Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHOA
NGÂN HÀNG TÀI CHÍNH
Đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn
hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT”.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
2
Lời nói đầu
Cùng với xu hướng đổi mới của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng Việt
Nam cũng đang trong quá trình đổi mới, và đã đạt được những thành công
nhất định. Xu thế hội nhập, cạnh tranh ngày một diễn ra ngay gắt. Đặt hệ
thống ngân hàng Việt Nam trước những vận hội mới cũng như những khó
khăn phải đối mặt. Hoạt động của ngân hàng đạt kết quả tốt sẽ tạo điều kiện
rất lớn cho nền kinh tế phát triển và ngược lại ngân hàng hoạt động kém hiệu
quả sẽ ảnh hưởng trầm trọng tới sự phát triển của cả nền kinh tế, thẩm chí cả
nền kinh tế thế giới. Xác định được tầm quan trọng của tín dụng và vai trò của
ngân hàng Chính phủ và NHNN Việt Nam đã có nhiều giải pháp để nâng cao
hiệu quả hoạt động ngân hàng cũng như chất lượng tín dụng trong toàn bộ hệ
thống NHTM Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do nợ tồn đọng
từ các năm khác chưa xử lý hết và những khoản quá hạn mới phát sinh. Năm
2001 , theo thống kê của NHNN Việt Nam thì nợ quá hạn của NHTM Việt
Nam là 11%. Đây là trở ngại rất lớn cản trở sự phát triển của ngân hàng. Để
phát triển ổn định và bền vững thì đòi hỏi hệ thống NHTM Việt Nam cần tiếp
tục đổi mới hơn nữa.
Hoà vào nhịp đổi mới toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam, chi nhánh
NHCTII-HBT cũng có sự đổi mới đáng khích lệ. Tuy nhiên, nhìn vào kết quả
hoạt động trong những năm gần đây có thể thấy có một số vấn đề cần phải
khắc phục trong thời gian tới, đó là tình trạng dư nợ tín dụng ngắn hạn có tỷ
trọng ngày càng giảm trong tổng dư nợ, mặc dù về số tuyệt đối thì có sự tăng
lên trong các năm gần đây. Số nợ xấu tồn đọng từ các năm trước mặc dù đã
tích cực xử lý nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu, nợ quá hạn mới còn phát sinh, tình
trạng nợ khoanh vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nợ quá hạn. Để bắt kịp với
sự đổi mới thì nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-
HBT là điều hết sức cần thiết để để chi nhánh phát triển vững chắc.
Xuất phát từ hoàn cảnh phát triển nền kinh tế và thực trạng hoạt động
tín dụng của chi nhánh NHCT-HBT, em đã nghiên cứu và tìm hiểu về tình
hình hoạt động tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-HBT với để tài “Giải
pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh NHCTII-
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
3
HBT”. Bài viết tập trung nghiên cứu về các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín
dụng ngắn hạn, tập trung vào những vấn để liên quan đến hoạt động tín dụng
ngắn hạn tại NHCTII-HBT. Trong khuôn khổ bài viết này, em chia thành 3
phần:
ChươngI: Tổng quan về tín dụng và chất lượng tín dụng ngắn hạn.
ChươngII: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại NHCTII-
HBT.
ChươngIII: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn
của NHCTII-HBT.
Em xin chân thành cảm ơn GS – Tiến sĩ Cao Cự Bội đã tận tình giúp
đỡ em hoàn thành bài viết này. Em cũng xin cảm ơn cán bộ công tác tại
NHCTII-HBT đã tạo mọi đIều kiện và tận tình giúp đỡ trong thời gian em
thực tập và hoàn thành bài viết này.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
