Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THU HƯƠNG

CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÁC TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THU HƯƠNG

CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CÁC TÒA ÁN
NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH


Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà

Hà Nội – 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ luật học “Công nhận sự thỏa thuận
của đương sự trong tố tụng dân sự và thực tiễn thực hiện tại các tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Ninh” là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu khoa học
của bản thân với sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà người hướng dẫn khoa học. Các số liệu, kết quả, trích dẫn nêu trong luận văn
là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Tơi xin chịu trách nhiệm về cơng trình
nghiên cứu của mình.
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn

Tác giả luận văn

PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà

Vũ Thu Hương


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTDS


: Bộ luật Tố tụng dân sự

BLDS

: Bộ luật Dân sự

Nghị quyết số 05/2012/NQ- : Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày
HĐTP

03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định
trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án
tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được
sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của BLTTDS.

Nghị quyết số 01/2017/NQ- : Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày
HĐTP
13/01/2017 ban hành một số biểu mẫu trong
TTDS của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao
TTDS

:

Tố tụng dân sự

VKSND

:


Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa

i

Lời cam đoan

ii

Danh mục các chữ viết tắt

iii

Mục lục

iv

MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4

5. Phương pháp nghiên cứu

5

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

5

7. Bố cục của luận văn

6

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA
THUẬN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

7

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của công nhận sự thỏa thuận

của đương sự trong tố tụng dân sự

7

1.1.1. Khái niệm công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong
tố tụng dân sự

7

1.1.2. Đặc điểm của công nhận sự thỏa thuận của đương sự
trong tố tụng dân sự

12

1.1.3. Ý nghĩa của công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong
tố tụng dân sự
1.2. Cơ sở khoa học của việc pháp luật quy định về công nhận sự
thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự

16
20


1.2.1. Cơ sở lý luận

20

1.2.2. Cơ sở thực tiễn

22


1.3. Các điều kiện đảm bảo hiệu quả của việc công nhận sự thỏa
thuận của đương sự
1.3.1. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự về công nhận sự
thỏa thuận của đương sự

23
23

1.3.2. Sự hiểu biết pháp luật tố tụng dân sự về cơng nhận sự
thỏa thuận của đương sự

24

1.3.3. Trình độ, chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp
của cán bộ Tòa án, đặc biệt là Thẩm phán

24

1.3.4. Sự hỗ trợ, giúp đỡ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự

25

1.4. Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự

26

1.4.1. Nguyên tắc công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong

tố tụng dân sự
1.4.2. Phạm vi các vụ án mà Tịa án cơng nhận sự thỏa thuận
của đương sự trong tố tụng dân sự
1.4.2.1. Trong trường hợp các đương sự tự thỏa thuận
trong q trình Tịa án giải quyết vụ án
1.4.2.2. Trong trường hợp Tòa án tiến hành hịa giải
1.4.3. Thủ tục cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố
tụng dân sự

26
28
28
29
35

1.4.3.1. Thủ tục công nhận sự thỏa thuận của đương sự
do đương sự tự thỏa thuận trong q trình Tịa án giải quyết vụ án

36

1.4.3.2. Thủ tục công nhận sự thỏa thuận của đương sự
trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải

40


1.4.4. Hình thức, thẩm quyền và hiệu lực của việc công nhận sự
thỏa thuận của đương sự trong tố tụng dân sự

44


1.4.4.1. Thẩm quyền, hình thức của việc cơng nhận sự
thỏa thuận của đương sự

44

1.4.4.2. Hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận
của đương sự
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TTDS VỀ VIỆC
CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN CỦA ĐƯƠNG SỰ TẠI CÁC TÒA ÁN
NHÂN DÂN Ở TỈNH QUẢNG NINH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

2.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật tố tụng dân sự về việc cơng nhận
sự thỏa thuận của đương sự tại các Tịa án nhân dân ở tỉnh Quảng

44

47

47

Ninh
2.1.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn trong thực tiễn
thực hiện công nhận sự thỏa thuận của đương sự tại các Tòa án nhân
dân ở tỉnh Quảng Ninh
2.1.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn trong thực
tiễn thực hiện công nhận sự thỏa thuận của đương sự tại các Tòa án

47


52

nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh
2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công nhận sự thỏa
thuận của đương sự tại các Toà án nhân dân tại tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự về công nhận sự thỏa thuận của đương sự

60
62
62

2.2.2. Kiến nghị về thực hiện pháp luật tố tụng dân sự về công
nhận sự thỏa thuận của đương sự tại các Toà án nhân dân tại tỉnh
Quảng Ninh

