Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tổng hợp đề cương môn CHÍNH TRỊ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.32 KB, 16 trang )

Câu 3: Phân tích sự hình thành và phát triển của thuyết ‘‘Tam quyền phân
lập’’. Ý nghĩa của nó?
Trả lời:
‘‘Tam quyền phân lập’’ hay còn hiểu theo nghĩa phân chia quyền lực là một mơ
hình quản lý nhà nước với mục tiêu kiềm chế quyền lực để hạn chế lạm quyền, bảo vệ
tự do và cơng bằng pháp luật.
Mơ hình và khái niệm này và khái niệm này được biết đến từ lâu, ít nhất là từ
thời La Mã cổ đại và được thể chế hóa trong hiến pháp hiện đại của nhiều quốc gia.
Trong mơ hình này, quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp được tách biệt
và giao cho ba cơ quan độc lập khác nhau thực hiện và qua đó ràng buộc, kiềm tra và
giám sát hoạt động lẫn nhau. Theo thể chế này, không một cơ quan hay cá nhân nào có
quyền lực tuyệt đối trong sinh hoạt chính trị của một quốc gia.
Người đưa ra ý tưởng phân chia quyền lực nhà nước đầu tiên là Platôn (427-347
trước công nguyên) thời kỳ Hy Lạp cổ đại. Kế tiếp là Arixtốt (384-322 tr.CN) được
xem như người khởi xứng tư tưởng tam quyền phân lập trong bối cảnh chế độ thành
bang của Hy Lạp đang suy tàn, chế độ chiếm hữu nô lệ đã lung lay đến gốc rễ. Tư
tưởng về tam quyền của Arixtốt nhằm để tránh độc quyền của nhà nước, vì vậy theo
ông cần phải phân chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh cơ quan quyền lực, ông
gọi là: lập pháp, hành pháp và phân xử.
Bên cạnh Arixtốt, cịn có John Locke (1632-1704) triết gia người Anh. Theo
John Locke, quyền lực của nhà nước là quyền lực của nhân dân. Nhân dân nhường
một phần quyền của mình cho nhà nước qua khế ước. Và để chống độc tài phải thực
hiện sự phân quyền. kế thừa tư tưởng phân quyền của Arixtốt, John Locke cho rằng,
quyền lưc phải phân chia ba lĩnh vực: lập pháp, hành pháp và liên hợp.
Ngồi ra thì cịn có người đóng góp lớn nhất trong việc phát triển nó một cách
hồn chỉnh, đó là nhà luật học người PhápS.Montesquieu (1689-1755). Montesquieu
xây dựng những thể chế chính trị đảm bảo tự do cho các công dân. Tự do chính trị của
cơng dân là quyền mà người ta có thể làm mọi cái mà pháp luật cho phép. Ông cho
rằng, thể ché chính trị tự do là thể chế mà trong đó, quyền lực tối cao được phân thành
ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tam quyền phân lập là nội dung học thuyết của Montesquieu, trong đó phân


chia quyền lực nhà nước cho ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mục đích là để
tạo cơ chế nội bộ giám sát, ngăn ngừa sự lạm quyền trong bộ máy nhà nước. Trong


thực tế, tư tưởng về việc phân chia quyền lực trong tổ chức nhà nước đã được đề cập
bởi một số nhà triết học khác, bao gồm John Locke, và đã được áp dụng (ở mức độ
nhất định) từ thời La Mã cổ đại.
Tuy nhiên, chỉ đến Montesquieu thì tư tưởng này mới được phát triển thành một
học thuyết độc lập, hoàn chỉnh. Học thuyết tam quyền phân lập được áp dụng một
cách phổ biến trong hiến pháp của các nước tư sản (mà điển hình là Hiến pháp Hoa
Kỳ). Dựa trên học thuyết này, hiến pháp của các nước tư sản giao quyền lập pháp cho
nghị viện (là cơ quan đại diện được bầu ra bằng tuyển cử, được coi là biểu hiện ý chí
chung của quốc gia), quyền hành pháp cho chính phủ (là cơ quan có trách nhiệm thực
thi luật pháp đã được nhà nước ban hành), quyền tư pháp cho toà án (để phán xử
những vi phạm pháp luật).
Bên cạnh đó, tuỳ quốc gia, hiến pháp cịn có nhiều quy định về mối quan hệ
ràng buộc giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ví dụ, theo Hiến pháp Hoa
Kỳ, Nghị viện có quyền thơng qua luật nhưng để có hiệu lực phải được Tổng thống ký
phê chuẩn. Ngược lại, Tổng thống có quyền ký kết các điều ước quốc tế nhưng phải
được Thượng viện phê chuẩn. Từ sau vụ Marbury kiện Madison, nhánh tư pháp ở Hoa
Kỳ có quyền xem xét các đạo luật đã được ban hành liệu có vi hiến hay khơng … Tính
đến nay, sự phân quyền và ràng buộc theo học thuyết tam quyền phân lập tạo ra cơ chế
nội bộ hữu hiệu nhất để các nhánh quyền lực nhà nước giám sát, kiềm chế và đối trọng
nhau, ngăn ngừa sự lạm quyền; đồng thời vẫn bảo đảm những mối liên hệ cần thiết
giữa các nhánh quyền lực bị chia tách để những cơ quan này có thể cộng tác với nhau
vì lợi ích chung của đất nước…Chính vì vậy, khơng chỉ hiến pháp các nước tư sản mà
hiến pháp của hầu hết quốc gia trên thế giới hiện nay đều được xây dựng dựa theo lý
thuyết tam quyền phân lập, dù mức độ và cách thức áp dụng ít.
Học thuyết về sự phân chia quyền lực gắn liền với lí luận về pháp luật tự nhiên
đã đóng vai trò quyết định trong lịch sự đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại sự độc

đoán, chuyên quyền của nhà vua chế độ phong kiến. Cùng với sự hình thành chế độ tư
bản, nguyên tắc phân chia quyền lực đã trở thành một trong những nguyên tắc chính
của chủ nghĩa lập hiến tư sản, lần đầu tiên được thể hiện trong các đạo luật mang tính
hiến định của cuộc cách mạng Pháp và sau đó thể hiện đẩy đủ trong Hiến pháp Hoa kỳ
1787. Học thuyết pháp luật – chính trị (thuyết phân quyền) với quyền lực nhà nước
được hiểu không phải là một thể thống nhất, mà là sự phân chia thành ba quyền: quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp, các quyền này được thực hiện độc lập với nhau, kiếm
soát lẫn nhau, kiếm chế và đối trọng lẫn nhau.


