trò sáng tạo tuyệt đối. Phương pháp luận tiếp cận như
thế quên rằng cái tư duy, tinh thần xét đến cùng xuất hiện trên cơ sở cái vật
chất.
Hai là, cần thấy rằng hiểm họa đối với nhận thức không chỉ thể hiện ở
việc tuyệt đối hóa đứng im, mà cả việc tuyệt đối hóa mặt đối lập với nó, tức
vận động. Cả hai đều đáng gọi là phương pháp nghiên cứu siêu hình. Quan
điểm thứ nhất dẫn tới chủ nghĩa giáo điều, quan điểm thứ hai dẫn tới chủ
nghĩa tương đối vô điều kiện. Đối với phép biện chứng thực sự thì quá trình
vận động không ngừng của thế giới chẳng những không loại trừ, mà còn bao
hàm sự đứng im tương đối.

2. Cc khuynh hướng khác của phương pháp nhận thức trong lịch
sử triết học
Trong lịch sử triết học hình thnh cc khuynh hướng, hay con đường cơ
bản, chi phối sự phát triển của nó. Từ các khuynh hướng ấy các trường phái
cụ thể ra đời, tạo nên bức tranh đa dạng và phức tạp, với những đường nét

đan xen nhau, thay thế nhau. Tính chất này đến nay vẫn tiếp tục được thể
hiện.
-Từ quan niệm về cơ sở phương pháp nhận thức, trong lịch sử triết
học hình thành chủ nghĩa duy cảm (sensualism), chủ nghĩa duy lý
(rationalism) và chủ nghĩa phi duy lý (irrationalism)*. Những khuynh hướng
đó ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt học thuật, tạo nên những dấu ấn sâu
đậm trong sự phát triển triết học.
. Chủ nghĩa duy cảm là nguyên tắc phương pháp luận mà theo đó cảm
giác được xem như cở sở nhận thức .Thuyết duy cảm tuyệt đối hóa vai trò
của các cơ quan cảm giác trong nhận thức và cho rằng mọi tri thức đều xuất
phát từ hoạt động cảm tính. Các đại diện tiêu biểu: Epicuros, Locke,
Berkeley, Holbach, Feuerbach. Cần phân biệt duy cảm luận duy vật, xem thế
giới khách quan cảm giác được là cơ sở của tri thức xác thực, và duy cảm
luận duy tâm, tuyệt đối hóa vai trò của cảm giác, không thừa nhận nội dung
khách quan của tri thức .
. Chủ nghĩa duy lý là nguyên tắc phương pháp luận mà theo đó cơ sở
của nhận thức và hoạt động của con người là lý trí, xem nhẹ vai trò của các
yếu tố ngoài lý trí trong quá trình nhận thức thế giới. Các đại diện tiêu biểu:
Descartes, Spinoza, Leibniz, Hegel. Trong khuynh hướng duy lý có cả các
nhà duy vật lẫn các nhà duy tâm, tùy thuộc vào việc giải quyết vấn đề về
18
quan hệ giữa vât chất và ý thức, tinh thần. Chẳng hạn phương pháp luận duy
lý của Hegel dựa trên cơ sở thế giới quan duy tâm, còn Spinoza lại là nhà
triết học duy vật dưới hình thức phiếm thần.
Duy cảm (sự phát triển cực đoan của chủ nghĩa kinh nghiệm) và duy
lý hình thành rõ nhất vào thế kỷ XVII – XVIII, trong cuộc tranh luận về
nguồn gốc, bản chất tri thức và phương pháp tiếp cận chân lý. Chủ nghĩa duy
lý hiện đại, với các hình thức thể hiện khác nhau, đã có những thay đổi căn
bản trong đối tượng nghiên cứu so với duy lý truyền thống, cổ điển. Đối lập
với chủ nghĩa duy lý hiện đại là chủ nghĩa phi duy lý.

