Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tiểu luận Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (859.19 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
----------

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
GVHD: ThS. Lê Thị Lan
Nhóm 10
Họ và tên

MSSV

Hà Nội, 5/2020

Mã lớp BT


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài........................................................................... 1
3. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của đề tài ........................................ 2
4. Kết cấu của đề tài .......................................................................................... 2
5. Đóng góp của đề tài ...................................................................................... 2
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ 3
Chương 1. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý của vấn đề nghiên
cứu….. .................................................................................................................... 3
1.1. Cơ sở lý luận .............................................................................................. 3


1.1.1. Chủ nghĩa Mác .................................................................................... 3
1.1.2. Chủ nghĩa Lênin .................................................................................. 3
1.1.3. Quốc tế Cộng sản ................................................................................ 3
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................... 4
1.2.1. Cách mạng trong nước ........................................................................ 4
1.2.2. Cách mạng trên thế giới ...................................................................... 5
1.2.3. Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc ......................... 6
1.3. Cơ sở pháp lý ............................................................................................. 8
Chương 2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng, chính trị và tổ
chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ............................................... 9
2.1. Về tư tưởng ................................................................................................ 9
2.1.1. Thời kì ở Pháp (1919 - 1923): Người xác định kẻ thù chính của nhân
dân ta… ............................................................................................................ 9
2.1.2. Thời kì ở Liên Xơ (1923 - 1924): Người tham gia hoạt động quốc tế
và học tập kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng Mười Nga.............................. 10


2.1.3. Thời kì ở Trung Quốc (1924-1927): Hình thành quan niệm lý luận
cách mạng cơ bản ........................................................................................... 10
2.2. Về tổ chức ................................................................................................ 12
2.2.1. Các tổ chức do Người thành lập ra.................................................... 12
2.2.2. Cách thức truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin của Hội Việt Nam cách
mạng Thanh Niên ........................................................................................... 13
2.3. Về chính trị .............................................................................................. 14
Chương 3. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng……. ............................................................................................................ 15
3.1. Hội nghị thành lập Đảng.......................................................................... 15
3.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng .................................................. 17
PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................. 19
LIÊN HỆ THỰC TIỄN ........................................................................................ 20

PHỤ LỤC ............................................................................................................. 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 24


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh ra trong một gia đình nho học yêu nước, lớn lên trên quê hương giàu
truyền thống yêu nước đấu tranh bất khuất, lại được tiếp nhận sự giáo dục của
gia đình theo tư tưởng yêu nước thương dân... Tất cả đã hình thành cho Nguyễn
Ái Quốc lòng căm thù sâu sắc giặc Pháp xâm lược, thông cảm với nỗi khổ của
nhân dân ngay từ thời niên thiếu. Tuy chịu ảnh hưởng tinh thần yêu nước của
cha nhưng bằng trí tuệ thiên tài và sự độc lập trong suy nghĩ đã tạo cho Người
một tư tưởng và chí hướng hồn tồn khác với phong trào yêu nước đường thời.
Người đã sớm nhận thấy những hạn chế, sai lầm của những nhà cách mạng đi
trước nên đã chọn cho mình một hướng đi riêng đó là sang phương Tây, vừa
để học hỏi kinh nghiệm, nghiên cứu lý luận, xem xét tình hình vừa tham gia
trực tiếp vào lao động và đấu tranh trong hàng ngũ công nhân và nhân dân lao
động các nước để tìm con đường cứu nước. Và sự lựa chọn đó đã đưa cách
mạng Việt Nam đến một chặng đường mới, là mốc đánh dấu và cũng là một
bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam - đó là sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Từ nay cách mạng đã có người lãnh đạo và có một đường
lối rõ ràng, giải quyết được sự khủng hoảng lớn đang tồn tại. Vì vậy chúng em
chọn đề tài "Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam" để thấy rõ vai trị của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong
việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nhóm chúng em chọn đề tài này là tìm hiểu về vai trị của lãnh tụ
Hồ Chí Minh trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam để nghiên cứu học
tập môn Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam.


1


3. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Nhiệm vụ nghiên cứu là làm rõ cơ sở lý luận, nghiên cứu thực tiễn, đưa ra
kết luận, kiến nghị, giải pháp thực tiễn.

4. Kết cấu của đề tài
Gồm 3 chương
- Chương 1: Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý.
- Chương 2: Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng, chính
trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Chương 3: Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.