Trước chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà
nước đều tập trung vào trong tay một cá nhân. Chính đây là căn nguyên cho mọi hành
vi độc tài, chuyên chế của các cơng việc nhà nước. Vì vậy, muốn chống chế độ này,
một lý thuyết của nhiều học giả tư sản đã được nêu ra, đó là thuyết phân chia quyền
lực.
Nội dung cốt lõi của hoc thuyết này cho rằng, quyền lực nhà nước ln có xu
hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trị của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực sẽ xuất
hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Do vậy, để
đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa hành vi lạm quyền của các
chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước phải thuyết lập pháp chế nhằm giới hạn quyền
lực.
Sự hình thành và phát triển của lý thuyết này gắn liện với quá trình đấu tranh
cho bình đẳng, tự do và tiến bộ xã hội. Lấy pháp luật làm tối thượng, lấy bảo đảm các
quyền tự do cơng dân làm mục đích cuối cùng. Không chỉ vậy, với cơ chế kiếm chế và
đối trọng, kiểm tra và chế ước lẫn nhau giữa ba nhánh quyền lực đã loại trừ được nguy
cơ tập trung tất cả quyền lực nhà nước vào tay một cá nhân, nhóm người hay một cơ
quan quyền lực duy nhất nào đó – nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tha hóa trong q
trình thực thi quyền lực. Nhờ cơ chế này mà khơng cơ quan nhà nước nào có thể chi
phối hoặc lấn át hoàn toàn hoạt động của cơ quan khác.
Ý nghĩa của nó: Trong khn khổ lý thuyết phân quyền, thực tiễn đã hình thành

những chính thể khác nhau phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội và truyền thống văn
hóa của mỗi nước. Ở các nước tư bản, các nhánh quyền lực nhà nước được thể chế
hóa cao độ. Các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp được chuyên nghiệp hóa rất
cao. Cơ chế kiểm sốt quyền lực tỏ rõ tính hiểu quả trong việc hạn chế tình trạng lạm
quyền, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Có thể thấy cho
đến nay, học thuyết phân quyền đã thể hiện và khẳng định những giá trị tiến bộ của nó.
Những giá trị này đã được kiểm chứng trong thực tiễn chính trị hàng trăm năm ở các
nước tư bản phát triển. Đúng như đánh giá của Ăngghen: phân quyền được xem như là
nguyên tắc thiêng liêng và không thể xâm phạm trên thực tế, về thực chất nó khơng có
gì khác là sự phân công công việc lao động được áp dụng đối với bộ máy nhà nước
nhằm đơn giản hóa và để kiểm tra./.
Câu 4:
Phân tích giá trị tư tưởng chính trị C.Mác-Ăngghen và sự vận dụng trong giai đoạn
hiện nay?
Trả lời:


Mở bài:
Phriđrich Ăngghen (1820 – 1895) là người bạn, người đồng chí gần gũi thân
thiết của C.C.Mác, người đã cùng với C.Mác sáng lập học thuyết C.Mác – học thuyết
khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.
Ph.Ăngghen đã cống hiến rất to lớn về tư tưởng, lý luận trở thành lãnh tụ vĩ đại
của giai cấp công nhân và quần chúng cần lao. Những giá trị bền vững của chủ nghĩa
C.Mác - Lênin gắn liền với những giá trị bền vững của tư tưởng Ph.Ăngghen bên cạnh
tư tưởng của C.Mác. Những giá trị đó đã và đang có ý nghĩa soi sáng cho phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện mới, với những yêu cầu
thực tiễn mới mẻ, địi hỏi giai cấp cơng nhân, các Đảng Cộng sản, đảng công nhân
phải vận dụng sáng tạo những tư tưởng của Ph.Ăngghen tiếp tục đấu tranh cho CNXH,
CNCS nhằm thực hiện lý tưởng giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, xóa bỏ mọi áp
bức, bất công, mang lại cuộc sống hạnh phúc và sự phát triển toàn diện cho con người.

Sinh thời Ph.Ăngghen rất khiêm tốn, ln tự nhận mình là “cây vĩ cầm thứ hai
bên cạnh C.Mác”, song những cống hiến to lớn về tư tưởng của Ph.Ăngghen đã được
bản thân C.Mác ghi nhậnlà một khối óc sắc sảo, một pho bách khoa tồn thư.
V.I.Lênin khẳng định: “Muốn đánh giá đúng đắn những quan điểm của C.Mác, tuyệt
đối phải đọc những tác phẩm của người cùng tư tưởng và người cộng tác gần gũi nhất
của C.Mác là Phriđrich Ăngghen. Không thể nào hiểu được chủ nghĩa C.Mác, nếu
khơng chú ý đến tồn bộ những tác phẩm của Ăngghen”(1). Những ai nghiên cứu về
chủ nghĩa C.Mác đều thừa nhận tư tưởng vĩ đại của Ph.Ăngghen bên cạnh tư tưởng
của C.Mác.
Tuyên ngôn của chủ nghĩa Mác là cải tạo thế giới. Trong Luận cương 11 về
Phoiơbắc, Mác viết: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác
nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”. Và với cả cuộc đời mình, Mác đã đưa hết trí tuệ,
tài năng, tâm huyết, phấn đấu hy sinh thực hiện Tuyên ngôn nhân đạo và cách mạng vì
sự tiến bộ của lồi người. Trưng cất tinh hoa của nhân loại, Mác đã xây dựng nên Học
thuyết duy vật biện chứng khoa học, chứng minh quy luật vận động và phát triển của
thế giới, vạch ra sự tất yếu đi lên của xã hội, làm công cụ sắc bén cho giai cấp công
nhân lao động tiến bộ toàn thế giới thực hiện sứ mệnh trọng đại là cải tạo thế giới theo
lý tưởng cao đẹp xã hội chủ nghĩa.
Thân bài:
(Nội dung tham khảo bài viết trên Báo Đảng Cộng sản): Tư tưởng chính trị của
C.Mác, Ph.Ăngghen được hình thành từ cuộc đấu tranh của gia cấp vô sản chống gia
cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản đầu thế kỷ XIX trên cả hai địa hạt lý luận và thực tiễn
với tinh thần phê phán và cách mạng, C.Mác, Ph.Ăngghen đã xây dựng nên cơ sở thế
giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng cho việc hình thành quan niệm
khoa học mới về chính trị. Chính trị là vấn đề giai cấp, quan hệ giai cấp, đấu tranh giai
cấp và đỉnh cao của cuộc đấu tranh này là đấu tranh giành quyền lực cho một giai cấp