Chủ nghĩa phi duy lý là là phương pháp luận triết học phủ nhận, hoặc
ít ra là hạn chế vai trò của lý trí trong nhận thức, đề cao vai trò của phương
pháp phi duy lý(xúc cảm, ý chí,niềm tin…) đối với quá trình tìm hiểu tồn tại.
Trong triết học cận hiện đại chủ nghĩa phi duy lý ra đời như sự phản ứng
trước thực trạng sinh hoạt xã hội và sự bất lực trong việc giải quyết các vấn
đề bức thiết của đời sống con người. Các đại diện tiêu biểu: Schopenhauer,
Kiekegaard, Nietzsche, Dilthey, Bergson, Heidegger…
. Sự phát triển vũ bão của khoa học và nhận thức trong mấy thập niên
gần đây đưa đến việc xác định phương pháp luận như một lĩnh vực chuyên
môn hóa của tri thức.Các cơ chế lôgíc nội tại, khả năng “thiết kế” mô hình
phát triển thi thức, tiêu chuẩn về tính khoa học của nhận thức, nhân tố –
công nghệ, điều khiển học… được đề cập thường xuyên. Cùng với quá trình
này do nhu cầu phát triển xã hội sự liên minh giữa phương pháp triết học với
phương pháp của các khoa học cụ thể ngày càng mở rộng, song không vì thế
\mà triết học đánh mất vai trò phương pháp luận chung nhất của nhận thức
và cải tạo thế giới.

IV.TRIẾT HỌC VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ NHẬN THỨC
KHOA HỌC
1. Chức năng của triết học
a) Chức năng thế giới quan. Mọi vấn đề thế giới quan đều nảy sinh từ
đời sống con người và là sự nhận thức mục đích, ý nghĩa của cuộc sống con
người. Đến lượt mình thế giới quan trở thành nhân tố định hướng cho con
người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học với tính cách là
hạt nhân lý luận của thế giới quan làm cho thế giới phát triển như một quá
trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các
khoa học cụ thể, chuyên biệt đem lại. Như vậy chức năng thế giới quan của
triết học gắn liền với sự giải thích lý luận trừu tượng hóa, giải thích về mặt
khái niệm, nhằm phân biệt với tất cả các hình thức và cấp độ thế giới quan
khác. Lẽ cố nhiên triết học trong khi xác định đối tượng của mình căn cứ

trên những thông số khác với các khoa học về tính chính xác. Ít tính một
19
nghĩa hơn, nhiều tính linh hoạt hơn – đó là điều kiện của phản tư triết học.
Các khái niệm triết học phản ánh các khía cạnh chung nhất của tồn tại, tính
biện chứng của nó, do đó không thể đòi hỏi tính chính xác như vật lý, hay
toán học. Các khái niệm và phạm trù triết học liên kết một cách biện chứng
nơi mình các yếu tố xác định (ổn định) và các yếu tố không xác định (biến
đổi), được hàm chứa ngay trong tồn tại. Tính linh hoạt của khái niệm xuất
phát từ chỗ triết học dựa trên toàn bộ sự phong phú của nhận thức, toàn bộ
kinh nghiệm của con người. Chúng cũng có thể bao quát các lĩnh vực của
tồn tại còn chưa được nhận thức, hoặc thậm chí về nguyên tắc không thể
được nhận thức. Vì thế đôi khi khái niệm trở nên “mơ hồ” đối với không ít
người. Sự chấp nhận thế giới quan triết học nào đó, xét từ góc độ của một
nhà khoa học, chính là sự mở rộng tầm nhìn, hay không gian tư tưởng vượt
qua khuôn khổ của tính chuyên biệt vốn có.
Trong phạm vi thế giới quan triết học không ngừng diễn ra cuộc đấu
tranh giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, thế giới quan
khoa học và thế giới quan phản khoa học, giả khoa học. Đằng sau các cuộc
luận chiến triết học là các lực lượng xã hội với những thiên hướng, chính
kiến, lợi ích khác nhau. Nhà khoa học có thể chịu sự chi phối của thế giới
quan triết học này hay thế giới quan triết học khác tùy từng điều kiện cụ thể.
b) Chức năng phương pháp luận, thể hiện ở chỗ triết học là học thuyết
chung về phương pháp và là tổng thể các phương pháp chung nhất của nhận
thức và cải tạo thực tiễn. Trong lịch sử triết học việc lý giải các sự vật, hiện
tượng thường dựa vào một phương pháp nhất định, tạo nên sự đa dạng các
cách tiếp cận sự vật, sự ra đời phương pháp mới trong phạm vi chủ đề thống
nhất của triết học. Nghệ thuật đối thoại (ở Sokrates và Platon…), hoài nghi
toàn diện (Descartes), phê phán lý trí (Kant)… đều hình thành trên cơ sở
trình độ nhận thức chung của thời đại mình. Trong số đó cuộc tranh luận
giữa phép biện chứng và phép siêu hình có tác động đến cả thế giới quan lẫn