73

KẾT LUẬN

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền quyết định và tự định đoạt là một trong những quyền quan trọng
của công dân được pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) quy định. Khi có tranh
chấp xảy ra, các đương sự có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
bằng nhiều phương thức khác nhau như tự thỏa thuận, thương lượng, hoà giải,
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền như trọng tài thương mại, Uỷ ban nhân dân,
Toà án giải quyết. Trong các phương thức này thì việc các bên thỏa thuận và
yêu cầu Tồ án cơng nhận sự thỏa thuận thường được ưu tiên. Sự thỏa thuận
này khơng chỉ có ý nghĩa trong việc giải quyết tranh chấp, khôi phục lại các
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự mà cịn góp phần xây dựng khối đoàn
kết trong nhân dân. Mặt khác, cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự cũng có
ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp của Tồ án. Đó là, Tồ án
và các bên đỡ tốn kém chí phí, thời gian tham gia giải quyết vụ việc dân sự,
đồng thời nâng cao vị thế, uy tín của Tồ án trong việc giải quyết các vụ việc
nói chung và của thẩm phán nói riêng. Hơn nữa, các bên nếu thỏa thuận được
thì sẽ tự nguyện thi hành án, cơ quan thi hành án không phải áp dụng các biện
pháp cưỡng chế để thi hành.
Cùng với việc ban hành Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) năm 2015,
các quy định của pháp luật Việt Nam về việc công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự đã tương đối đầy đủ, hoàn thiện hơn so với trước đây. Tuy nhiên,
qua thực tiễn giải quyết của các Tòa án cho thấy vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề
hạn chế, bất cập. Bởi vậy, việc tiếp tục nghiên cứu làm rõ các quy định của
pháp luật về công nhận sự thỏa thuận của đương sự cũng như thực tiễn thực
hiện và giải pháp để nâng cao hiệu quả của hoạt động này là một vấn đề cần
thiết.
Nhằm hoàn thiện pháp luật về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự


2


trong TTDS, tác giả chọn đề tài: “Công nhận sự thỏa thuận của đương sự và
thực tiễn thực hiện tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh” để làm đề tài
luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong TTDS đã được một số
nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn đề cập ở nhiều cấp độ khác nhau, như:
- Một số tài liệu là giáo trình được sử dụng để giảng dạy đối với chuyên
ngành luật tại các cơ sở đào tạo trên cả nước, cụ thể phải kể đến: Trường Đại
học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật TTDS Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân
dân; Học viện Tư pháp (2014), Giáo trình Luật TTDS, Nxb. Cơng an nhân
dân; Nguyễn Cơng Bình (2011), Giáo trình Luật TTDS Việt Nam, Nxb. Giáo
dục; Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật
TTDS, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam; Khoa Luật (2014), Giáo
trình Luật TTDS Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Từ nguồn tài liệu
này, người đọc được cung cấp những kiến thức lý luận cơ bản về công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự trong TTDS Việt Nam, từ đó có cái nhìn tổng
quan, làm nền tảng nghiên cứu sâu hơn về các quy định của pháp luật.
- Các sách tham khảo cũng là một nguồn tài liệu có giá trị lý giải vấn đề,
như: Trần Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học BLTTDS của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nxb. Tư pháp; Bùi Thị Huyền (2016),
Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015, Nxb. Lao động; Nguyễn Đức Mai
(2012), Bình luận khoa học BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011,
Nxb. Chính trị quốc gia, trong nguồn tài liệu này, các tác giả phân tích, luận
giải cụ thể từng điều luật quy định về vấn đề công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự trong TTDS Việt Nam, giúp người đọc có cái nhìn pháp lý tồn
diện hơn.
- Một số cơng trình nghiên cứu khoa học có tính chun mơn cao có liên



3

quan đến vấn đề công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong TTDS như:
Luận văn thạc sĩ Luật học với đề tài “Công nhận sự thỏa thuận của đương sự
trong TTDS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thùy Linh năm 2015; Luận văn
thạc sĩ Luật học với đề tài “Công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong
TTDS và thực tiễn tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn” của tác giả
Nguyễn Thị Thùy Linh năm 2018; Luận văn thạc sĩ Luật học với đề tài “Công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự và thực tiễn thực hiện tại các Toà án
nhân dân ở tỉnh Lạng Sơn” của tác giả Hà Huy Hoàng năm 2020.
- Bên cạnh đó, có các bài viết liên quan đến vấn đề công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự trong TTDS, cụ thể: Đỗ Đức Anh Dũng (2006), “Về
hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy
định tại Điều 220 BLTTDS”, Bùi Thị Huyền (2007), “Về sự thỏa thuận của
các đương sự tại phiên tịa sơ thẩm dân sự”, Tạp chí Luật học số 8; Tạp chí
Tịa án nhân dân số 16; Phạm Cao Khải (2010), “Vướng mắc trong việc thi
hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự”, Toà án nhân
dân số 8; Lê Văn Sua (2015), “Việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự trong vụ án ly hôn”, Luật sư Việt Nam số 9; Đặng Quang
Huy (2017), “Những điểm mới của BLTTDS năm 2015 về hịa giải vụ án dân
sự”, Tạp chí Nghề Luật số 6, Huỳnh Minh Khánh (2018), “Quyết định cơng
nhận sự thỏa thuận của các đương sự có đúng pháp luật”, Luật sư Việt Nam
số 4. Đây là các tài liệu hữu ích trong q trình nghiên cứu đề tài luận văn,
các bài viết đề cập đến các vướng mắc về sự thỏa thuận của đương sự trong
BLTTDS năm 2004 và BLTTDS năm 2015 để có cái nhìn tổng thể hơn đối
với từng khía cạnh.
Nhìn chung, đây là những tài liệu có sự liên quan, đã trình bày và luận
giải vấn đề công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong TTDS Việt Nam và
có giá trị nghiên cứu nhất định đối với việc thực hiện đề tài luận văn. Tuy