nhất định. Bước ngoặt của đấu tranh chính trị là sự bùng nổ cách mạng xã hội, giành
lấy chính quyền nhà nước, lật đổ chế độ cũ và thiết lập chế độ mới. Chính trị là vấn đề

quyền lực, biểu hiện trực tiếp là quyền lực nhà nước và tính hiện thực của quyền lực
lại là lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế. Từ hoạt động thực tiễn và lý luận mà Mác
và Ăngghen ngày càng thấy rõ hơn về vị trí và tầm quan trọng của vấn đề dân chủ
trong cuộc đấu tranh của giai cấp vơ sản chống lại giai cấp tư sản và tồn bộ chế độ tư
bản. Ăngghen cho rằng đó chính là quá trình xây dựng một chế độ dân chủ mới. Bởi
vì, “Trước hết, nó tạo ra một chế độ dân chủ và nhờ đó mà trực tiếp hay gián tiếp tạo
ra quyền thống trị của giai cấp vô sản”. Mác và Ăngghen đã xác định những vấn đề có
tính ngun tắc về dân chủ trong chính đảng của gia cấp vơ sản. Trong các ngun tắc
ấy có ngun tắc bảo đảm dân chủ và tập trung dân chủ trong quá trình xây dựng tổ
chức chính đảng của gia cấp vơ sản. Tập trung dân chủ trở thành một trong những
nguyên tắc có tầm quan trọng hàng đầu trong việc xây dựng chính đảng nhằm tập hợp,
đồn kết giai cấp vơ sản trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Bàn về chống
quan liêu, tham nhũng theo Mác là lợi ích của các giai cấp thống trị áp bức và bóc lột,
những lợi ích vật chất của giai cấp tư sản quện rất chặt với việc duy trì bộ máy rộng
lớn, tha hóa lao động, tha hóa quyền lực là nguồn gốc của quan liêu, tham nhũng. Biện
pháp chủ yếu để chống quan liêu, tham nhũng là khắc phục sự tha hóa là việc cải tạo
lại xã hội theo nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản trong đó có xóa bỏ nhà nước của
giai cấp áp bức bóc lột xây dựng nhà nước kiểu mới của giai cấp vô sản. - Trước hết
Lênin đã bảo vệ thành công chủ nghĩa Mác nói chung và tư tưởng chính trị của chủ
nghĩa Mác nói riêng trước sự xuyên tạc và phản bội của chủ nghĩa cơ hội và xét lại.
Đồng thời, tiếp tục phát triển tư tưởng và làm phong phú và sâu sắc thêm những kiến
giải lý luận của chủ nghĩa Mác trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải
phóng gia cấp vơ sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện lịch sử mới.
- (Nội dung trả lời theo sách giáo khoa): Giá trị của tư tưởng chính trị C.Mác
và Ăngghen:
+ Thứ nhất, giá trị trong quan niệm về chính trị.
Quan niệm của C. mác và Ăng ghen về chính trị dựa trên cơ sở quan niệm duy
vật về lịch sử và phép biện chứng duy vật về sự phát triển xã hội. Theo đó, chính trị là
một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, xuất hiện từ khi xã hội lồi người có giai cấp,
đối kháng và xung đột giai cấp. Cốt lõi của chính trị là vấn đề quyền lực chính trị mà

biểu hiện tập trung của nó là quyền lực nhà nước. Nhà nước là hình thức tổ chức và
thực thi quyền lực của một giai cấp này đối với một giai cấp khác.
Giá trị lý luận lớn nhất của tư tưởng về chính trị là quan điểm: chính trị là việc
giải quyết các mối quan hệ giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội trong vấn đề quyền lực


và phân bổ lợi ích. Cịn nhà nước khơng gì khác hơn là bộ máy cưỡng bức của một
giai cấp này đối với một giai cấp khác vì những lợi ích nhất định, nhất là lợi ích kinh
tế. Tham gia vào động chính trị là tham gia vào cuộc đấu tranh vì lợi ích của một giai
cấp này hay một giai cấp khác. Chính trị là hoạt độn tất yếu khách quan của con người
song ln có nội dung cụ thể phù hợp với một phương thức sản xuất nhất định. Cơ cấu
và các quan hệ kinh tế là cơ sở chủ yếu của chính trị và những thay đổi trong chính trị.
Chính trị hiểu theo nghĩa trực tiếp là vấn đề chính quyền nhà nước, là quyền lực nhà
nước, là công việc quản lý nhà nước đối với xã hội. C. Mác và Ăngghen chỉ rõ:”…
giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị- ngay cả khi quyền thống trị của nó địi hỏi
phải thủ tiêu tồn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống trị nói chung, như trong trường
hợp của giai cấp vơ sản- thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền để đến
lượt mình, có thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến, điều mà
giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bước đầu”.
Theo quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết định cuối cùng trong lịch sử xét
đến cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Chính trị xuất hiện trên cơ
sở kinh tế và xét đến cùng, đều do kinh tế quy định. C. Mác và Ph.Ăng ghen khẳng
định: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật…
đều dự trên cơ sở sự phát triển kinh tế”. Tuy nhiên, chính trị cũng có tính độc lập
tương đối và tác động trở lại đói với kinh tế: “Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng
lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế. Vấn đề hồn tồn khơng phải là chỉ có hồn
cảnh kinh tế mới là ngun nhân, chỉ có nó là tích cực, cịn tất cả những cái cịn lại đều
chỉ là hậu quả thụ động”. Tình hình kinh tế là cơ sở của chính trị, nhưng những yếu tố
khác của kiến trúc thượng tầng cũng ảnh hưởng đến chính trị và trong nhiều trường
hợp cịn chiếm ưu thế trong việc quyết định hình thức của chính trị.