4
Chương I: Tổng quan về tín dụng và chất lượng
tín dụng ngắn hạn
1. Tổng quan về Ngân Hàng Thương Mại.
1.1 Khái niệm về NHTM.
Thuật ngữ Ngân hàng có từ rất lâu, trước khi nền sản xuất hàng hoá ra
đời. Tuy nhiên, ngay từ đầu nó không mang cái tên Ngân hàng. Xuất phát từ
nhu cầu của cuộc sống và công việc buôn bán mà các thương gia đã lập ra
những nơi để đổi tiền, nhận tiền gửi và thu phí của người gửi, họ giúp chi trả
và thanh toán hộ người gửi và ba nghiệp vụ đầu tiên hình thành, đó là: đổi
tiền, nhận tiền gửi và thanh toán hộ. Lúc đầu người gửi tiền phải trả một
khoản tiền phí cho các thương nhân này, nhưng về sau do áp lực cạnh tranh
và do các khoản tiền gửi này sinh lợi nên các thương nhân này đã trả phí cho
người gửi để tăng khả năng huy động. Qua một thời gian các thương gia này
thấy rằng: luôn có một lượng tiền mặt ổn định đọng trong két họ. Trong khi
đó một số thương gia buôn bán lại có nhu cầu vay. Vì vậy họ cho vay để kiếm
thêm lợi nhuận, chính là mầm mống xuất hiện những nghiệp vụ nền tảng của
NHTM.
Hoạt động và vai trò của ngân hàng không phải là bất biến, mà liên tục
phát triển theo các điều kiện kinh tế xã hội. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân
hàng càng ngày càng phát triển, đã tạo một nghành công nghiệp kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ, đó là NHTM. Nền kinh tế càng ngày càng phát triển, nhu
cầu ngày càng phong phú và được nâng cao, chính vì vậy bên cạnh những
nghiệp vụ cơ bản, NHTM đã cho ra đời nhiều dịch vụ mới như: Dịch vụ bảo
lãnh L/C, nghiệp vụ thuê mua, phát hành các chứng chỉ tiền gửi, chiết khấu
hối phiếu…
Hai ngân hàng thương mại đầu tiên trên thế giới đó là Banca di
Baralone(1401) và Banca di Valencia(1409) cả hai đều ở Tây Ban Nha.
Mặc dù NHTM ra đời từ rất lâu nhưng các nhà kinh tế học, các nhà kinh
tế vẫn chưa nhất trí với nhau về dịnh nghĩa ngân hàng bởi do sự khác biệt về
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
5
luật pháp, số lượng các nghiệp vụ, bối cảnh kinh tế, xã hội của các vùng khác
nhau…
Ngày nay, việc kinh doanh dịch vụ tiền tệ không còn là độc quyền của
ngân hàng. Cùng với các ngân hàng, kinh doanh và làm dịch vụ còn có những
tổ chức tài chính kinh doanh những loại hình tương tự như công ty bảo hiểm
các loại, các hiệp hội tiết kiệm cho vay , các quỹ hưu trí, các tổ chức tín dụng
tiêu dùng, các quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng… Tuy nhiên trong bất cứ
nước nào trên thế giới, thì ngân hàng thương mại vẫn là tổ chức tài chính lớn
nhất, quan trọng nhất trong giới kinh doanh tiền tệ.
Việt Nam, theo pháp lệnh “ NH, HTX tín dụng và công ty tài chính” ban
hành ngày24/05/1990 thì “ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và
làm phương tiện thanh toán”. Còn theo luật các tổ chức tín dụng ban
hành26/12/1997 NHTM là một doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng đó là “ hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội
dung chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”.
Ngân hàng ra đời ở nước ta năm1951 với tên gọi “Ngân hàng quốc gia
Việt Nam”. Sự ra đời ngân hàng Việt Nam mang nét đặc trưng riêng biệt:
Ngân hàng nhà nước ra đời vừa làm chức năng quản lý tiền tệ vừa làm chức
năng của NHTM( ngân hàng một cấp). Cho đến 26/03/1988, nghị định
53/HĐBT quyết định chia hệ thống ngân hàng Việt Nam thành 2 cấp, tách
bạch chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ(Ngân hàng nhà nước) và chức
năng kinh doanh tiền tệ(Ngân hàng thương mại). Trong những năm qua cùng
với sự phát triển của đất nước, nghành ngân hàng đã có những phát triển vượt
bậc góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước. Ngành ngân hàng ngày càng
hiện đại về công nghệ, nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng, tham gia rộng rãi
vào thị trương tiền tệ trong khu vực và quốc tế.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
6
1.2 Chức năng của NHTM.
Tầm quan trọng của NHTM được thể hiện qua các chức năng của nó.