5. Đóng góp của đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách
mạng Việt Nam. Chấm dứt sự khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam, khẳng định giai cấp công nhân Việt Nam từ đây đã nắm
quyền tuyệt đối lãnh đạo cách mạng với đội tiền phong của nó là Đảng Cộng
sản Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã có một đường lối lãnh đạo đúng
đắn được nêu ra trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn cách mạng Việt Nam trở
thành một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự chuẩn bị đầu tiên có tính tất yếu, quyết
định cho những bước phát triển nhảy vọt về sau của cách mạng và lịch sử dân
tộc Việt Nam.

2



PHẦN NỘI DUNG
1. Chương 1. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và cơ sở pháp lý của vấn đề
nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Chủ nghĩa Mác
Chủ nghĩa Mác ra đời năm 1840, ông nghiên cứu xã hội tư bản và khẳng
định rằng sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chú nghĩa xã hội làm tấ yếu khách
qua.
Ở phương Tây, cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và vơ sản diễn ra quyết
liệt, tiêu biểu có các phong trào: công nhân dệt tơ thành phố Li-ông Pháp (18311834), công nhân Xilidi Đức (1844), phong trào Hiến chương Anh (1838-1848).
Các phong trào này đều bị thất bại do thiếu tổ chức, thiểu sự liên kết và không có
lý luận soi đường.
Mác đưa rasứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lật đổ chủ nghĩa tư
bản, xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa.
Năm 1848 Mác tuyên bố: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, đưa ra quy luật ra
đời của Đảng Cộng sản: chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân.
1.1.2. Chủ nghĩa Lênin
Bối cảnh lịch sử: chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, hệ
thống thuộc địa ra đời trên khắp thế giới, mâu thuẫn dân tộc ngày càng trở nên gay
gắt.
Tất yếu: “sẽ khơng có một phong trào vững chắc nếu khơng có Đảng vững
chắc lãnh đạo, hãy cho tôi một tổ chức của những người cộng sản, tôi sẽ làm đảo
lộn cả nước Nga này”.
Lênin chỉ rõ: Đảng Cộng sản = Chủ nghĩa Mác + phong trào công nhân.
1.1.3. Quốc tế Cộng sản
Đảng Cộng sản = Chủ nghĩa Mác + phong trào công nhân.
3



1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Cách mạng trong nước
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế
kỉ XIX.
Tiêu biểu là các phong trào cần Vương, cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
Các cuộc khởi nghĩa này tuy diễn ra sơi nổi nhưng đều khơng thành cơng.

Hình 1. 1. Vua Hàm Nghi lãnh đạo
phong trào cần Vương

Hình 1. 2. Hoàng Hoa Thám lãnh
đạo khởi nghĩa Yên Thế

- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đầu thế kỉ XX.
Các phong trào giải phóng dân tộc do các sĩ phu lãnh đạo, tiêu biểu như:

Hình 1. 3. Phan Bội Châu chủ trương dùng biện
pháp bạo động nhờ sự giúp đỡ của Nhật

Hình 1. 4. Con đường
cải lương

Ngồi ra cịn có các phong trào đấu tranh khác nhưng cũng đều thất bại.
4


Như vậy, các phong trào này đều không thành công, qua đó đã thể hiện:
• Truyền thống u nước, tinh thần bất khuất vì độc lập tự do của dân tộc Việt
Nam.

• Tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin và quan
điểm cách mạng của Hồ Chí Minh.
• Tạo cơ sở cho phong trào yêu nước trở thành một trong ba nhân tố dẫn đến
sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
• Sự yếu kém trong tiến trình giải phóng dân tộc của giai cấp tư sản.
• Những hạn chế về giai cấp, đường lối chính trị, hệ thống tổ chức thiếu chặt
chẽ, chưa tập hợp rộng rãi được lực lượng dân tộc.
Nhìn thấy được con đường cứu nước của những nhà yêu nước đã lâm vào
bế tắc, Nguyễn Ái Quốc quyết tâm rời quê hương đi tìm con đường cứu nước mới,
tìm con đường giải phóng dân tộc.
1.2.2. Cách mạng trên thế giới
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi, nhà nước của liên
minh công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Bơn-sơ-vích Nga ra đời, chứng tỏ
q trình hiện thực hóa của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời mở đầu một thời
đại mới – “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cuộc
cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nêu
tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức ở các nước thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: Cách mạng tháng Mười như tiếng sét đánh thức
nhân dân chấu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay.
Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời gắn với vai trò sáng
lập của Lênin. Sự xuất hiện của Quốc tế III thúc đẩy hơn nữa sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Sơ thảo lần thứ nhất những
Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được công bố tại Đại
hội II Quốc tế Cộng sản (1920) chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân

5


tộc thuộc địa, mở ra con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường
cách mạng vô sản.

Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền
bá CN Mác – Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc nhấn
mạnh “An Nam muốn làm cách mệnh thành công thì tất phải nhờ Đệ tam quốc
tế”.
1.2.3. Quá trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
- Ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
- Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy và nghiên
cứu được những vấn đề hết sức có ý nghĩa trong việc giải phóng dân tộc qua
các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới.
• Người nhận ra sâu sắc những hạn chế của các nhà yêu nước đường
thời. Mặc dù khâm phục lòng yêu nước nhưng Người không đồng ý
đi theo con đường cứu nước của họ. Và ở đây Nguyễn Ái Quốc đã
vượt qua hạn chết của tầm nhìn để tìm cho dân tộc mình một con
đường cứu nước khác.
• Người đã thấy được cách mạng dân chủ tư sản không thể đưa lại độc
lập và hạnh phúc thực sự cho nhân dân các nước nói chung và nhân
dân Việt Nam nói riêng.
• Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc tế
Cộng sản.
- Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Khi cách mạng tháng Mười Nga
thành công, Người tham gia các hoạt động chính trị sơi nổi. Và vào tháng
6, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam tại Pháp
gửi “Bản yêu sách 8 điểm” đến Hội nghị Vécxai, nhằm tố cáo chính sách
của Pháp và địi Chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ và
quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Dù khơng được chấp nhận nhưng
nó cũng đã gây tiếng van với nhân dân Pháp và các nước thuộc địa Pháp.

6



Hình 1. 5. Bản yêu sách của nhân dân An Nam
do Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc xai
- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người vô cùng phấn khởi
và tin tưởng, vì Luận cương đã chỉ rõ cho Người thấy con đường để giải
phóng dân tộc mình.
“Luận cương đến Bác Hồ và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin”
(Người đi tìm hình của nước – Chế Lan Viên)
- Tháng 12/1920, Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tán thành Quốc tế
thứ ba, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản,
trở thành một trong những nhà sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người
Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.

7


Hình 1. 6. Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp
- Và từ đây, Nguyễn Ái Quốc nhận ra: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
- Như vậy, đã thấy Nguyễn Ái Quốc khác với các nhà yêu nước đương thời,
Người có một phương pháp nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo, đem lý
luận đối chiếu với thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội làm tiêu chuẩn đánh giá các học thuyết, tiếp thu kinh nghiệm cách mạng
thế giới có chọn lọc.
- Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc đã được thể hiện
nổi bật trong việc vận dụng học thuyết Mác – Lênin, vạch ra đường lối cứu
nước đúng đắn cho dân tộc ta.


1.3.

Cơ sở pháp lý

Đề tài “Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc chuẩn bị thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam” là một đề tài do ThS. Lê Thị Lan đưa ra trong môn
Đường lối Cách mạng Việt Nam để sinh viên nghiên cứu. Chúng em chọn đề tài
này để nghiên cứu và học tập môn Đường lối Cách mạng Việt Nam.
8


2. Chương 2. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng, chính
trị và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1. Về tư tưởng
2.1.1. Thời kì ở Pháp (1919 - 1923): Người xác định kẻ thù chính của nhân
dân ta
Do cách mạng thuộc địa không được quan tâm đúng mức nên Nguyễn Ái
Quốc đã đi sâu nghiên cứu, tham gia vào các diễn đàn, viết báo,… để tuyên truyền
về vấn đề thuộc địa và cách mạng thuộc địa.
Cuối năm 1917, Người lao vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Pháp,
tham gia Đảng xã hội Pháp, lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước với tờ
báo “Việt Nam hồn” để tuyên truyền giáo dục Việt Kiều ở Pháp.
Năm 1921, Người cùng một số nhà yêu nước của các nước thuộc địa khác
như: Angieri, Tuynidi, Maroc,… thành lập “Hội liên hiệp thuộc địa” để tuyên
truyền, tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc.
Năm 1922: Ra báo “Le Paria” (Người cùng khổ) vạch trần chính sách đàn
áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc, góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp
bức đứng lên tự giải phóng. Nguyễn Ái Quốc là người phụ trách chính của tờ báo.