phương pháp nhận thức chung, cũng như hoạt động thực tiễn của con người.
Phép biện chứng duy vật là hình thức phát triển cao của phương pháp biện
chứng.
c) Chức năng dự đoán của triết học thể hiện ở chỗ trong phạm vi hệ
thống các vấn đề nghiên cứu của mình các học thuyết triết học gợi mở về
khuynh hướng phát triển chung của vật chất và ý thức, con người và thế giới.
Những gợi mở, dự đoán về mặt lý luận tác động ở những mức độ khác nhau
đến sinh hoạt xã hội, các lĩnh vực hoạt động thực tiễn. Dự đoán lý luận trên
cơ sở các thành tựu của khoa học và kinh nghiệm sống, thấu hiểu các quy
luật vận động của tự nhiên và xã hội, thường đạt tính thuyết phục cao thông
qua sự thừa nhận của các lực lượng xã hội. Bên cạnh đó triết học với tính
cách là trường học tư duy lý luận và sự thông thái đem đến cho con người
20
khả năng tự chủ trong việc lựa chọn thái độ sống và hoạch định dự án cho
tương lai. Khả năng này được củng cố trước hết nhờ tìm hiểu lịch sử trioết
học.
d) Chức năng phê phán gắn liền với quá trình phát triển tư duy triết
học các thời đại, thể hiện các “vòng khâu” (vịng xốy ốc) tất yếu của lịch sử
tri thức, sự đánh giá lại và lọc bỏ biện chứng những giá trị đã dược tạo ra.
Nguyên tắc “tôi hoài nghi tất cả” mà các thế hệ triết gia, bắt đầu từ thời cổ
đại, tuân thủ, đã cho thấy tầm quan trọng của phê phán, hoài nghi tri thức
hiện tồn. Thái độ này buộc những gì là “chính thống”, “chuẩn mực”, tự thẩm
định, đánh giá lại, tự điều chỉnh, thậm chí tự đào thải, nếu không còn phù
hợp với nấc thang phát triển mới của thực tiễn và nhận thức. Sự phê phán
của các nhà triết học Phục hưng và Cận đại đối với triết học kinh viện trung
cổ là ví dụ điển hình về trường hợp này. Tinh thần hoài nghi và phê phán có
cơ sở đóng vai trò lớn trong việc chống chủ nghĩa giáo điều. Ở đây phân biệt
ý nghĩa tích cực của sự phê phán với chủ nghĩa hư vô, phủ định biện chứng
với sự phủ định vô nguyên tắc, tính lịch sử cụ thể với những xét đoán trừu
tượng, thiếu phương hướng.