Nhận xét về dặc điểm của chính trị, C. Mác và ăng ghen cho rằng, chính trị là
một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, là một phạm trù lịch sử, xuất hiện từ khi xã hội
lồi người có giai cấp, đối kháng và xung đột giai cấp. Chính trị sẽ tự tiêu vung khi
những điều kiện cho sự tồn tại của nó khơng cịn nữa, khi chính trị đi hết lơ gíc của sự
vận động của nó, khi tính tất yếu kinh tế làm chi tính tất yếu chính trị của sự tiêu vong
đã chín muồi. Về mặt lịch sử, có thể xem xã hội cộng sản nguyên thủy là một xã hội
tiền chính trị. Các chế đội chiếm hữu nỗ lệ, phong kiến, tư bản và cả xã hội chủ nghĩa
đều là những xã hội chính trị, mặc dù xã hội chủ nghĩa là một xã hội chính trị kiểu
mới, trong đó chính trị q độ tới sự tự tiêu vong. Chính trị trong chủ nghĩa xã hội
khác về bản chất so với chính trị trong các xã hội dựa trên nền tảng của chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp. Là một hiện tượng tạm thời của lịch sử,
nhưng chính trị tồn tại rất lâu dài, từ khi có chế độ nơ lệ tới khi chủ nghĩa cộng sản văn
minh được xác lập hoàn toàn. Các quan điểm nêu trên đã cung cấp cơ sở phương pháp


luận để luận giải những vấn đề chính trị thực tiễn hiện nay, tránh xu hướng ảo tưởng
vào “từ tâm” của chủ nghĩa tư bản, vào nhà nước phi giai cấp – như quan điểm dân
chủ xã hội, “con đường thứ ba”.
Chính trị xuất hiện vào giai đoạn xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã và chế độ
chiễm hữu nô lực ra đời cách đây hàng vạn năm. Chủ nô là giai cấp thống trị đầu tiên
trong lịch sử nắm quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và đối lạp trực tiếp với số
đông là quần chúng nô lệ. các cuộc nổi dậy của nô lệ chống lại giai cấp chủ nô là sự
kiện lịch sử đàu tiên về đấu tranh giai cấp. C. Mác và Ăngghe xác định: “Lịch sử tất cả
các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”.
Người tự do và người nô lực, quý tộc và bình dân, chúa đất và nơng nơ, thợi cả
phường hội và thợ bạn, nói tóm lại là những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn
luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai,
lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thức hoặc bằng một cuộc cải tạo
cách mạng toàn bộ xã hội hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau.”
C. mác và Ăngghen cho rằng chính trị mang bản chất giai cấp. thực chất của

chính trj là việc iair quyết vấn đề lợi ích mà trước hết là lợi ích kinh tế. chính trị là vấn
đề giai cấp, quan hệ giai cấp, đấu tranh giai cấp và đỉnh cao của cuộc đấu tranh ấy là
đấu tranh giành quyền lực cho một giai cấp nhất định. Bước ngoặt của đấu tranh chính
trị là sự bùng nổ cách mạng xã hội, giành lấy chính quyền nhà nước, lật đổ chế độ cũ
và thiết lập chế đội mới. Theo C. mác, ăng ghen: “… cách mạng là chính động chính
trị cao nhất… chính trị cần làm là chính trị cơng nhân? Chính trị cơng nhân; chính
đảng cơng nhân khơng được theo đi chính đảng tư sản này hoặc kia mà phải trở
thành một đảng độc lập có mục đích của mình, chính sách của mình”. Những luận
điểm này đến nay vẫn cịn ngun giá trị trong cuộc đáu tranh tư tưởng chống các
quan điểm sai trái, thù địch.
Thuộc tính nổi bật của chính trị là tính giai cấp, mọi thuộc tính khác của chính
trị đều biểu hiện qua lăng kính giai cấp, bị chi phối và chế ước bởi tính giai cấp. Hệ tư
tưởng chính trị, nhà nước, đảng phái chính trị, đường lối, chính sách, luật pháp cho
đến văn hóa chính trị ln ln mang dấu ấn của giai cấp thống chính. Đồng thời
chính trị cịn mang tính dân tộc, vì chính trị trước hết là tồn tại trong lòng mỗi quốc
gia, dân tộc và chịu sự chế định của yếu tố dân tộc. chính trị cịn mang tính thế giới, là
một lĩnh vực của đời sống thế giới, là quan hệ giữa các nhà nước, các chính phủ…
Tư tưởng có giá trị thời đại của C.Mác và ăng ghen là: đấu tanh chính trị, cách
mạng chính trị là hệ quả tất yếu của đấu tranh giai cấp. Tư tưởng này được nhận thức
một cách khoa học và hợp quy luật khách quan. Cách mạng là hành động sáng tạo, có
tổ chức và được lãnh đạo chặt chẽ bởi giai cấp tiên tiến nhất định, ở vị trí trung tâm


của sự vận động lịch sử nhằm sáng tạo ra một kiểu chế độ mới. tính chất chính trị gắn
với vấn đề lật đổ nhà nước cũ, thiết lập nhà nước mới. tính chất chính trị gắn với vấn
đề lật đổ nhà nước cũ, thiết lập nhà nước mới, thay đổi chủ thể quyền lực nhà nước.
tính chất xã hội liên quan tới các vấn đề của cách mạng, cải tạo các quan hệ xã hội, tổ
chức đời sống xã hội, quản lý xã hội… phải nhận thức tính tất yếu, tính phổ biến và
những khả năng của việc giành chính quyền; xác định các nhân tố khách quan và chủ
quan chi phối hành động chính trị của giai cấp cách mạng; kiên định trong những vấn