Hình 2. 1. Tờ báo “Người cùng khổ”

Năm 1925, được sự giúp đỡ của những người cộng sản Pháp, tác phẩm “Bản
án chế độ thực dân Pháp” của đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp
9


được xuất bản lần đầu tiên ở Pari. Tư tưởng, quan điểm cơ bản của Người về chiến
lược và sách lược cách mạng thuộc địa đã bước đầu thể hiện trong tác phẩm.
Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước nhân dân Pháp và thế giới những
tội ác của bọn thực dân không chỉ ở Việt Nam, Angieri mà ở khắp các thuộc địa.
Bằng biểu tượng “con đỉa hai vòi”, Nguyễn Ái Quốc đã làm cho người đọc thấy
rằng: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột ở các nước chính quốc và các dân tộc thuộc
địa . Bản án chế độ thực dân Pháp đã góp phần vào việc thiết lập sự liên minh giữa
cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc với các nước
thuộc địa phải thực hiện sự liên minh chặt chẽ với nhau để chống kẻ thù chung, vì
“chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp công nhân quốc tế giành được
thắng lợi cuối cùng”.
2.1.2. Thời kì ở Liên Xơ (1923 - 1924): Người tham gia hoạt động quốc tế và
học tập kinh nghiệm từ Cách mạng Tháng Mười Nga
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật từ Pari sang Liên Xô dự Hội nghị
Quốc tế nông dân lần thứ nhất (10-1923), và Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V
(7-1924),…
Ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tích cực nghiên cứu các vấn đề về dân tộc và
thuộc địa. Người đã có các tham luận quan trọng tại các đại hội quốc tế, viết nhiều
bài cho các báo “Sự thật” – cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng Sản Liên Xơ, tạp
chí “Thư tín Quốc tế” của Quốc tế Cộng Sản.
Nguyễn Ái Quốc tiếp tục phát triển và hoàn thiện them tư tưởng về cách
mạng giải phóng dân tộc, thơng qua hoạt động thực tiễn và nghiên cứu sách báo
macxit. Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa với
cách mạng chính quốc, về vai trị của giai cấp nơng dân trong sự nghiệp giải phóng

dân tộc. Đây là bước chuẩn bị quan trọng về chính trị, tư tưởng cho sự thành lập
Đảng Cộng Sản ở Việt Nam.
2.1.3. Thời kì ở Trung Quốc (1924-1927): Hình thành quan niệm lý luận cách
mạng cơ bản
10


Tháng 11 năm 1924, với tư cách là ủy viên Bộ phương Đông của Quốc tế
cộng sản, Trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, Nguyễn Ái Quốc đã từ Liên Xô
đến Quảng Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng phong trào và đào tạo cán
bộ cách mạng cho một số nước ở Đơng Nam Á. Tại đây, đồng chí đã cùng với các
nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Indonexia, Malayxia,…
sáng lập ra Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á- Đông.
Tháng 6-1925, Người thanh lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,
chương trình và điều lệ của Hội nêu rõ mục đích là: làm cách mạng dân tộc và
cách mạng thế giới. Sau khi cách mạng thành công, Hội chủ trương thành lập chính
phủ nhân dân, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, tiến lên xây dựng xã hội cộng
sản chủ nghĩa, thực hiện đồn kết với giai cấp vơ sản các nước, với phong trao
cách mạng thế giới.
Từ năm 1925 đến năm 1927, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã mở
các lớp huấn luyện chinh trị cho cán bộ cách mạng Việt Nam. Hội đã xây dựng
được nhiều cơ sở ở các trung tâm kinh tế, chinh trị trong nước. Năm 1928, Hội
thực hiện chủ trương “vơ sản hóa”, đưa hội viên vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền
để rèn luyện lập trường, quan điểm giai cấp công nhân, để truyền bá chủ nghĩa
Mac – Lenin và lý luận giải phóng dân tộc nhằm thúc đẩy sự phát triển của phong
trao cách mạng Việt Nam.
Đầu năm 1927, cuốn “Đường Kách Mệnh” gồm những bài giảng của Người
trong các lớp đào tạo cán bộ ở Quảng Châu được Bộ tuyên truyền của Hội liên
hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á- Đông xuất bản. Trong tác phẩm quan trọng này,
đồng chí Nguyễn Ái Quốc nêu ra những tư tưởng cơ bản về chiến lược và sách

lược của cách mạng Việt Nam.
“Đường Kách Mệnh” chỉ rõ đối tượng đấu tranh của cách mạng Việt Nam
là tư bản đế quốc chủ nghĩa, phong kiến địa chủ; đồng thời, chỉ rõ động lực và lực
lượng cách mạng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng là việc chung của cả
dân chúng chứ khơng phải của một hai người, do đó phải đồn kết tồn dân. Nhưng
cái cốt của nó là cơng – nông và phải luôn ghi nhớ rằng công – nông là người chủ
cách mệnh, công- nông là gốc của cách mệnh.
11


Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một
Đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành cơng cũng như người cầm
lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt,
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lenin.
Về phương pháp cách mạng, Người nhấn mạnh đến việc giác ngộ và tổ chức
quần chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích cách mạng,
biết đồng tâm hợp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình, làm cho cách mạng biết
cách làm, phải có “mưu chước”, có như thế mới đảm bảo thành công cho cuộc
khởi nghĩa với sự nổi dậy của toàn dân.
Tác phẩm “Đường Kách Mệnh” đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của
một cương lĩnh chính trị, chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam. “Đường Kách Mệnh” có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối
với cách mạng Việt Nam. Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và tác
phẩm Đường cách mệnh đã trực tiếp chuẩn bị về tư tưởng, lý luận chính trị và tổ
chức cho việc thành lập Đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam.

2.2. Về tổ chức
2.2.1. Các tổ chức do Người thành lập ra
Năm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng
với một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa của Pháp lập ra Hội liên

Hiệp Thuộc địa nhằm tập hợp tất cả những người ở thuộc địa sống trên đất Pháp
đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Hội quyết định xuất bản tờ báo Người cùng
khổ, do Bác làm chủ nhiệm kế bút.
Cuối năm 1921, tại đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp họp ở
Macxay, Người đã trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề “Chủ nghĩa cộng sản và
thuộc địa” và ý kiến thành lập Ban Nghiên Cứu thuộc địa trực thuộc ủy ban Trung
ương Đảng Cộng sản Pháp. Kiến nghị đó được Đại hội chấp nhận. Năm 1922, Ban
nghiên cứu thuộc địa được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu về vấn đề Đông
Dương.
12


Tháng 6-1925, Người sáng lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh Niên, hạt
nhân là Cộng sản đoàn. Cơ quan tuyên truyền của Hội là tuần báo cáo Thanh Niên.
Đây là một bước chuẩn bị có ý nghĩa quyết định về mặt tổ chức cho sự ra đời Đảng
Cộng sản Việt Nam. Từ 1925-1927, người mở nhiều lớp huấn luyện chính trị ở
Quảng Châu, đào tạo một đội ngũ cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Sau các khóa
học một số được chọn đi học ở trường Đại học Phương Đông của Quốc tế Cộng
Sản, một số được cử đi học trường qn sự Hồng Phố, cịn phần lớn trở về nước
để “truyền bá lí luận giải phóng dân tộc, và tổ chức nhân dân”.
2.2.2. Cách thức truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin của Hội Việt Nam cách
mạng Thanh Niên
Sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh
vào trong phong trào cơng nhân và phong trào yêu nước gắn liền với xây dựng các
tổ chức cơ sở của Hội ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị quan trọng. Số hội viên
của Hội tang mạnh. Năm 1928, có 3 trăm hội viên, năm 1929 có 1700 hội viên.
Tổ chức cũng được xây dựng trong nhiều nhà máy, hầm mỏ. Một số đảng viên
tiên tiến trong Tân Việt cũng ngả mũ theo Hội, nhiều người đã trở thành hội viên
của Hội. Việc truyền bá lý luận giải phóng dân tộc và tổ chức vận động nhân dân
dấy lên một phong trào dân tộc chủ ở Việt Nam ngày càng mạnh mẽ, đặc biệt là

phong trào công nhân.
Trong những năm 1926-1929, phong trào công nhân đã có sự lãnh đạo của
các tổ chức như Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Công hội đỏ và các tổ chức
cộng sản ra đời trong năm 1929. Ở giai đoạn này nhiều cuộc bãi công diễn ra. Từ
năm 1928 đến năm 1929, có khoảng 40 cuộc đấu tranh của cơng nhân diễn ra trong
tồn quốc. Các cuộc đấu tranh của cơng nhân điễn ra trên tồn quốc. Các cuộc đấu
tranh của công nhân Việt Nam trong những năm 1926- 1929 mang tính chart chính
trị rõ rệt. Mỗi cuộc đấu tranh đã có sự liên kết giữa các nhà máy, các ngành và các
địa phương. Phong trào công nhân có sức lơi cuốn phong trào dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản.

13


2.3.