e) Chức năng giá trị liên hệ mật thiết với chức năng phê phán. Giá trị
là khái niệm dùng để chỉ ý nghĩa văn hóa, xã hội hoặc nhân cách của các
hiện tượng và các dữ kiện trong thực tiễn, nói cách khác giá trị là cái có ý
nghĩa đối với hoạt động sống của con người. Bất kỳ hệ thống triết học nào
cũng hàm chứa trong mình khía cạnh đánh giá đối tượng từ góc độ giá trị:
giá trị xã hội, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị tư tưởng v.v. Chức
năng này thể hiện đặc biệt rõ nét vào thời kỳ chuyển tiếp của sự phát triển xã
hội, khi mà việc lựa chọn xu hướng vận động được đặt ra cùng với vấn đề
cái gì cần lưu giữ, cái gì cần loại bỏ từ các giá trị được tạo ra trong quá khứ.
Trong hệ thống các giá trị có những giá trị đặc thù, có những giá trị mang
tính nhân loại chung.
f) Chức năng xã hội – nhân văn của triết học được phân tích từ nhiều
bình diện, bao quát các khía cạnh khác nhau của đời sống con người và xã
hội. Ở bình diện chung triết học thực hiện hai nhiệm vụ thống nhất với nhau
– giải thích bản chất con người, tồn tại xã hội, và tác động đến sự thay đổi
thế giới cả về vật chất lẫn tinh thần. Trước khi dự định biến đổi xã hội cần
bước đầu lý giải nó một cách xác đáng. Sức thu hút và mức độ cần thiết của
một học thuyết triết học tùy thuộc vào khả năng mỗi cá nhân đón nhận nó
một cách tự giác và cùng với những cá nhân khác hình thành mục tiêu tập
thể tập trung nỗ lực nhằm đạt được mục tiêu tập thể đó. Nói cách khác, trong
tính tổng thể của mình triết học hướng đến không chỉ các nhóm xã hội, mà
còn đến từng con người cụ thể. Vấn đề là ở chỗ triết học đóng vai trò định
hướng nhận thức và hoạt động của mỗi cá nhân, thúc đẩy việc hình thành
21
các giá trị và lý tưởng nhân văn, khẳng định ý nghĩa và mục đích của cuộc
sống. Triết học đảm nhận thực hiện chức năng liệu pháp trí tuệ rõ ràng nhất
trong thời kỳ xã hội thiếu ổn định, khi các giá trị cũ xưa đang biến đi dần,
nhưng cái mới chưa kịp hình thành, hoặc chưa đủ khả năng thâm nhập sâu
rộng vào các tầng lớp xã hội. Một khi trở thành vũ khí lý luận của các lực
lượng xã hội tiến bộ, triết học sẽ tác động tích cực đến sự vận động lịch sử

tiến về phía trước.

2. Triết học và khoa học, tri thức và niềm tin

- Triết học có phải là khoa học không ?
Vào thời cổ đại, do trình độ nhận thức chung còn thấp, tri thức khoa
học còn ở tình trạng tản mạn, sơ khai, triết học đóng vai trò là tri thức lý
luận duy nhất, giải quyết các vấn đề tự nhiên, xã hội và tư duy. Do chưa có
sự phân ngành rõ ràng giữa các lĩnh vực tri thức nên triết học được xem như
“khoa học của các khoa học”, còn các triết gia được tôn vinh như các bậc
thông thái, am tường mọi thứ. Các lĩnh vực tri thức khác đều là thành tố của
“tri thức phổ quát” này. Từ cuối thời Phục hưng quá trình chuyên biệt hóa,
cá thể hóa trong tri thức khoa học đã dẫn đến sự ra đời các khoa học cụ thể
với hệ thống lý luận của mình. Trên thực tế cách hiểu cũ về triết học không
còn phù hợp nữa, nhưng tính chất khoa học của những luận giải triết học
chẳng những không mất đi, mà ngày càng được bổ sung, mở rộng cùng với
sự phát triển mãnh liệt của tri thức và văn hóa. Cách tiếp cận lịch sử đã cho
thấy điều đó. Tri thức triết học, các vấn đề triết học, hệ thống các khái niệm
triết học phổ biến và lôgíc nghiên cứu trong triết học là kết quả của sự kế
thừa lâu dài từ sự phong phú của tri thức nhân loại.
Các kết luận trong phạm vi triết học không chỉ là phương tiện tiếp
nhận tri thức khoa học, mà bản thân chúng cũng chứa đựng nội dung khoa
học. Điều này giải thích vì sao nhiều nhà bác học lớn trong các lĩnh vực
khoa học cụ thể có thể là những đại biểu nổi tiếng của triết học. Triết học có
ngôn ngữ và hệ thống khái niệm đặc trưng của mình, không ngừng thực hiện
những tìm tòi khoa học, hướng con người tới những “điểm nóng” của thực
tại, đem đến tri thức có hệ thống, chìa khóa mở vào cõi bí hiểm của thế giới
xung quanh. Trong tính muôn vẻ của tri thức triết học vẫn tồn tại những
chuẩn mực chung, làm cơ sở cho việc đánh giá của từng học thuyết, từng
trường phái, trong dòng chảy của tri thức khoa học nói chung, từ đó thực