Các chức năng của NHTM có thể được nêu ra dưới nhiều khía cạnh khác
nhau, nhưng nhìn chung có các chức năng sau:
1.2.1 Chức năng tạo tiền.
Để phục vụ cho lưu thông, giúp cho nền kinh tế phát triển, NHNN đưa
một khối lượng tiền nhất định vào trong lưu thông. Lượng tiền đó phải đảm
bảo đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, nhưng lượng tiền cung ứng vượt quá
nhu cầu của nền kinh tế sẽ gây ra lạm phát có hại cho nền kinh tế. Với một
lượng tiền cung ứng ban đầu, thông qua hoạt động nhận tiền gửi và cho vay
của hệ thống NHTM đã làm tăng lượng tiền cung ứng so với ban đầu. Đây là
chức năng chủ yếu của NHTM, chức năng tạo tiền. Và thông qua chức năng
này của NHTM mà NHNN với những công cụ của mình như dự trữ bắt buộc,
lãi suất chiết khấu… có thể thực hiện các chính sách tiền tệ quốc gia nhằm
đưa ra một khối lượng tiền phù hợp, ổn định được giá trị đồng tiền.
1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán.
Với hoạt động này của mình, NHTM đã tạo điều kiện cho việc thanh
toán giữa các tổ chức cá nhân… được thuận tiện và đặc biệt là tiết kiệm được
chi phí cho họ cũng như tiết kiệm chi phí cho xã hội. Bởi vì việc thanh toán
qua ngân hàng được thực hiện tập trung, chuyên nghiệp và có công nghệ cao.
Và cũng qua hoạt động thanh toán NHTM thu được những lợi ích nhất định.
Ngày nay hoạt động thanh toán ngày càng phát triển tại các NHTM. Việc
thanh toán không dùng tiền mặt được các ngân hàng khuyến khích.
1.2.3 Hoạt động huy động tiền gửi.
Để có được nguồn vốn để thực hiện việc đầu tư tín dụng, NHTM đã tiến
hành đã tiến hành huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và dân cư. Việc huy
động vốn này giúp cho NHTM có đủ lượng vốn đáp ứng cho nhu cầu của nền
kinh tế. Tạo ra thu nhập cho người gửi tiền là một lợi ích mà hoạt động huy
động vốn của ngân hàng mang lại. Những người gửi tiền vào NHTM sẽ được
nhận tiền lãi, tạo thu nhập cho những khoản tiền nhàn rỗi của họ. Ngày nay để
huy động được nhiều tiền gửi, NHTM đã phát triển rất nhiều loại tiền gửi
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
7
khác nhau: Có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán hoặc tiền gửi
tiết kiệm…
1.2.4 Hoạt động tín dụng.
Đây là hoạt động chủ yếu của NHTM bởi nó tạo ra thu nhập chính cho
NHTM, duy trì sự tồn tại của NHTM. Đây cũng là hoạt động cơ bản và lâu
dài của NHTM. NHTM dùng những khoản vốn huy động được để cho vay đối
với nền kinh tế, nhằm giúp những người có nhu cầu có được vốn để thực hiện
quá trình sản xuất kinh doanh của mình hoặc đảm bảo các nhu cầu khác. Với
việc cho vay này NHTM đã tạo cho sự phát triển kinh tế được thông suốt và
hiệu quả. Bởi nếu không có nguồn vốn vay từ ngân hàng thì rất nhiều doanh
nghiệp không thể tiến hành quá trình sản xuất kinh doanh được. Hầu như mọi
doanh nghiệp hiện nay đều vay vốn ngân hàng. Bên cạnh đó hoạt động cho
vay mang lại thu nhập cho ngân hàng dưới dạng lãi vay. Càng cho vay được
nhiều thì lãi thu được càng lớn. Tuy nhiên hoạt động tín dụng tiềm ẩn nhiều
rủi ro, vì vậy việc nâng cao các khoản tín dụng là mục tiêu hàng đầu, sống
còn trong hoạt động kinh doanh của mình để vừa đảm bảo có thu nhập cao
vừa an toàn, hiệu quả.