Về chính trị

Sự chuẩn bị về chính trị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của
Nguyễn Ái Quốc được thể hiện thơng qua việc hình thành các quan điểm sau đây,
trong đó ảnh hưởng lớn nhất là cuốn “Đường Kách Mệnh”
- Chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ
thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trên thế giới.
- Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng vơ sản
thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng
chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng không
phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành cơng trước
cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc.
- Trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đơng đảo nhất, bị

đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và lôi
cuốn được nông dân, cần phải xây dựng khối công nông làm động lực cách
mạng, đồng thời tập hợp được sự tham gia đông đảo của các giai cấp tầng
lớp khác tham gia.
- Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có Đảng Cách mạng
nắm vai trị lãnh đạo. Đảng muốn vững phải được trang bị chủ nghĩa Mác –
Lênin.
- Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải của một
vài người, “công nông là gốc của cách mệnh; cịn học trị, nhà bn nhỏ,
điền chủ nhỏ… là bầu bạn cách mệnh của công nông”. Cách mạng “là việc
chung của cả dân chúng chứ khơng phải là việc của một hai người”. Vì vậy
cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ
thấp đến cao.
Những quan điểm này đã được Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên truyền
bá trong nước dưới nhiều hình thức, làm cho phong trào cơng nhân và phong trào
u nước Việt Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ. Sau này, các quan điểm được
phát triển thành những nội dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị của Đảng.
14


3. Chương 3. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng.
3.1. Hội nghị thành lập Đảng
- Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
Đến năm 1929, phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta đã
phát triển mạnh mẽ, địi hỏi có sự lãnh đạo thống nhất của một Đảng cách mạng.
Tháng 6/1929, tại nhà số 213 Khâm Thiên – Hà Nội, đại biểu các tổ chức
cơ sở cộng sản ở miền Bắc đại hội, quyết định thành lập Đông Dương Cộng Sản
Đảng, thông qua tuyên ngôn, điều lệ, quyết định xuất bản báo Búa Liềm và cử ra
Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng.

An Nam Cộng Sản Đảng thành lập vào mùa thu năm 1929, do các Đại biểu
trong hội trong hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Trung Quốc và Nam kỳ
thành lập. Sự ra đời của hai tổ chức cộng sản trên làm cho nội bộ Đảng Tân Việt
phân hóa, những Đảng viên tiên tiến của Tân Việt đứng ra thành lập Đông Dương
Cộng Sản Liên Đoàn.
Mặc dù đều giương cao ngọn cờ chống đế quốc, phong kiến, xây dựng chủ
nghĩa cộng sản ở Việt Nam, nhưng ba tổ chức cộng sản trên hoạt động phân tán,
chia rẽ đã ảnh hưởng xấu đến phong trào cách mạng Việt Nam lúc này. Vì vậy,
việc khắc phục sự chia rẽ, phân tán giữa các giữa các tổ chức cộng sản là yêu cầu
cấp thiết của cách mạng nước ta, là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả người
Cộng sản Việt Nam.
- Hội nghị thành lập Đảng
Ngày 27/10/1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người Cộng Sản Đông
Dương tài liệu “Về việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương”, yêu cầu
những người cộng sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ giữa các nhóm
cộng sản và thành lập một Đảng giai cấp vơ sản. Nhận được tin về sự chia rẽ của
những người cộng sản ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đến Trung
Quốc. Người chủ trì Hội Nghị hợp nhất Đảng, tại Hương Cảng, Trung Quốc. “Với
tư cách là Phát Viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn
15


đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương”. Người chủ động triệu tập
“Đại biểu của hai nhóm (Đơng Dương và An Nam)” và chủ trì Hội Nghị hợp nhất
Đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc). Hội nghị bắt đầu họp từ ngày
6/1/1930.
Thành phần hội nghị hợp nhất gồm
1. Đại biểu Quốc tế Cộng Sản
2. Đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng
3. Đại biểu An Nam Cộng sản Đảng

Hội nghị thảo luận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc gồm 5 điểm lớn, với nội dung:
1. Bỏ thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm
cộng sản ở Đơng Dương
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam
3. Thảo Chính Cương và Điều lệ sơ lược của Đảng
4. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước
5. Cử một ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại
biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương.
Hội nghị nhất trí với Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc và
quyết định hợp nhất các tổ chức cộng sản, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo ra. Ngày 24/2/1930, theo yêu cầu của Đơng Dương Cộng Sản Liên Đồn,
ban Chấp hành trung ương lâm thời họp và ra quyết định chấp nhận Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã hoàn tất việc hợp nhất ba tổ chức Cộng sản ở Việt Nam.