hiện sự sàng lọc, sự đào thải khách quan, tất yếu.
- Sự tác động lẫn nhau giữa triết học và các khoa học chuyên biệt.
Mỗi khoa học chuyên biệt đều có đối tượng và phương pháp riêng, có
trình độ khái quát nhất định, tùy theo lĩnh vực nghiên cứu. Từ thành quả của
22
các khoa học chuyên biệt, triết học thực hiện sự khái quát tiếp theo, nghĩa là
nó chú trọng đến cấp độ cao hơn, cấp độ thứ hai của sự khái quát. Nếu cấp
độ thứ nhất của sự khái quát dẫn đến sự hình thành các quy luật của khoa
học cụ thể, thì cấp độ thứ hai làm sáng tỏ các khuynh hướng và các quy luật
chung nhất. Các khoa học chuyên biệt đem đến cho các nhà triết học chất
liệu sống, nhờ đó và căn cứ vào đó họ đưa ra những nhận định có cơ sở, phù
hợp với thực tại, thể hiện được trình độ nhận thức chung của thời đại, đồng
thời gợi mở những khả năng của tương lai. Những phát minh khoa học lớn
không chỉ tạo ra sự thay đổi trong đời sống kinh tế – xã hội, mà còn làm thay
đổi tư duy, nếp nghĩ, góp phần thẩm định lại, đánh giá lại các giá trị, các
chuẩn mực hiện có, đẩy lùi chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm.
Bên cạnh đó phát minh khoa học và việc sử dụng các kết quả nghiên
cứu khoa học có thể làm nảy sinh những vấn đề mới, liên quan đến sự sinh
tồn của con người, thậm chí tạo nên sự xáo trộn tự phát trong ý thức, tác
động đến sự hình thành các khuynh hướng triết học có nội dung phê phán
khoa học, hoặc chỉ ra sự bất lực của lý trí trong việc kiểm soát hành vi con
người.
Như vậy, những thành tựu của khoa học có thể góp phần khẳng định
cả các kết luận triết học khoa học lẫn mặt đối lập của chúng, nghĩa là các
khuynh hướng triết học chủ trương đào sâu mặt phi lý của đời sống do hệ
quả của khoa học.

Triết học tác động như thế nào đến sự phát triển của các khoa học
chuyên biệt? Triết học không trực tiếp tạo ra các phát minh cụ thể, không
“làm” ra sản phẩm như các khoa học chuyên biệt. Tác động của triết học

được thể hiện thông qua thế giới quan triết học, phương pháp luận và định
hướng giá trị, nghĩa là tác động bằng nhiều cách đến lập trường xuất phát,
phương pháp nhận thức, quan niệm về thế giới, cũng như thái dộ của nhà
khoa học đối với tính tất yếu và xu thế phát triển của một lĩnh vực tri thức
nhất định.
Lý luận triết học sẽ trở nên nghèo nàn và trở nên lạc hậu nếu những
nhận định của nó không bám sát vào các thành tựu của khoa học và không
thực hiện sự khái quát khối tri thức to lớn từ các khoa học chuyên biệt.
Ngược lại, nếu không được trang bị thế giới quan và phương pháp luận triết
học đúng đắn thì bản thân nhà khoa học có thể đưa ra những kết luận sai
lầm về triết học.
+ Triết học và giả khoa học. Tri thức và niềm tin.
- Nhận thức là một quá trình phức tạp, và kết quả thu được vô cùng
phong phú, phản ánh cách tiếp cận khác nhau của con người về thế giới
xung quanh và về chính mình. Cần phân biệt những lầm lẫn trong công việc
23
nghiên cứu, dẫn đến các nhận định thoạt đầu được xem là khoa học, nhưng
dần dần bị đào thải qua kiểm nghiệm thực tiễn, với sự mạo danh khoa học,
trong đó có khoa học giả hiệu. Lịch sử từng biết đến các “khoa học” như
chiêm tinh, khoa học huyền bí, ma thuật, phép phù thủy.
Không thể phủ nhận vai trò trị liệu tinh thần, tâm lý của các phép
thuật mang tính chất huyền bí trong những điều kiện lịch sử nhất định , nhất
là trong thời kỳ khủng hoảng xã hội, khi con người mong được giải thoát
khỏi nỗi ám ảnh của cuộc sống bi kịch, hoặc tìm lời giải đáp về số phận cá
nhân. Tuy nhiên, xét về vị trí, ý nghĩa văn hóa chung và chức năng khai sáng
thì khoa học giả hiệu dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều đối lập với thế giới
quan triết học, cũng như tri thức khoa học nói chung. Khoa học giả hiệu tỏ ra
đặc biệt nguy hiểm khi bị sử dụng vì mục đích của các lực lượng thống trị,
gắn với quyền lợi chính trị của một tập đoàn xã hội hay một tổ chức nào đó.
Sự tồn tại các biểu hiện của giả khoa học, ngụy khoa học ngay trong