1.2.5 Tài trợ hoạt động ngoại thương
ngày nay khi mà hoạt động thương mại quốc tế ngày một phát triển, xuất
nhập khẩu giữa các nước đã diễn ra mạnh mẽ thì đòi hỏi việc thanh toán quốc
tế cũng như những hộ trợ khác cho thanh toán ngày càng nhiều. Việc đảm bảo
thanh toán cho các doanh nghiệp giữa các nước đòi hỏi một tổ chức đứng ra
phải có đủ khả năng và uy tín như NHTM mới đảm trách được. Các NHTM
giúp cho các doanh nghiệp có hoạt động đối ngoại thực hiện việc thanh toán
được hiệu quả, an toàn và đặc biệt là giảm được chi phí cho họ. Ngoài ra
NHTM còn có hỗ trợ về vốn, nghiệp vụ giúp cho các doanh nghiệp có thể
thực hiện một cách thuận lợi và an toàn các hoạt động ngoại thương. Cụ thể
ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ mở L/C, séc chuyển tiền, hối phiếu…
1.2.6 Hoạt động bảo lãnh.
Một số doanh nghiệp khi thực hiện các dự án lớn mà đòi hỏi về vốn và
uy tín vượt qua khả năng tài chính của mình, nhưng dự án đó là có hiệu quả.
Vì vậy các doanh nghiệp này rất cần một tổ chức đứng ra bảo lãnh cho họ để
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
8
họ ký kết hoạt động thực hiện dự án. Ngân hàng chính là người bảo lãnh tốt
cho các doanh nghiệp bởi NHTM có tiềm lực về vốn và uy tín. Mặt khác,
NHTM có thể tư vấn cung cấp tiền tệ, nghiệp vụ giúp cho doanh nghiệp quản
lý tốt dự án. Hiện nay, việc NHTM bảo lãnh cho các doanh nghiệp là khách
hàng của mình ngày càng phổ biến, điều đó mang lại lợi ích cho cả hai bên:
NHTM và doanh nghiệp.
Ngoài ra NHTM còn có nhiều chức năng khác như: Dịch vụ uỷ thác, bảo
đảm an toàn vật có giá…
1.3 Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại.
1.3.1 Nghiệp vụ nợ
hoạt động của NHTM dựa chủ yếu trên nguồn vốn huy động còn nguồn
vốn tự có của NHTM là rất nhỏ, nó chỉ là tấm đệm để hạn chế những rủi ro.
Số vốn huy động tại các NHTM chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác
nhau như: lãi suất, tình hình kinh tế xã hội, cách thức gửi tiền và trả lãi, phong
tục tập quán, địa điểm và thái độ phục vụ của ngân hàng
Các hình thức huy động bao gồm:
- Tiền gửi thanh toán: Đây là loại tiền gửi không kỳ hạn, có hoặc
không có lãi suất. Mục đích của người gửi tiền là để hưởng các dịch vụ của
ngân hàng phục vụ cho quá trình thanh toán của mình. Loại tiền gửi này tuy
có chi phí thấp nhưng chứa đựng rủi ro cao, do người gửi có thể rút bất kỳ lúc
nào. Tỉ lệ tiền gửi thanh toán ở Việt Nam còn thấp rất nhiều so với tỷ lệ chung
trên thế giới vì người dân nước ta vẫn giữ thói quen sử dụng tiền mặt trong
lưu thông.
- Tiền gửi tiết kiệm: Mục đích của loại tiền gửi này là để hưởng lãi
suất. Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là: Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn và không
có kỳ hạn. Các kỳ hạn do sự thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng.
Ngoài hai loại tiền gửi chủ yếu trên ngân hàng còn thực hiện một số hình
thức tiền gửi khác và ngân hàng không chỉ huy động vốn bằng tiền gửi mà
còn có nhiều hình thức huy động vốn khác như phát hành chứng khoán, vay
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
9
trên thị trường tiền tệ, vay từ tổ chức tín dụng khác, vay từ NHTW… Tuy
nhiên, các hình thức này không thường xuyên mà chỉ thực hiện trong những
trường hợp nhất định, bởi chứa đựng trong đó ràng buộc và điều kiện.