đề có tính ngun tắc, mềm dẻo, sáng tạo trong những vấn đề có tính phương pháp và
sách lược của cách mạng. Những người cộng sản chân chính cần vận dụng sáng tạo
những tư tường này vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng hiện nay.
- Thứ hai, giá trị của quan niệm về quyền lực chính trị
C.M và ăng ghen đã có những đóng góp khoa học trong việc tiếp cận và nhận
thức vấn đề quyền lực, đặt nền móng cho một quan niệm mới về quyền lực chính trị
trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp biện chứng. quan hệ
quyền lực được các ông tiếp cận trên hai bình diện cá nhân và xã hội. tư tưởng chủ đạo
của CM và ăng ghen là xem xét quyền lực và các mối quan hệ phái sinh từ các quan hệ
vĩ mô, từ quan hệ giữa các giai tầng xã hội. quyền lực giữa các cá nhân và mỗi cá nhân
có rất ít ảnh hưởng. các ơng chú ý tới tính khách quan của quyền lực như là những quy
luật khách quan trong hoạt động chính trị.
Quyền lực là một trong những khái niệm chủ yếu được đề cập trong các nghiên
cứu của C.M và ăng ghen ở cả cấp độ cá nhân và nhóm, trực tiếp và gián tiếp. cách
tiếp cận vấn đề, phương pháp luận nghiên cứu về quyền lực của các ơng mang tính
khoa học và tính hiện đại.
CM và ăng ghen coi quyền lực là mối quan hệ tất yếu, khách quan đối với đời
sống xã hội. không thể tạo ra một chế độ xã hội mà không cần quywnd lực. các quan
hệ quyền lực mang tính phổ quát trong mọi tổ chức xã hội. sự hình thành quyền lực là
tất yếu khách quan của đời sống xã hội, đó là do con người từ bản chất tự nhiên đã cần
đến một xã hội và xã hội cần đến một quyền lực. quan hệ quyền lực là quan hệ xã hội
lấy sự phục tùng làm tiền đề. Quan hệ quyền lực phát sinh là do con người phải kết
hợp với nhau trong quá trình sản xuất như một tất yếu khách quan.
Sự phức tạp hóa các quá trình sản xuất tùy thuộc lẫn nhau đã từng bước thay thế
cho hoạt động độc lập của cá nhân riêng lẻ. hoạt động liên hợp là tổ chức nhau lại, mà
tổ chức thì tất yếu cần đến quyền lực. sự phát sinh ra quan hệ quyền lực còn do tính tất
yếu kỹ thuật của q trình sản xuất. quyền lực cơng trở nên tất yếu, thậm chí trở nên
độc đoán khi cần thiết, nhất là khi sinh mệnh của một cồng đồng phụ thuộc vào sự
phục tùng tức khắc và không điều kiện của tất cả mọi người vào ý chí của một người.



quyền lực công là quyền lực của các thành viên xã hội góp một phần quyền của mình
tạo nên khhi tham gia vào đời sống cộng đồng. Quyền lực công trở thành ý chí chung
mà mọi người phải tuân thủ, phục tùng.
Trong xã hội nguyên thủy, quyền lực công biểu hiện thành các chuẩn mực đạo
đức, văn hóa, phong tục tập quán. Quyền lực của hội đồng công xã trao cho người thủ
lĩnh thừa hành, và vì là người thừa hành nên thủ lĩnh khơng có quyền hành cá nhân.
Quyền hành cá nhân của người thủ lĩnh thị tộc, bộ lác ngun thủy rất ít. Trong xã hội
hiện đại, khơng thể xóa bỏ được quyền lực, vì nếu xóa bỏ quyền lực tỏng thời đại cơng
nghiệp thì phải xóa bỏ bản thân đại cơng nghiệp, xóa bỏ nhà máy sợi để trở về với cái
xa kéo sợi.
Quyền lực công chuyển hóa dần thành quyền lực chính trị khi xã hội xuất hiện
chế độ tư hữu, phân chia thành giai cấp và đấu tranh giai cấp. Khi xã hội nguyên thủy
tan rã và ra đời xã hội chiếm hữu nô lực thì quyền lực cơng được tổ chức thành nhà
nước. các giai cấp, các lực lượng xã hội đấu tranh với nhau để đoạt lấy quyền lực nhà
nước, trở thành giai cấp thống trị và quyền lực chính trị tập trung thành quyền lực nhà
nước. Nhà nước có hai đặc trưng cơ bản, vừa là quyền lực của giai cấp có thế lực nhất
vừa là quyền lực công.
Giai cấp thống trị nắm giữ quyền lực nhà nước thường là giai cấp thống trị về
kinh tế, nắm giữ quyền sở hữu tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội. khi nắm giữ được
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị lại có thêm phương tiện bóc
lột, tước đoạt của cải của nhân dân.
CM và ăng ghen khẳng định, quyền lực chính trị tất yếu thuộc về giai cấp, giai
tầng xã hội đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, cho xu hướng tiến bộ của sản
xuất và do đó đại biểu cho lợi ích chung của xã hội. việc đấu tranh giành quyền thống
trị tất yếu và trước hết phải giành lấy chính quyền nhà nước. nhà nước là tổ chức bạo
lực của giai cấp này chống lại giai cấp kia, là hình thức hồn chỉnh nhất của quyền lực
chính trị. Việc giành lấy nhà nước tất yếu cần tới bạo lực, với những hình thức khác
nhau, bạo lực quân sự và bạo lực chính trị. Việc giành và giữ quyền lực chính trị tất
yếu cần tới sự liên minh giữa giai cấp cách mạng, giai cấp cầm quyền với các giai cấp,

tầng lớp xã hội có liên quan. Quyền lực nhà nước bao hàm hai mặt chun chính và
dân chủ, vì lợi ích của giai cấp cầm quyền. chun chính và dân chủ ln có tính giai
cấp. việc giữ quyền lực chính trị cần thiết phải củng cố chế độ sở hữu như là nền tảng
của phương thức sản xuất và của giai cấp đang nắm quyền lực chính trị.
Q trình quyền lực chính trị được tổ chức thành nhà nước chính là q trình
giải quyết mâu thuẫn xuất hiện từ sự thay đổi của các điều kiện kinh tế trong sự tồn tại
của mình, trong đó yếu tố chủ đạo là xuất hiện nền sản xuất hàng hóa. Chính trong sự