thế giới hiện đại, quan điểm dung hợp vô nguyên tắc thế giới quan khoa học
và khoa học giả hiệu chứng tỏ rằng vẫn còn nhiều lĩnh vực mà nhận thức con
người chưa vươn tới được.
- Hạn chế của lý trí tạo ra khả năng cho niềm tin, trước hết là niềm tin
mang tính tôn giáo. Niềm tin tôn giáo có tác dụng tích cực ở một số khía
cạnh của đời sống đạo đức, thẩm mỹ, song xét đến cùng nó không thể thay
thế vai trò của tri thức khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Mỗi
thành quả của khoa học lại loại dần ảnh hưởng của niềm tin ở cả bình diện
bản thể luận lẫn bình diện nhận thức luận. Lịch sử nhận thức cho thấy răng
không phải khoa học phát triển dưới ảnh hưởng của tôn giáo, mà chính các
tín điều tôn giáo phải cải biến dưới ảnh hưởng của các phát minh khoa học,
một khi những phát minh này dược thừa nhận như các giá trị phổ biến,
được thể chế hóa, xã hội hóa.
Bên cạnh đó cần lưu ý: - ý nghĩa của đức tin tôn giáo trong đời sống
đạo đức, tinh thần của con người; - không nên chỉ liên tưởng niêm tin với
yếu tố phi lý, hoặc chỉ biết có niềm tin mù quáng. Niềm tin cũng có ý nghĩa
gợi mở, xây dựng sâu sắc.Đó là niềm tin của con người vào khả năng đạt
đến chân lý khách quan – niềm tin vào sự chiến thắng của cái mới, cái hợp
lý. Chủ nghĩa lạc quan, khát vọng sáng tạo tự do thuộc về loại niềm tin này.

LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
(dưới hình thức hỏi v đáp)

CỔ ĐẠI

24
1. Phân tích các đặc điểm cơ bản của triết học phương Tây cổ đại
(tính sơ khai, tính bao trùm về mặt lý luận, tính đa dạng, muôn vẽ về chủ đề
v thế giới quan, tính biện chứng tự pht bẩm sinh, tính nhân văn).
Với gần một thiên niên kỷ tồn tại (thế kỷ VI TCN – V), tư tưởng triết

học phương Tây cổ đại, mà Hy Lạp và La M l đại diện, đã để lại những dấu
ấn đậm nét trên con đường phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại, tạo nên
một trong những thời đại sôi động và bi kịch nhất, thể hiện khát vọng của
con người vươn lên làm chủ tự nhiên, cải biến xã hội và chính bản thân
mình.