1.3.2 Nghiệp vụ có.
Đây là hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng. Ngân hàng dùng vốn huy
động được cùng với vốn tự có để thực hiện các hoạt động kinh doanh của
mình nhằm tạo ra nguồn thu nhập. Nghiệp vụ có của ngân hàng thể hiện ở các
hoạt động sau:
- Hoạt động ngân quỹ: Mỗi ngân hàng đều phải giữ lại một khoản
tiền tại két của Ngân hàng để phòng những trường hợp rút tiền của người gửi,
tránh được những rủi ro về thanh toán. Nên có thể nói hoạt động này đảm bảo
cho khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng. Khoản tiền bảo đảm
khả năng thanh toán của ngân hàng có thể là tiền tại két, tiền gửi NHTW,
chứng khoán, tiền mặt trong quá trình thu. Đó là những tài sản có tính thanh
khoản cao. Những tài sản này không sinh lời hoặc sinh lời thấp. Vì vậy, ngân
hàng phải điều chỉnh lượng dự trữ này sao cho hợp lý để đảm bảo khả năng
sinh lời cao, vừa đảm bảo khả năng thanh toán tốt.
- Hoạt động cho vay: Đây là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất
của ngân hàng, nó thường đem lại cho ngân hàng khoản lợi nhuận cao tới 60 –
70%. Mặt khác, đây cũng là hoạt động nhạy cảm, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Có thể
nói hoạt động tín dụng có mức độ rủi ro cao nhất, do đó để thực hiện có hiệu
quả hoạt động này các ngân hàng phải có những biện pháp để hạn chế những
rủi ro bằng cách quản lý chặt chẽ các khoản cho vay.
- Hoạt động thuê mua: Đây là hoạt động còn khá mới mẽ ở Việt
Nam. Đây là hình thức cung cấp tài chính cho khách hàng dưới hình thức
thuê. Hoạt động này cũng là một hình thức cấp tín dụng, nhưng nó có điểm
khác biệt là quyền sở hữu vẫn thuộc về bên cho thuê. Chỉ đến khi kết thúc hợp
đồng. Người thuê có quyền mua lại tài sản có ở mức giá thoả thuận giữa hai
bên, ấn định từ khi hợp đồng này.
- Hoạt động đầu tư trực tiếp: Bên cạnh các hình thức đầu tư gián
tiếp bằng cách cấp tín dụng ở trên, ngân hàng còn tham gia đầu tư trực tiếp
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
10
vào một công trình…Hoạt động này một mặt tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng,
mặt khác giúp bổ trợ cho các hoạt động khác bởi đa dạng hoá giảm rủi ro.
Cùng với việc nắm giữ chứng khoán, ngân hàng có thể đảm bảo cho khả năng
thanh toán của tài sản có sinh lời.
1.3.3 Nghiệp vụ trung gian.
Ngoài 2 nghiệp vụ trên, ngân hàng còn thực hiện cung cấp các dịch vụ
khác cho khách hàng nhằm thu phí và khuyến khích khách hàng đến với ngân
hàng. Ngày nay, hoạt động này ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân
hàng. Các hoạt động trung gian bao gồm:
- Dịch vụ thanh toán và cung cấp phương tiện thanh toán:
Ngân hàng đứng ra làm trung gian thanh toán hộ cho khách hàng và phát hành
các phương tiện nhằm phục vụ cho thanh toán như: UNC, UNT, Sec, L/C…
- Dịch vụ môi giới: Ngân hàng tổ chức mua bán, lưu ký, bảo quản
chứng khoán cho ngân hàng. Tại Việt Nam, các ngân hàng thành lập ra các
công ty chứng khoán để thực hiện hoạt động này.
- Dịch vụ ngân quỹ: Ngày nay, khi mà thị trường không dùng tiền
mặt thì hoạt động này ngày càng phát triển rộng. Ngân hàng đứng ra thu hộ và
phát tiền mặt cho khách hàng.
- Dịch vụ chuyển tiền: Với sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật thì dịch
vụ này ngày càng được nhiều người sử dụng.
- Dịch vụ bảo lãnh: Bằng uy tín và khả năng tổ chức của mình, ngân
hàng đứng ra bảo lãnh cho các công ty phát hành chứng khoán, bảo lãnh vay
vốn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng…
- Dịch vụ tư vấn: Cung cấp thông tin và hỗ trợ về mặt chuyên môn
cho khách hàng.