ngẫu nhiên đó, những q trình xã hội càng khẳng định các quy luật nội tại vốn có, với
một sự tất yếu tự nhiên. Cho nên theo lệ thường, nhà nước là nhà nước của giai cấp có
thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở
thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó thêm được nhwungx phương tiện
mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức. trong đó, hai đặc trưng quan trọng đã được
Ăng ghen tổng kết là cách tổ chức công dân theo địa vực và sự thiết lập một quyền lực
công cộng gồm lực lượng vũ trang và các cơng cụ vật chất phụ thêm, trong đó quan
trọng nhất là quyền thu thuế.
Trong nhiều trường hợp, CM- Ăng ghen sử dụng khái niệm quyền lực chính trị
đồng nghĩa với quyền lực nhà nước bởi ngồi nhà nước, khơng một chủ thể chính trị
bào có năng lực cưỡng chế hợp pháp và được xã hội thừa nhận. Nếu chủ thể của quyền
lực chính trị khơng phải là nhà nước thì sẽ khơng có tính cưỡng chế, thuộc tính vốn có
và căn bản của quyền lực. trong xã hội hiện nay xuất hiện khá nhiều chủ thể chính trị,
sự phân biệt quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước là cần thiết để nhấn mạnh vai
trò của các thể chế, tác nhân ngồi nhà nước, điều kiện chính trị mới đòi hỏi phải
nghiên cứu kỹ các luận điểm của C.M và awngghen để vận dụng giải quyết các vấn đề
nảy sinh.
Thứ ba, giá trị của tư tưởng về đấu tranh giải phóng giai cấp vơ sản
Theo CM. ăng ghen, trước hết giai cấp vô sản cần ý thức được sứ mệnh lịch sử
của mình và xác định được những phương thức thực hiện sứ mệnh ấy như một tất yếu
khác quan. Theo đó, cuộc đấu tranh giữa giai cấp vơ sản và tư sản diễn ra theo q

trình phát triển từ thấp đến cao, từ đấu tranh kinh tế đến đấu tranh tư tưởng và đấu
tranh chính trị. Đến trình độ đấu tranh chính trị, giai cấp vơ sản mới có thể hành động
để lật đổ quyền thống trị tư sản, giành lấy chính quyền về tay minh. Để hoàn thành
được sứ mệnh lịch sử ấy, họ cần tổ chức ra chính đảng tiên phong của mình.
Giành chính quyền giai đoạn thứ nhất, là điều kiện để giai cấp vô sản trở thành
lực lượng thống trị xã hội. khi đó, chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của nhà nước vô sản
là cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đây là thời kỳ cải biến cách mạng lâu dàithời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Thích ứng với thời kỳ đó,
hình thức chính trị khơng phải cái gì khác là chun chính vơ sản. cuộc đấu tranh của
giai cấp vơ sản chống giai cấp tư sản cũng là cuộc đấu tranh của các giai cấp, tầng lớp
và dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa tư bản, vì vậy giai cấp vô sản cần liên minh với
giai cấp nông dân và các tầng lớp lai động khác. Giai cấp vô sản đại diện cho lợi ích
của tất cả những người lao động, cho sự giải phóng lao động khi giành chính quyền
cũng như khi cầm quyền. giành chính quyền chỉ là “giai đoạn thứ nhất của cuộc cách
mạng công nhân”, là điều kiện để giai cấp công nhân trở thành lực lượng thống trị


trong xã hội, trong dân tộc; chỉ là “thủ đoạn” nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội và giải phong con người “về mặt kinh tế”, tạo ra những điều kiện vật chất cho một
xã hội mới-xã hội cộng sản văn minh.
Chun chính vơ sản chính là vệc giai cấp vô sản được tổ chức thành nhà nước,
là bước quá độ lịch sử để tiến tới xã hội không còn giai cấp và nhà nước; là sự lãnh
dạo của đảng vô sản đối với nhà nước và xã hội; giai cấp công nhân và nhân dân lao
động là chủ thể của quyền lực; dân chủ đối với đa số, chuyen chính với thiểu số… đây
là thời kỳ cải biến cách mạng, tạo ra tiền đề khách quan để xóa bỏ chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, xóa bỏ sự phân chia xã hội thành giai cấp, xóa bỏ sự tha hóa của quyền
lực, của lao động và của con người. Những tư tưởng này của C.M-ăng ghen có giá trị
to lớn trong giải quyết các vấn đề cchinhs trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
khi chun chính vơ sản vẫn đang cịn tồn tại nhưng có những biểu hiện mới, nhất là
vai trị của đội ngũ trí thức ngày càng được khẳng định, các tầng lớp doanh nhân cũng
được công nhận các quyền sở hữu và có vị trí xứng đáng trong đời sống chính trị - xã

hội.
Sự vận dụng trong giai đoạn hiện nay hay giá trị thực tiễn của tư tưởng
chính trị Mác – Lê trong thời đại ngày nay.
Có thể khái quát những giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị Mác- ăng ghen- lê
nin ở những điểm sau: chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật; chính trị chân
chính phải hướng tới giải phóng con người, đem lại tự do, hạnh phúc cho con người;
hình thái kinh tế-xã hội là phương pháp tiếp cận toàn diện và khao học để phân tích
lịch sử phát triern của tồn người và các chế độ chính trị- xã hội; đấu tranh giai cấp là
động lực thúc đẩy phát triển xã họi và đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chun chính
vơ sản; quyền lực chính trị trước hết là quyền lực của giai cấp; kinh tế quyết định
chính trị, nhưng chính tị vẫn có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với kinh tế,
chỉ huy, điều tiết phát triển kinh tê; trong xã hội xã hội chủ nghĩa phải đảy mạnh dân
chủ hóa, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, thực hiện phương châm “thà ít mà tốt”
Ngày nay, trong điều kiện phát triển nhanh chóng của khoa học-cơng nghê, tồn
cầu hóa và kinh tế tri thức, các cách tiếp cận về chính trị, quyền lực, quyền lực chính
trị, xây dựng đảng và nhà nước, về thời đại… đã và đang có những thay đổi. xuất hiện
ngày càng nhiều những quan niệm mới về quyền lực như quyền lực tri thức, quyền lực
cứng, quyền lực mềm, quyền lực thông minh, quyền lực công chúng… đáp ứng u
cầu của các q trình chính trị, nhất là q trình dân chủ hóa. Theo đó, năng lực và
phương thức quản lý của nhà nước cần được thay đổi theo hướng tạo dựng ảnh hưởng
và thu hút người dân vào các q trình chính trị, tơn trọng các quyền con người và
quyền công dân, chia sẻ quyền lực giữa nhà nước và công dân.