4

nhiên, các cơng trình này chỉ nghiên cứu các quy định về công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự trong TTDS ở tầm khái quát, mang tính chất kiến
thức cơ bản hoặc nghiên cứu tản mạn, chưa có sự tổng hợp mang tính khái
quát cao. Qua khảo sát, hiện chưa có cơng trình nghiên cứu khoa học nào
chun sâu, đầy đủ và tồn diện về cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự
trong TTDS Việt Nam. Vì vậy, tác giả mong muốn mang đến cho người đọc
một nguồn tài liệu giá trị về vấn đề này dưới dạng luận văn thạc sĩ, được phân
tích khơng chỉ dưới góc độ lý luận mà cịn dưới góc độ thực tiễn xét xử.
Thơng qua tổng hợp số liệu và phân tích các quyết định của Toà án, tác giả sẽ
mang đến một cái nhìn đa chiều từ lý luận đến thực tiễn. Từ đó, chỉ ra những
hạn chế, vướng mắc, đồng thời đưa ra một số kiến nghị để hoàn hiện pháp
luật TTDS về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ
bản về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và thực tiễn áp dụng tại các
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Từ đó, luận văn sẽ đánh giá và chỉ ra
những hạn chế, bất cập trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự trên thực tế, trên cơ sở đó, đề xuất một
số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự tại Tồ án.
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự trong TTDS như khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của
việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, các điều kiện đảm bảo hiệu
quả của việc công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại Tồ án.
Thứ hai, phân tích, làm rõ nội dung các quy định của pháp luật TTDS
hiện hành về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong quá trình giải



5

quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân.
Thứ ba, luận văn trình bày thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật
TTDS Việt Nam hiện hành về công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại
các Tòa án nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh, phát hiện ra những vướng mắc, bất
cập trong thực tiễn thực hiện các quy định này tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh
Quảng Ninh đồng thời chỉ ra các nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập.
Luận văn đề xuất một số kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật về công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong TTDS để khắc phục những hạn
chế, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện các quy định này tại các Tòa án
nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Nghiên cứu nội dung các quy định của
pháp luật TTDS hiện hành về việc công nhận sự thỏa thuận của đương sự
trong q trình Tịa án giải quyết vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện tại các
Tòa án nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự là hoạt động tố tụng được Tòa án tiến hành trong cả quá trình giải quyết vụ
án dân sự và giải quyết việc dân sự. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, tác
giả chỉ tập trung nghiên cứu về việc công nhận sự thỏa thuận của đương sự
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tịa án nhân dân. Việc công nhận
sự thỏa thuận trong giải quyết các việc dân sự tại Tòa án nhân dân như u
cầu cơng nhận thuận tình ly hơn, u cầu cơng nhận kết quả hịa giải ngồi
Tịa án…; cơng nhận hồ giải thành tại Toà án theo quy định của Luật hồ
giải đối thoại năm 2020; cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự trong giai
đoạn thi hành án sẽ được nghiên cứu trong cơng trình khác.
5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy


6

vật của chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách và xây dựng
Nhà nước Pháp quyền Việt Nam. Để giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi
nghiên cứu của đề tài, trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp lịch sử, phân tích, so
sánh, chứng minh, tổng hợp, diễn giải kết hợp với các kết quả thống kê nhằm
làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn góp phần cung cấp cho
khoa học pháp lý những nền tảng lý luận và thực tiễn về công nhận sự thỏa
thuận của đương sự trong TTDS. Đề tài sẽ là một tài liệu khoa học hữu ích
cho việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu pháp luật TTDS của các tác giả khác.
Ngoài ra, luận văn có thể sử dụng để tham khảo trong quá trình xây dựng, ban
hành và áp dụng pháp luật TTDS về công nhận sự thỏa thuận của đương sự
trong TTDS Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn được kết cấu thành 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung về công nhận sự thỏa thuận của đương
sự trong TTDS
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật TTDS Việt Nam về cơng nhận
sự thỏa thuận của đương sự tại các Tịa án nhân dân ở tỉnh Quảng Ninh và
một số kiến nghị.