- Dịch vụ bảo quản.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
11
2. Lý luận chung về tín dụng
2.1. Khái niệm tín dụng
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một hành vi kinh tế rất phức tạp như: bán
chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc.
Trong mỗi một hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết với
nhau như sau:
- Một bên trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc;
- Còn bên kia cam kết sẽ hoàn lại những đối khoản của tài hoá đó trong
một thời gian nhất định và theo một số điều kiện nào đó.
Trong quan hệ giao dịch trên thể hiện các nội dung:
Trái chủ hay còn gọi là người cho vay chuyển giao cho người thụ trái
hay còn ngọi là người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này có thể
dưới hình thái giá trị hoặc dưới hình thái hiện vật như hàng hoá, máy móc,
thiết bị bất động sản.
Người thụ trái hay là người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời một thời
gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoã thuận, người đi vay
phải hoàn trả cho người cho vay.
Giá trị hoàn trả thường lớn hơn giá trị cho vay hay nói cách khác người
đi vay phải trả thêm phần lợi tức. Thước đo phần lợi tức này là giá trị tài hoá
hoặc tiền tệ và lãi suất mà hai bên thoả thuận. Người cho vay phải tuân thủ
nguyên tắc : Lãi suất cho vay phải chứa đựng các yếu tố như lạm phát, rủi ro
và chi phí cơ hội. Người cho vay phải chú ý đến giá trị thời gian của tiền.
Như vậy: Tín dụng là một quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó
một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời
gian nhất định, đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết hoàn trả phần
tài sản đã mượn cộng thêm một phần lợi tức theo thời hạn đã thoả thuận.
Từ tín dụng xuất phát từ tiếng la tinh -credittum- có nghĩa là sự tín
nhiệm. Trong giới tài chính, một người được xem là có uy tín khi người khác
tin tưởng và sẳn sàng ký thác tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự
cho vay có hứa hẹn thời tgian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức độ tín
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
12
nhiệm của người cho vay, yếu tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động
tín dụng, là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh.
Do nhu cầu phát triển và đi lên của xã hội loài người mà quan hệ tín
dụng đã hình thành rất sớm. Quan hệ tín dụng đầu tiên trong lịch sử là tín
dụng nặng lãi, quan hệ tín dụng này hình thành từ đầu chế độ nô lệ và thậm
chí còn tồn tại đến ngày nay. Hình thức tín dụng này được coi là phương pháp
tích luỹ nguyên thuỷ, là công cụ đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn,
tạo điều kiện cho phương thức sản xuất mới ra đời ra đời. Quan hệ tín dụng
phát triển hết sức đa dạng và phức tạp bắt đầu từ khi chế độ chủ nghĩa tư bản
ra đời. Cho đến ngày nay các quan hệ tín dụng đã phát triển toàn diện. Trong
thực tiễn thường có các chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng cụ thể, ví dụ:
Quan hệ tín dụng giữa nhà nước với các doanh nghiệp và công chúng
thể hiện dưới hình thức nhà nước phát hành các giấy nợ như công trái, trái
phiếu đô thị, tín phiếu kho bạc.
Quan hệ giữa các doanh nghiệp với nhau hay còn gọi là tín dụng
thương mại thể hiện dưới hình thức bán chịu hàng hoá.
Quan hệ tín dụng giữa các công ty và công chúng thể hiện dưới hình
thức các công ty phát hành các trái phiếu, hoặc bán hàng trả góp.
Quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng, các tổ chức tài chính phi ngân
hàng với các doanh nghiệp và công chúng, thể hiện dưới hình thức nhận tiền
gửi của khách hàng, cho khách hàng vay, tài trợ thuê mua
Quan hệ tín dụng giữa nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế, chính
phủ các nước thể hiện dưới hình thức vay nợ.