Triết học phương Tây cổ đại trải qua ba thời kỳ chính: sơ khai (thế kỷ
VI – V TCN), cực thịnh (V –IV TCN), Hy Lạp hóa, khủng hoảng và suy tàn,
hay thời kỳ văn minh Hy Lạp – La M (thế kỷ III TCN – V). Sự sụp đổ tây bộ
đế quốc La M năm 476 đánh dấu sự cáo chung của thế giới cổ đại phương
Tây, chấm dứt sự tồn tại của một x hội phi nhn tính nhất trong lịch sử - x hội
chiếm hữu nơ lệ.
Có thể thâu tóm ba chủ đề chính của triết học phương Tây cổ đại, từ
thời kỳ hình thành các thị quốc đầu tiên đến khi trường phái cuối cùng bị
đóng cửa vào đầu thế kỷ VI. Trước hết là tìm hiểu tự nhiên. Câu hỏi “thế
giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu?”, “bản tính của thế giới là gì?” cho thấy
nỗ lực của các triết gia mong muốn vượt qua ảnh hưởng của thế giới quan
25
thần thoại, đem đến lời giải đáp hợp lý về thế giới xung quanh và về tác
động của nó đến đời sống con người. Chủ đề tiếp theo là nhận thức. Bắt đầu
từ Ta lét (Thales) và Pitago (Pythagoras) con người không chỉ được xem
như một thành viên của vũ trụ, mà còn luôn chứng tỏ vị thế của mình trước
vũ trụ ấy. Bản thân thuật ngữ “philosophia” cũng nhấn mạnh đến khát vọng
tìm kiếm và khám phá chân lý. Triết học – đó là con đường hướng tới chân

lý. Các nhà triết học ngay từ cổ đại đã tập trung tranh luận về khả năng và
giới hạn của nhận thức, về các phương pháp và phương tiện nhận thức, về
nguồn gốc, cơ sở và tiêu chuẩn của chân lý. Bên cạnh việc đề cao lý trí , óc
khám phá sáng tạo của con người, vẫn còn một số triết gia đứng trước những
diễn biến phức tạp, phi tất định của của đời sống xã hội, đã chủ trương “treo
lửng phán quyết”, rơi vào chủ nghĩa hoài nghi. Chủ đề thứ ba là con người,
xã hội loài người với tất cả những biểu hiện phong phú và phức tạp của nó.
Từ Xôcrát (Socrates) trở đi con người trở thành một trong những điểm nóng
của các cuộc tranh luận triết học. Con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng
nghiên cứu. Chủ đề con người và thiết chế xã hội dành cho con người, cùng
với các chủ đề liên quan đền hoạt động sáng tạo và định hướng giá trị của
con người, được phân tích trong các công trình thẩm mỹ, nghệ thuật, đạo
đức, pháp quyền.
Triết học phương Tây cổ đại không chỉ phản ánh hiện thực của xã hội
chiếm hữu nô lệ, mà còn xây dựng hàng loạt hệ chuẩn tư duy cho các thời
đại sau, tạo nên truyền thống cổ điển trong văn hoá tinh thần phương Tây.
Bằng chứng rõ ràng nhất của truyền thống này là quá trình phục hưng văn
hoá cổ đại vào cuối thế kỷ XIV – thế kỷ XVI và sự phát triển, phổ biến văn
hoá cổ điển vào thời cận đại, đạt đến đỉnh cao tại Đức.
(1) Đặc điểm trước tiên của triết học Hy Lạp ở những thế kỷ đầu tiên,
là tính chất phác, sơ khai của nó, mối liên hệ của nó với thần thoại và tôn
giáo nguyên thủy, đan xen với những mầm mống của tri thức khoa học, phản
ánh trình độ nhận thức chung của xã hội. Sự ra đời của triết học không có
nghĩa kỷ nguyên thần thoại đã hoàn toàn kết thúc. Ở mức độ nhất định, xét
theo cội nguồn, triết học ra đời như nỗ lực tái thiết lại thần thoại bằng
phương tiện của lý trí. Với thời gian, cùng với sự phát triển xã hội, sự phổ
biến tri thức khoa học, những câu chuyện thần thoại dần dần được sử dụng
vào mục đích thể hiện một nhân sinh quan, một triết lý sống. Những khái
niệm có nguồn gốc thần thọai đều được cải biến, duy lý hóa để àm sáng tỏ
thêm tư tưởng của các triết gia, những tư tưởng cần đến giá đỡ của thần

thoại nhằm đáp ứng thói quen ý thức của con người. Nietzsche cho rằng
những nhà tư tưởng Hy Lạp đầu tiên là những con người hồn nhiên và dũng
cảm nhất, chấp nhận “cô đơn trong rạng rỡ hào quang”, sẵn sàng thách đố
thói quen ý thức để dấn bước vào con đường khám phá sáng tạo. Những

×