7

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG NHẬN SỰ THỎA THUẬN
CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA CÔNG NHẬN
SỰ THỎA THUẬN CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố
tụng dân sự
Để đưa ra khái niệm về công nhận sự thỏa thuận của đương sự thì cần
làm rõ các thuật ngữ sau: TTDS, đương sự.
Thời Pháp thuộc, người ta dùng hai chữ "tố tụng" để dịch chữ
"procédure", “procedure” trong tiếng Anh hay “procédure” tiếng Pháp đều bắt
nguồn từ chữ La tinh “processus” nghĩa là quá trình, trình tự, thủ tục. Theo từ
điển Hán Việt của Đào Duy Anh, "tố tụng" là việc thưa kiện1. Sách Tiếng nói
nơm na của Lê Gia, dẫn giải 30.000 từ tiếng Việt thường dùng có liên quan
đến từ Hán Việt giải thích chi tiết hơn: "Tố tụng" là vạch tội và đưa ra cửa
công để phân giải phải trái do chữ "tố" là vạch tội; chữ "tụng" là thưa kiện ở
cửa công để xin phân phải trái"2. Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản thì
"Tố tụng" là việc thưa kiện ở Tịa án.
Trong khoa học pháp lý, theo Từ điển Luật học Việt Nam, TTDS là trình
tự hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem xét, giải quyết vụ án dân sự
và thi hành án. Trong từ điển Luật học của Anh thì tố tụng (procedure) là
những bước tiến hành mang tính hình thức mà thơng qua đó vụ kiện được giải
quyết. Trong từ điển Luật học của Pháp thì tố tụng là toàn bộ những thể thức
phải theo để đệ trình một yêu cầu trước thẩm phán. Như vậy đa số các nước
đều thừa nhận TTDS là trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để Tòa án giải
1
2


Đào Duy Anh (1957), Từ điển Hán Việt, Trường Thi xuất bản, Sài Gịn, tr. 302.
Lê Gia (1999), Tiếng nói nơm na, NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, tr.1027-1028.


8

quyết một vụ kiện dân sự3. Ngoài ra, theo quy định của BLTTDS thì vụ việc
dân sự mà Tịa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục TTDS gồm VADS
và việc dân sự. Trong đó, VADS là vụ có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động giữa các
đương sự. Việc dân sự là khơng có tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp
giữa các đương sự mà chỉ u Tịa án cơng nhận hoặc khơng công nhận sự
kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh thương mại và lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác hoặc yêu cầu Tịa án cơng nhận hoặc khơng cơng nhận
cho mình quyền về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và
lao động. Tuy nhiên, trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn
chỉ nghiên cứu về việc công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong q trình
Tịa án giải quyết các VADS. Cịn việc công nhận sự thỏa thuận trong giải
quyết các việc dân sự tại Tòa án nhân dân như yêu cầu cơng nhận thuận tình
ly hơn, u cầu cơng nhận kết quả hịa giải ngồi Tịa án…; cơng nhận hồ
giải thành tại Toà án theo quy định của Luật hoà giải đối thoại năm 2020;
công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong giai đoạn thi hành án sẽ được
nghiên cứu trong cơng trình khác.
Pháp luật TTDS quy định quyền và nghĩa vụ của Tòa án với các chủ thể
tham gia tố tụng ở mỗi giai đoạn tố tụng. Toà án là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp với chức năng
“bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân4”. Tồ án có trách nhiệm chủ động trong quá trình giải quyết vụ

việc, đồng thời bảo đảm cho các đương sự có đầy đủ quyền tố tụng để bảo vệ
3
Nguyễn Cơng Bình (chủ biên) (2011), Giáo trình Luật TTDS Việt Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội,
tr. 11.
4
Điều 2 Luật Tổ chức Toà án nhân dân 2014.


9

quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong đó có quyền quyết định và tự định
đoạt - một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS. Để đảm bảo
nguyên tắc này, Toà án nhân dân phải tiến hành nhiều hoạt động khác nhau,
trong đó có hoạt động công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Việc công
nhận sự thỏa thuận của đương sự trong TTDS không thể thiếu một chủ thể vơ
cùng quan trọng, đó là các bên đương sự. Bởi nếu khơng có các bên đương sự
thì khơng thể nào có việc thỏa thuận và công nhận sự thỏa thuận trong TTDS.
Vậy khái niệm đương sự được hiểu như thế nào?
Dưới góc độ ngơn ngữ học, theo Từ điển Tiếng Việt thì đương sự là “là
người là đối tượng trực tiếp của một việc đang được giải quyết”5 . Còn trong
cuốn Từ điển Hán Việt, đương sự được định nghĩa là người “có liên quan trực
tiếp đến một việc”6 . Như vậy, dưới góc độ chung nhất, đương sự là người có
liên quan trực tiếp trong một vụ việc nào đó xảy ra đang được đưa ra xem xét,
giải quyết.
Dưới góc độ pháp lý, theo cuốn Từ điển Luật học năm 2006 thì đương sự
được hiểu là “cá nhân, pháp nhân tham gia TTDS với tư cách là nguyên đơn
hoặc bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự là một
trong các nhóm người tham gia TTDS tại TAND trong các vụ kiện về dân sự,
kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình và lao động. Những người tham
gia TTDS đó bao gồm đương sự, người đại diện cho đương sự, người bảo vệ

quyền lợi của đương sự, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích
chung, Viện kiểm sát, người làm chứng, người phiên dịch”7. Như vậy, đương
sự trong một vụ việc là những người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc
đang được xem xét, giải quyết. Tùy thuộc vào tính chất của từng loại vụ việc
5

Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2008), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh,
TP Hồ Chí Minh, tr. 572.
6
Nguyễn Lân (2002), Từ điển từ và ngữ Hán – Việt, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, tr. 232.
7
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nhà xuất bản Từ điển Bách
khoa – Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, tr. 278 - 279.


10

được Tịa án giải quyết mà có đương sự trong vụ việc dân sự, đương sự trong
vụ án hành chính và đương sự trong vụ án hình sự. Trong đó, đương sự trong
vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình hoặc bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực
mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự8. Các
đương sự trong vụ việc dân sự có thể là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức, tham
gia tố tụng với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan trong vụ án dân sự; người yêu cầu, người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan trong việc dân sự.
Trong TTDS, Tòa án luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương
sự. Hiện nay trên thế giới, trước khi khởi kiện, các đương sự tự thỏa thuận với
nhau thì các bên có thể tự thực hiện, khơng cần u cầu Tồ án công nhận sự
tự thỏa thuận này (chẳng hạn như ở Mĩ) hoặc các bên có thể u cầu Tồ án

cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự (như tại Điều 1099 BLTTDS Cộng
hoà Pháp). Sau khi khởi kiện, ở Mĩ, thì Tồ án chuyển vụ việc dân sự cho các
hồ giải viên ở bên ngồi Tồ án (khơng phải là cán bộ của Toà án) tiến hành.
Nếu các bên hồ giải thành thì việc thỏa thuận của các bên sẽ được Tồ án
cơng nhận trừ trường hợp việc hồ giải thành xâm phạm đến trật tự, lợi ích
cơng cộng hay lợi ích của người khác và Tịa án sẽ xem xét lại thỏa thuận đó
từ đầu9. Cịn ở Cộng hồ Pháp thì sau khi khởi kiện việc thỏa thuận của các
bên có thể do các bên tự thỏa thuận, thẩm phán tiến hành hồ giải hoặc thẩm
phán Tịa sơ thẩm thẩm quyền hẹp ủy quyền hòa giải các bên cho một người
thứ ba10. Trong các trường hợp này thì dù việc thỏa thuận đạt được bằng hình
thức nào thì thẩm phán đều ra quyết định công nhân sự thỏa thuận của các

8

Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật TTDS Việt Nam, Nxb. Công an Nhân dân, tr. 107.
TANDTC (2000), Về pháp luật TTDS, Kỷ yếu Dự án VIE/95/017 Tăng cường năng lực xét xử tại Việt
Nam, Hà Nội, tr. 14, 27, 28.
10
Nhà Pháp luật Việt - Pháp (1998), Hội thảo pháp luật TTDS, Hà Nội ngày 7,8/9/1998, tr. 16, 17.
9


11

đương sự để đảm bảo giá trị pháp lý của thỏa thuận giữa các bên đương sự.
Ở Việt Nam, trước khi khởi kiện, các bên có thể tự thỏa thuận và u cầu
Tồ án cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự như u cầu Tồ án cơng
nhận thuận tình ly hơn, u cầu Tồ án cơng nhận sự thỏa thuận về việc giải
quyết nuôi con sau khi ly hôn, yêu cầu công nhận về thỏa thuận chấm dứt
hiệu lực của việc chia tài sản chung. Ngoài ra, trước khi khởi kiện, nếu các cá

nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tiến hành hồ giải giúp đỡ các đương
sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật
thì các bên đương sự có thể u cầu Tồ án cơng nhận kết quả hoà giải thành
ngoài toà án. Sau khi khởi kiện, các đương sự có quyền thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết VADS thông qua việc các đương sự tự thỏa thuận với nhau;
Toà án chuyển vụ án dân sự cho các hoà giải viên tiến hành (hoà giải gắn với
Tồ án) hoặc Tịa án tiến hành hịa giải để giúp các đương sự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết VADS. Khi các đương sự đạt được sự thỏa thuận và
u cầu Tịa án cơng nhận sự tự thỏa thuận hoặc u cầu Tồ án cơng nhận
việc hồ giải thành do các hoà giải viên tiến hành hoặc các đương sự hịa giải
thành tại Tồ án thì Tịa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự. Vậy thế nào là công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong TTDS.
“Thỏa thuận” được định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt là “đồng ý với
nhau về điều có quan hệ đến các bên sau khi đã bàn bạc”11. Từ đó, có thể hiểu
thỏa thuận là sự đồng thuận, nhất trí, được thể hiện qua sự thống nhất về mặt
quan điểm, ý chí trong việc gỉải quyết tranh chấp trên cơ sở tự nguyện, tự
định đoạt.
Dưới góc độ ngôn ngữ học, theo Từ điển Hán Việt, công nhận mang
nghĩa là chung, nhận có nghĩa là bằng lịng, “cơng nhận” là “những sự gì do

11

Viện ngơn ngữ học (2018), Từ điển Tiếng Việt, GS. Hoàng Phê chủ biên, Nxb. Hồng Đức, tr. 1197.