16


Hình 3. 1. Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng
3.2.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Các văn kiện được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam như: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương
trình tóm tắt của Đảng hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
• Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “tư sản dân quyền

cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
• Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng là đánh
đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho Việt Nam hồn tồn
độc lập. Sau đó lập chính phủ cơng nơng bình, tổ chức qn đội cơng nơng.
Về kinh tế thì thủ tiêu hết các thứ quốc trái, tịch thu toàn bộ sản nghiệp của
tư bản đế quốc Pháp để giao cho chính phủ cơng nơng binh quản lý. Tịch
thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa chia cho dân nghèo, bãi
bỏ sưu thế, Về văn hóa thì phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hóa, nam nữ
bình đẳng,…
• Về lực lượng cách mạng: Lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân và
nông dân nhưng bên cạnh đó cũng phải liên minh đồn kết với tiểu tư sản,
lợi dụng hoặc trung lập phú nông, tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam chưa rõ
mặt phản cách mạng.
17


• Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng
Việt Nam. Đảng là đội tiên phong cho giai cấp vơ sản.
• Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới:
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực
hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là
giai cấp vô sản Pháp.

Ý nghĩa của cương lĩnh chính trị
• Xác định đúng đắn con đường giải phóng dân tộc và phương hướng phát
triển của cách mạng Việt Nam.
• Giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối Cách Mạng Việt Nam.
• Nắm được ngọn cờ lãnh đạo Cách Mạng Việt Nam.
• Thực tiễn quá trình vận động của Cách mạng Việt Nam trong gần 80 năm
qua đã chứng minh rõ tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và

tiến bộ của Cương Lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

18


PHẦN KẾT LUẬN
Qua những gì đã tìm hiểu ở trên ta thấy được rằng:
- Sau gần 10 năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa
Mác – Lênin, tìm thấy con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc đồng thời
đó là cơ sở lý luận của Đảng.
- Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự thành
lập của Đảng Cộng sản Việt Nam:
• Tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào nước ta thông qua sách báo:
Nhân đạo, Đời sống công nhân, Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường
cách mạng v.v...
• Thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên truyền bá chủ nghĩa
Mác – Lênin chuẩn bị thành lập Đảng.
- Đến 1929, ba tổ chức Cộng sản ra đời nhưng lại cơng kích lẫn nhau. u
cầu của lịch sử cần phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước.
Với thiên tài và uy tín, Nguyễn Ái Quốc đã thống nhất 3 tổ chức cộng sản
thành 1 Đảng duy nhất – Đảng cộng sản Việt Nam.
- Người đã vạch ra cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đặt nền tảng cho
đường nối cách mạnh của Đảng ta.
Tóm lại Hồ Chí Minh có vai trị rất lớn đối với sự thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Có thể nói Bác là người sáng lập ra Cộng sản Việt Nam.

19


LIÊN HỆ THỰC TIỄN


Dù Bác đã cách xa chúng ta hơn 40 năm nhưng vai trò của Người đối với
Đảng và cuộc sống chúng ta hôm nay vẫn rất lớn. Tư tưởng của Người không chỉ
làm kim chỉ nam cho định hướng, chính sách của Đảng mà cịn đóng góp giáo dục
thế hệ thanh thiếu niên hôm nay luôn kiên định với con đường xã hội chủ nghĩa
mà Người đã dày cơng vun đắp. Qua những gì ta chứng minh ở trên ta thấy được
rằng Người đóng vai trị rất lớn đối với việc thành lập Đảng. Trong những năm
tháng chiến tranh cũng chính là Người đã dìu dắt Đảng ta, nhân dân ta vượt qua
những khó khăn để dành được thắng lợi cuối cùng. Trong công cuộc đổi mới hôm
nay, chúng ta đã tiến hành nhiều cải cách để thay đổi phù hợp với yêu cầu khách
quan thực tiễn. Thế nhưng vẫn luôn tuyệt đối trung thành theo con đường vô sản
mà Người đã chọn.
Bác là người đã đặt nền móng cho chủ nghĩa vơ sản ở đất nước ta, và từ
những tư tưởng của Người đã được Đảng và nhân dân áp dụng sáng tạo trong công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hơm nay. Qn triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh , Đảng ta đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trên tất cả các mặt : tư tưởng –
lí luận, chính trị tổ chức và cán bộ đạo đức, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh,
đạt tầm cao về đạo đức, trí tuệ bản lĩnh chính trị vững vàng trước mọi thử thách
của lịch sử.
Về chính trị: có đường lối chính trị đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững vàng
trong mọi tình huống phức tạp, một đường lối cứng rắn về chiến lược, mềm dẻo
về sách lược, linh hoạt về biện pháp đấu tranh. Đặc biệt trong tình hình chính trị
thế giới hiện nay, với những cuộc xung đột liên quan đến vũ trang hạt nhân thì
Đảng ta cần phải có một bản lĩnh vững vàng để bảo vê đất nước. Hiện nay, Việt
Nam đã quyết định khơng cho nước ngồi th cảng Cam Ranh nữa, mà quyết
định tự mình xây dựng cảng Cam Ranh bằng nguồn lực của chính mình và sẽ sẵn
sàng cũng cấp dịch vụ cho tàu hải quân tất cả các quốc gia. Đây là một đường lối
đúng đắn, chúng ta khơng nghiêng về phía cường quốc kinh tế nào nữa, mà sẽ tự
dựa vào sức mình xây dựng cảng có vị trí tự nhiên tốt cũng như quân sự quan
20