Trong giai đoạn hiện nay, mặc dù lực lượng sản xuất tron chủ nghĩa tư bản còn
đang phát triển, nhưng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa từ chõ là động lực thúc đẩy
lực lượng sản xuất đã ngày càng trở thành lực cản đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất. cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại đã thúc đẩy kinh tế phát triển
nhanh, nhưng cũng làm gay gắt thêm các mâu thuẫn xã hội. mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc, các cuộc khủng hoảng của phương thức sản xuất tư

bản chủ nghĩa diễn ra với tính chất ngày càng trầm trọng, quy mô ngày càng rộng lớn,
tần suất ngày càng mau chóng và mức độ tàn phá ngày càng dữ dỗi. chủ nghĩa tư bản
đang theo đổi theo hướng văn minh hơn, đồng thời giai cấp công nhân cũng thay đổi
theo hướng tri thức hóa, tính chất của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thay
đổi theo hướng tinh vi hơn, những mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và giai cấp công
nhân vẫn cịn đó. Những luận giải khoa học của chủ nghĩa mác- lê về chủ nghĩa tư bản
và sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân vẫn cịn ngun giá trị, vẫn là những cơ sở
lý luận và thực tiễn cho việc nhận thức những vấn đê của thời đại, cho những hành
động cải tạo cách mạng đối với chủ nghĩa tư bản và xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện
nay….

Tham khảo bài phát biểu của TBT Nguyễn Phú trọng
...Sự nghiệp cách mạng 87 năm qua của đất nước ta, nhân dân ta do Ðảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã vượt qua mn vàn khó khăn, thử
thách, giành được những thắng lợi vĩ đại: đập tan ách thống trị của thực dân, phong
kiến, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc
lập, tự do; đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế; thực hiện thắng
lợi cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, là bằng
chứng hùng hồn, thực tiễn sinh động khẳng định sự đúng đắn, vai trò và ý nghĩa to lớn
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà Ph.Ăng-ghen là một trong những lãnh tụ sáng lập.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, với truyền thống yêu nước quật cường, nhân dân
ta đã nhiều lần vùng lên khởi nghĩa, nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa, các phong trào
kháng chiến đều thất bại vì thiếu một đường lối đúng đắn có thể tập hợp, phát huy
được sức mạnh của toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh trên con đường tìm đường cứu
nước đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lý luận cách mạng để cứu dân, cứu nước.
Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam, đào tạo, huấn luyện cán bộ,
kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với chủ nghĩa yêu nước, phong trào công nhân và
phong trào yêu nước, sáng lập nên Ðảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta. 87 năm qua, Ðảng ta luôn trung thành với những nguyên

lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào
điều kiện cụ thể của thực tiễn cách mạng nước ta, đề ra đường lối cách mạng đúng


đắn, đưa cách mạng nước ta hòa chung vào phong trào cách mạng của thời đại, đáp
ứng những nguyện vọng, lợi ích căn bản, sống cịn của nhân dân lao động và dân tộc
ta, nên đã tập hợp, đoàn kết, phát huy được sức mạnh to lớn của nhân dân, của toàn
dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, tạo thành sức mạnh vô địch chiến thắng
mọi kẻ thù.
Trong lịch sử hơn 100 năm qua, kể từ khi ra đời, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã nhiều lần
bị các trào lưu tư tưởng khác phê phán, đả kích. Ngày nay, sau sự sụp đổ của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Ðông Âu, các thế lực phản động, chống Ðảng
Cộng sản, chống chủ nghĩa xã hội trên thế giới và một số phần tử cơ hội chính trị trong
nước lại được dịp đẩy mạnh phê phán, xuyên tạc, vu cáo, phủ định chủ nghĩa Mác Lê-nin; bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bác bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản,
bác bỏ con đường xã hội chủ nghĩa là mục tiêu của các thế lực phá hoại sự nghiệp cách
mạng của nhân dân ta. Trong bối cảnh đó, Ðảng ta ln khẳng định: Ðảng ta lấy chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động... Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của việc vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại. Tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam 80 năm qua, Ðảng ta rút ra bài học:
Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Ðảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ
nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh
chính trị và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng
đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Ðảng phải xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy
luật khách quan. Phải phòng và chống các nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh
quan liêu và sự thối hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Kiên định những nguyên lý cơ bản và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào

điều kiện thực tế Việt Nam trong bối cảnh mới của thời đại, xây dựng Ðảng trong sạch,
vững mạnh, có tầm trí tuệ, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao,
đủ sức giải quyết những vấn đề của đất nước đặt ra, phát huy được sức mạnh toàn dân
tộc, tiếp tục đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới để xây dựng thành công và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà trực tiếp là đưa nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 sẽ là những nội dung lớn
được Ðảng ta xem xét, quyết định trong Ðại hội XI sắp tới của Ðảng.
Thực hiện thắng lợi mục tiêu đó là cách tốt nhất, thiết thực và có ý nghĩa nhất để kỷ
niệm, bày tỏ sự kính phục và lịng biết ơn của chúng ta đối với Ph.Ăng-ghen vĩ đại.
Những cống hiến vĩ đại của Ph.Ăng-ghen đối với phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế đời đời bất diệt.