12

mọi người cùng đồng ý”12. Còn theo Từ điển tiếng Việt, “công nhận” là “nhận
trước mọi người là hợp với sự thật, với lẽ phải hoặc hợp với thể lệ, luật
pháp”13. Như vậy, cơng nhận có thể được hiểu là sự thừa nhận, chấp thuận,

tuyên bố một sự việc là phù hợp với sự thật, là đúng đắn.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm như sau: Công nhận sự
thỏa thuận của đương sự trong TTDS là hoạt động do Tòa án tiến hành nhằm
xem xét, thừa nhận việc thương lượng, thống nhất ý chí của các bên đương sự
về việc giải quyết vụ án dân sự trên cơ sở các quy định của pháp luật TTDS.
Trong phạm vi luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu việc cơng nhận sự thỏa
thuận của đương sự sau khi Tồ án thụ lý vụ án dân sự trong hai trường hợp:
(i) các đương sự tự thỏa thuận và yêu cầu Tồ án cơng nhận sự thỏa thuận của
đương sự; (ii) các đương sự hoà giải thành vụ án dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố
tụng dân sự
Thứ nhất, chủ thể của việc cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự là Tồ
án mà cụ thể là thẩm phán hoặc hội đồng xét xử.
Điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Theo quy định của pháp luật
TTDS hiện hành, Tòa án nhân dân có trách nhiệm tiến hành việc hịa giải và
tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật14. Khi đương sự đạt được thỏa
thuận do tự thỏa thuận hoặc do Tòa án nhân dân hịa giải thì việc cơng nhận
sự thỏa thuận của đương sự phải được thực hiện thơng qua Tồ án để đảm bảo
giá trị pháp lý và tính ràng buộc cao hơn của thỏa thuận. Theo đó, nếu các
12

Thiều Chửu (2013), Hán Việt tự điển, Nxb. Văn hóa thơng tin.
Viện ngơn ngữ học (2018), Từ điển Tiếng Việt, GS. Hồng Phê chủ biên, Nxb. Hồng Đức, tr. 263.
14
Điều 10 BLTTDS năm 2015.
13



13

đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự thì Tịa án
mà cụ thể là Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử (tùy thuộc vào giai đoạn tố
tụng) sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự. Cụ thể:
- Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm (trước thời điểm Tòa án ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm) thì thẩm phán có trách nhiệm tiến
hành hồ giải vụ án dân sự trừ các vụ án không được hồ giải, khơng hồ giải
được và vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn. Nếu các bên hoà giải thành thì
thẩm phán ra quyết định cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
- Sau khi Toà án cấp sơ thẩm có quyết định đưa vụ án ra xét xử, nếu các
đương sự tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thẩm quyền
cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự thuộc về Hội đồng xét xử sơ thẩm. Bởi
vì, mặc dù lúc này chưa mở phiên tịa nhưng đã có quyết định đưa vụ án ra
xét xử nên không thể ra quyết định công nhận sự thỏa thuận. Trong một vụ án
không thể đồng thời vừa có quyết định đưa vụ án ra xét xử, vừa có quyết định
cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự. Cịn việc cơng nhận ở tại phiên tịa sơ
thẩm thì đương nhiên do hội đồng xét xử công nhận.
- Ở thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì khi các đương sự
thỏa thuận được với nhau ở trước hay tại phiên tịa thì hội đồng xét xử phúc
thẩm hoặc Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của đương sự. Bởi vì, việc thỏa thuận của các đương sự ở thời
điểm này dẫn đến Tòa án cấp phúc thẩm, Tịa án có thẩm quyền giám đốc
thẩm, tái thẩm phải xem xét về số phận pháp lý của bản án sơ thẩm, phúc
thẩm nên thẩm quyền công nhận phải thuộc về hội đồng xét xử15.
Thứ hai, thỏa thuận của các đương sự phải xuất phát từ ý chí tự nguyện,
nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo

15

Nguyễn Thuỳ Linh (2015), “Công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong TTDS Việt Nam”, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 17.