trọng này. Hơn nữa trong các cuộc tranh chấp của các nước, chủ trương của Đảng
là trung lập không theo phe phái nào. Tình hình thế giới hiện nay đang ngày càng
phức tạp, tranh chấp trên Biển Đông cũng đang xấu đi. Nhưng vẫn theo những
đường lối mềm dẻo mà Bác đã áp dụng khi nước ta vừa dành được độc lập nằm
1945, chủ trương của Đảng vẫn là giải quyết các cuộc tranh chấp trên cơ sở các
cuộc đàm phán ngoại giao, thỏa hiệp. Tuy nhiên như thế cũng không phải chúng
ta nhường nhịn, chúng ta vẫn luôn cứng rắn bảo vệ chủ quyền đất nước ta, chuẩn
bị các vũ khí tối tân nhằm trường hợp xấu nhất có thể xảy ra. Tuân theo di nguyện
của Người, Đảng và nhân dân quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền cho đất nước,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trường tồn.
Về tư tưởng: Sự đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được chứng minh
qua những thắng lợi trong chiến tranh. Và giờ đây khi đất nước trong quá trình hội
nhập với thế giới, cuộc chiến về diễn biến hịa bình cũng thầm lặng và cam go hơn
hết. Trách nhiệm của Đảng khơng chỉ duy trì những tinh hoa từ tư tưởng của Người
mà còn phải phát huy sáng tạo trước nhưng điều kiện và hoàn cảnh mới. Bác đã
thành lập và đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội ở đất nước ta, con đường của
Người đã giải phóng ách nơ lệ cho đồng bào ta. Vì thế mỗi người hơm nay phải
phát huy tích cực hơn nữa xây dựng đất nước càng ngày càng giàu đẹp phồn vinh
và kiên định theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Bác đã chọn.
Về đạo đức, lối sống: Khi còn sống Bác vẫn thường căn dặn cán bộ, đảng
viên phải coi trọng tu dưỡng đạo đức, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Thế
nhưng hiện nay những đức tính này dần dần đã bị suy thối, và những hạn chế này
đã làm giảm sút nghiêm trọng niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bởi vẫn có
những người tham ơ, lãng phí, gần đây nhất là vụ việc vinashin đã làm thất thoát
hơn 86.000 tỉ đồng, hay vụ án PMU 18 mặc dù đã xảy ra đã lâu nhưng vẫn để lại
những hậu quả nghiêm trọng. Những người đứng trong hàng ngũ của Đảng, giữ
chức vụ cao không nêu gương đạo đức tốt mà cịn tha hóa suy đồi là nhưng điều
cần được xem lại để có những biện pháp ngăn chặn và đẩy lùi. Sự việc chủ tịch

tỉnh Hà Giang buông thả trong lối sống gây ra làn sóng bất bình trong Đảng và xã
hội, ơng đã phải chịu những hình phạt thích đáng.
21


Tuy nhiên, chúng ta cũng đã đạt được nhiều thành tựu trong công tác xây
dựng Đảng cầm quyền. Được chiếu rọi bởi ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đang
quyết tâm xây dựng và chỉnh đốn về mọi mặt một cách thiết thực, đáp ứng nhu
cầu phát triển của giai cấp và dân tộc là quy luật tồn tại sống cịn của Đảng. Chính
trên ý nghĩa quan trọng đó, việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh phải
được quán triệt đến từng tổ chức cơ sở Đảng, từng cán bộ, đảng viên.

22


×