Câu 7. Quyền lực chính trị là gì? Phân tích đặc điểm của quyền
lực chính trị và sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền
lực nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin quyền lực chính trị là quyền lực
của một hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội hoặc của nhân dân (trong điều kiện
chủ nghĩa xã hội); nó nói lên khả năng của một giai cấp nhằm thực hiện lợi ích khách
quan của mình. Quyền lực chính trị theo đúng nghĩa của nó là bạo lực có tổ chức của
một giai cấp để trần áp giai cấp khác.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, quyền lực chính trị là quyền quyết định, định
đoạt những vấn đề, cơng việc quan trọng về chính trị, tổ chức và hoạt động để đảm
bảm sức mạnh thực hiện quyền lực ấy của một giai cấp, một chính đảng, tập đồn xã
hội nhằm giành hoặc duy trì quyền lãnh đạo, định đoạt, điều khiển bộ máy nhà nước;
xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội trong một quốc gia và quan hệ chính trị - kinh tế ngoại giao với các nhà nước khác và tổ chức quốc tế khu vực và thế giới, bảo đảm
chiều hướng phát triển quốc gia phù hợp với lý tưởng giai cấp.
Từ đây, có thể hiểu một cách chung nhất: quyền lực chính trị là quyền sử dụng
sức mạnh của một hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội nhằm thực hiện sự thống trị
chính trị; là năng lức áp đặt và thực thi các giải pháp phân bố giá trị xã hội có lợi cho

giai cấp mình chủ yếu thơng qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
Quyền lực chính trịcó đặc điểm như sau:
Thứ nhất, quyền lực chính trị mang bản chất giai cấp: Thời kỳ đầu của xã hội
loài người, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tư liệu sản xuất tập trung
trong tay một nhóm người, hình thành những tầng lớp, giai cấp đầu tiên trong xã hội.
Giai cấp chủ no chiếm ưu thế, giữ địa vị thống trị. Giai cấp nơ lệ, dân tự do phụ thuộc
hồn tồn vào chủ nô. Sự xuất hiện của nhà nước không làm mất đi mâu thuẫn giai cấp
và đấu tranh giai cấp, và do đó chỉ là sự đánh dấu cuộc đấu tranh chính trị chuyển sang
giai đoạn mới: diễn ra xoay quanh vấn đề giành – giữ - thực thi quyền lực nhà nước.
Từ đó, nhà nước thực sự trở thành trung tâm, vũ đài của cuộc đấu tranh chính trị.
Thứ hai, quyền lực chính trị có tính xã hội: Quyền lực chính trị nảy sinh và phát
triển trong lịng xã hội. Nó là sản phẩm của xã hội phân chia giai cấp. Xã hội là cơ sở
tồn tại của các giái cấp, vì vậy quyền lực chính trị khơng thể tách rơi hay vượt ra ngồi
xã hội mà nó đang tồn tại.
Thứ ba, quyền lực chính trị có tính lịch sử: Sử ra đời, tồn tại, phát triển và tiêu
vong của quyền lực chính trị mang tính khách quan trong một giai đoạn lịch sử nhất


định – giai đoạn có giai cấp. Sự tồn tại một cách khách quan của giai cấp quy định tính
khách quan của quyền lực chính trị. Các giai cấp, lực lượng xã hội chỉ có quyền lực
chính trị khi nó giành và giữ quyền lực công, mà biểu hiện tập trung nhất là ở quyền
lực nhà hội.
Thứ tư, quyền lực chính trị có tính thống nhất và tập trung: Trong xã hội có giai
cấp và đấu tranh giai cấp, lợi ích là yếu tố nền tảng tạo nên sự bền vững và ổn định. Vì
vậy, giai cấp thống nhất ở tính lợi ích của nó. Quyền lực chính trị là quyền lực của giai
cấp, được thiết lập và duy trì để bảo vệ lợi ích giai cấp nên về nguyên tắc và từ trong
bản chất của nó, quyền lực chính trị là thống nhất. Xét về tính tập trung, quá trình hình
thành quyền lực là quá trình tập trung, tập hợp ý chí chung, tạo nên sự đồng lịng
thống nhất trí trong tổ chức, cộng đồng. Đây là hình thức phổ biến của con đường hình
thành quyền lực. Nếu thiếu tập trung thì khơng thể tạo ra quyền lực, mức độ tập trung

càng cao, tổ chức càng chặt chẽ thì quyền lực của tổ chức càng mạnh. Tập trung là một
tính chất cơ bản của quyền lực.
Thứ năm, quyền lực chính trị có tính tha hóa: Tha hóa nghĩa là một sự vật, hiện
tưởng bị biến đổi, trở thành cái khác, đối lập với cái ban đầu đã sinh ra nó. Do tính
chất tập trung của quyền lực nên nó dễ bị tha hóa. Từ chỗ là quyền lực của số đông,
đem tập trung lại để cho một người hay nhóm người nắm giữ nên càng tập trung.
Nhưng mức độ tập trung càng cao thì quyền lực lại càng xa với cái gốc rễ ban đầu và
trở thành cái đối lập với nền tảng đó. Đây là một mâu thuẫn trong tính tập trung của
quyền lực, quyền lực càng tập trung càng dễ bị biến dạng và tha hóa.
Thứ sáu, quyền lực chính trị ln hướng tới quyền lực nhà nước: Nhà nước
không chỉ biểu hiện tâp trung và mạnh mẽ nhất quyền lực của giai cấp cầm quyền mà
còn nhân danh quyền lực của xã hội đối với mọi giai cấp và tầng lớp khác. Cho nên,
các lực lượng chính trị ln có xu hướng nằm lấy hay chi phối quyền lực nhà nước.
Hơn nữa, các cuộc đấu tranh trong lịch sử đều xoay quanh việc giành, giữ, sử dụng và
thực thi quyền lực nhà nước nhằm hiện thực hóa và tối đa hóa lợi ích của giai cấp. Khi
đã nắm quyền lực nhà nước, giai cấp cầm quyền thiết lập hệ thống thể chế chính trị
của xã hội. Đó là hệ thống các thiết chế tổ chức với các đảng chính trị, các cơ quan
nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó nhà nước đóng vai trị trung tâm và
chi phối tồn bộ hệ thống.




×