14

đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác
Việc thỏa thuận giữa các đương sự chỉ được công nhận trên cơ sở
thương lượng một cách trung thực, hợp lý và hồn tồn tự nguyện, khơng bị
cưỡng ép, can thiệp dưới bất kì hình thức nào. Dù cơng nhận sự thỏa thuận
của đương sự là hoạt động do Tòa án tiến hành nhưng về mặt bản chất, vụ án
dân sự được giải quyết bằng chính sự thỏa thuận của các đương sự. Đương sự
có quyền tự nguyện đưa ra quyết định trên cơ sở ý chí, nhận thức của mình
mà khơng chịu bất kỳ sự ngăn cản, hạn chế hay ràng buộc nào từ bên ngoài.
Đặc điểm này xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của TTDS là quyền tự định đoạt
của đương sự16. Theo đó, pháp luật thừa nhận và đảm bảo cho các chủ thể
tham gia quan hệ TTDS được tồn quyền thể hiện ý chí, lựa chọn, quyết định
thực hiện hay không thực hiện hành vi tố tụng nhất định. Đương sự được
quyền tự định đoạt về việc thỏa thuận nhưng chỉ trong phạm vi những gì
thuộc quyền hạn của mình chứ khơng được quyền định đoạt thay người khác.
Tịa án khơng can thiệp vào nội dung thỏa thuận mà chỉ ghi nhận thỏa thuận
của các đương sự bằng một văn bản có giá trị pháp lý. Để đảm bảo quyền tự
định đoạt của đương sự trong TTDS, Thẩm phán và Hội đồng xét xử chỉ ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận trên cơ sở những nội dung, vấn đề mà các
đương sự đã đồng ý sau khi thương lượng, cân nhắc và thảo luận.
Nội dung thỏa thuận giữa các đương sự phải không vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà
nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Điều cấm của luật là những quy
định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo

đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời
sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Chỉ khi nội dung thỏa
16

Điều 5 BLTTDS năm 2015.


15

thuận của các đương sự đáp ứng được các điều kiện này thì Tịa án mới cơng
nhận thỏa thuận của các đương sự.
Thứ ba, công nhận sự thỏa thuận của đương sự phải được tiến hành theo
trình tự, thủ tục do pháp luật TTDS quy định.
Như các thủ tục tố tụng khác, việc pháp luật TTDS quy định nguyên tắc,
phạm vi, trình tự, thủ tục,.. cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự là nhằm
đảm bảo tính khách quan, sự minh bạch, công bằng trong hoạt động tố tụng
cũng như sự bình đẳng giữa các bên đương sự trong quá trình giải quyết vụ
án, từ đó, bảo đảm hiệu quả của việc công nhận sự thỏa thuận của đương sự.
Các quy định của pháp luật TTDS về trình tự, thủ tục công nhận sự thỏa thuận
của đương sự là cơ sở để Tịa án ra quyết định cơng nhận và Tòa án cũng phải
tuân thủ theo những quy định này. Vì vậy, việc cơng nhận sự thỏa thuận của
đương sự cũng chỉ có hiệu lực khi được thực hiện theo đúng trình tự thủ tục
luật định.
Thứ tư, cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự được Toà án ghi
nhận bằng văn bản mà cụ thể bằng quyết định hoặc bản án.
Trên cơ sở sự thỏa thuận của các đương sự, chủ thể có thẩm quyền sẽ
cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự bằng văn bản có giá trị pháp lý nhất
định để đảm bảo những thỏa thuận đó có giá trị áp dụng trên thực tế. Theo đó,
Tịa án công nhận sự thỏa thuận của đương sự bằng một quyết định hoặc bản
án. Tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng của vụ án mà Thẩm phán được phân công

phụ trách hoặc Hội đồng xét xử sẽ công nhận sự thỏa thuận của đương sự
dưới hình thức cụ thể như sau:
- Trong trường hợp các đương sự tự thỏa thuận và u cầu Tịa án cơng
nhận sự thỏa thuận trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và tại
phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử sơ thẩm ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự.


16

- Trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải và các đương sự thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, Thẩm phán được phân công
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự bằng một quyết định.
- Trong trường hợp các đương sự tự thỏa thuận và u cầu Tịa án cơng
nhận sự thỏa thuận tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm ra
bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của đương sự.
Thứ năm, quyết định cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự có hiệu lực
pháp luật ngay sau khi ban hành.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự dựa trên sự tự nguyện
thỏa thuận và được tiến hành theo thủ tục chặt chẽ của pháp luật. Do đó,
quyết định này có hiệu lực ngay sau khi ban hành và bắt buộc thực hiện đối
với các bên đương sự. Tuy nhiên, để tránh các sai sót và vi phạm pháp luật
xảy ra, quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự vẫn có thể bị xem
xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong trường hợp có cơ sở cho
thấy thỏa thuận trước đó của đương sự xuất hiện tình tiết mới hoặc có dấu
hiệu của lừa dối, đe dọa, nhầm lẫn hoặc vi phạm điều cấm của pháp luật, trái
đạo đức xã hội.
1.1.3. Ý nghĩa của công nhận sự thỏa thuận của đương sự trong tố
tụng dân sự
Thứ nhất, công nhận sự thỏa thuận của đương sự là một phương thức

giải quyết tranh chấp hiệu quả, ổn thỏa, có ý nghĩa về mặt xã hội.
Thông qua hoạt động công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án
thể hiện đúng vai trò trung gian giải quyết tranh chấp trên cơ sở thỏa thuận tự
nguyện của các đương sự, từ đó đem lại sự hài lịng và lợi ích cho các bên, sự
thỏa thuận này có giá trị pháp lý và được đảm bảo thực hiện.
Giải pháp giải quyết tranh chấp được xuất phát từ ý chí tự nguyện của
các đương sự, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của họ nên nội dung


17

giải quyết tranh chấp cũng chính là mong muốn, yêu cầu của các bên đương
sự. Có thể thấy, việc thi hành các bản án được giải quyết bằng biện pháp xét
xử thường gặp nhiều trở ngại khó khăn vì đương sự không tự nguyện thi hành
khi bị bản án tuyên buộc phải thực hiện. Ngược lại, những nội dung các
đương sự đã thỏa thuận và u cầu tịa án cơng nhận phù hợp với ý chí của
các bên tranh chấp nên thường được tự giác thi hành một cách dễ dàng, nhanh
chóng. Thực tiễn đã cho thấy việc thi hành các quyết định công nhận sự thỏa
thuận của đương sự lúc nào cũng thuận lợi, nhanh chóng hơn các bản án.
Việc cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự cịn góp phần bảo đảm tính
bền vững của các mối quan hệ dân sự trong xã hội, góp phần khơi phục, duy
trì mối quan hệ bình thường các bên đương sự, hạn chế sự mâu thuẫn giữa các
bên tranh chấp. Như vậy sẽ khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết, ngăn
chặn các tội phạm phát sinh từ tranh chấp, tạo một mơi trường pháp lý an
tồn, góp phần giữ gìn trật tự an tồn xã hội.
Mặt khác, giải thích pháp luật trong q trình thực hiện việc cơng nhận
sự thỏa thuận của đương sự góp phần nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp
luật, cải thiện trình độ dân trí, giúp họ hiểu rõ hơn về trách nhiệm và quyền
hạn của mình, từ đó thương lượng, thống nhất đưa ra thỏa thuận chung, tránh
các tranh chấp, mâu thuẫn do thiếu hiểu biết về pháp luật, đồng thời giáo dục

nếp sống và làm việc theo pháp luật trong nhân dân.
Thứ hai, cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự góp phần đảm bảo
quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự.
Trên tinh thần cải cách tư pháp, đổi mới, cải cách thủ tục TTDS, công
nhận sự thỏa thuận của đương sự cịn góp phần đảm bảo, nâng cao quyền tự
định đoạt của đương sự. Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong
TTDS được quy định tại Điều 5 BLTTDS năm 2015 như sau: “Đương sự có
quyền quyết định việc khởi kiện, u cầu Tịa án có thẩm quyền giải quyết vụ


18

việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn
u cầu đó. Trong q trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền
chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự
nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và khơng trái đạo đức xã hội”.
Khi có tranh chấp xảy ra, việc giải quyết tranh chấp xuất phát từ ý chí
định đoạt của đương sự. Các chủ thể của quan hệ dân sự có quyền quyết định
về việc tự thỏa thuận với nhau hay yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Đây là cơ chế nhằm tăng cường quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp cho các đương sự. Trong trường hợp các bên yêu cầu Tịa án nhân dân
giải quyết thì các chủ thể, với tư cách là đương sự trong vụ án dân sự, có
quyền tự định đoạt trong suốt q trình Tịa án giải quyết tranh chấp. Quyền
tự định đoạt này được thể hiện qua việc các bên đương sự tiến hành thỏa
thuận với nhau về cách giải quyết vụ án một cách có thiện chí, tự nguyện,
khơng vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không trốn
tránh nghĩa vụ với Nhà nước, nghĩa vụ với người thứ ba. Sự thỏa thuận đó
được Tịa án cơng nhận và thể hiện bằng một quyết định có giá trị bắt buộc thi
hành, được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước. Việc

ghi nhận quyền tự thỏa thuận, thương lượng, tự do thể hiện ý chí để giải quyết
tranh chấp, mâu thuẫn của các đương sự thể hiện sự tôn trọng của pháp luật
đối với các quyền cơ bản của con người trong TTDS, tạo ra sự an tâm cho
đương sự, khuyến khích các đương sự thực hiện quyền quyết định và tự định
đoạt của mình.
Thứ ba, công nhận sự thỏa thuận của đương sự giúp giảm áp lực công
việc, tiết kiệm nguồn lực về cả thời gian, chi phí, nhân lực cho hệ thống Tịa
án từ đó nâng cao hiệu quả xét xử.
Có thể nói, các đương sự tự thỏa thuận với nhau hoặc hòa giải thành là


×