Với chức năng kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại tham gia
vào quan hệ tín dụng với hai tư cách. Ngân hàng đóng vai trò thụ trái và hành
vi này được gọi là đi vay bao gồm nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành
trái phiếu để vay vốn trong xã hội, vay vốn của ngân hàng trung ương và các
ngân hàng khác. Ngân hàng đóng vai trò trái chủ, hành vi này được gọi là cho
vay. Vì tính chất phức tạp của hoạt động cho vay vì thế khi nói đến tín dụng
người ta thường đề cập đến hoạt động cho vay mà bỏ quên mặt thứ hai đó là
đi vay.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
13
Quan hệ tín dụng mà ngân hàng đóng vai trò trái chủ gọi là tín dụng
ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là một trong ba nghiệp vụ cơ bản khi hình
thành nên các ngân hàng thương mại và đây cũng là nguồn thu chủ yếu của
các ngân hàng. Sự phù hợp về nhu cầu của hai nhà tư bản ngân hàng và nhà tư
bản sản xuất kinh doanh hàng hoá đã dẫn đến sự ra đời mối quan hệ tín dụng
này. Do chuyên môn hoá trong kinh doanh và do đặc điểm của hàng hoá tiền
tệ mà hình thức tín dụng này ngày càng phát triển và trở thành hình thức tín
dụng chủ yếu trong nền kinh tế hàng hoá. Tín dụng ngân hàng đã khắc phục
được những hình thức tín dụng trước đó và thực sự trở thành một yếu tố quan
trọng thúc đẩy sản xuất phát triển.
Như vậy:Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn về vốn tiền tệ giữa
ngân hàng và các đơn vị kinh tế, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và
các tầng lớp dân cư theo nguyên tắc có hoàn trả.
2.2. Phân loại tín dụng ngân hàng
2.2.1. Căn cứ vào mục đích
Dựa vào căn cứ này cho vay được chia ra làm các loại sau:
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
Cho vay tiêu dùng là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng
như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các
khoản cho vay để trang trải các chi phí thông thường của đơì sống thông qua
phát hành thẻ tín dụng.
Thuê mua và các loại khác.
2.2.2 . Căn cứ vào thời hạn tín dụng.
Tín dụng ngắn hạn: Loại tín dụng này có thời hạn dưới 12 tháng và
được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
14
cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng thương mại tín dụng
ngân hàng chiếm tỉ trọng cao nhất.
Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của ngân hàng nhà nước
Việt Nam, tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, còn đối với các
ngân hàng thương mại trên thế giới loại tín dụng có thời hạn đến 7 năm. Tín
dụng trung hạn chủ yếu được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc
đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án
mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Tín dụng dài hạn: Theo quy định ở Việt Nam loại tín dụng có thời hạn
trên 3 năm, còn trên thế giới loại tín dụng này có thời hạn trên 7 năm.Tín
dụng dài hạn là loại tín dựng cung cấp để đáp ứng nhu cầu dài hạn như xây
dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dung các xí
nghiệp mới. Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho
vay ngắn hạn, nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại
đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó
là nâng cao tỉ trọng cho vay trung và dài .
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại:
Cho vay không bảo đảm là loại cho vay không cần tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh
doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị tài chính hiệu quả thì ngân hàng
có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần
một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
Cho vay có bảo đảm là loại cho vay được ngân hàng cung ứng phải có
tài sản thế chấp hoặc cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đối với
khách hàng không có uy tín cao với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có
bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có một nguồn thu
thứ hai, bổ sung nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn. Đồng thời tài sản thế
chấp này bảo đảm khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích cam kết.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
15
2.2.4 . Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
Theo căn cứ này tín dụng ngân hàng được chia làm hai loại:
Tín dụng bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng
được cung cấp bằng tiền. Đây là loại tín dụng chủ yếu của các ngân hàng và
việc thực hiện bằng các kỷ thuật khác nhau như: Tín dụng ứng trước, thấu chi,
tín dụng thời vụ, tín dụng trả góp
Tín dụng bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và
đa dạng, riêng đối với các ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ
biến đó là tài trợ thuê mua. Theo phương thức cho vay này ngân hàng hoặc
các công ty thuê mua( công ty con của ngân hàng)cung cấp trực tiếp tài sản
cho người đi vay được gọi là người đi thuê và theo định kỳ người đi thuê hoàn
trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và lãi.
2.2.5. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng.
Dựa vào căn cứ này cho vay chia làm hai loại:
Cho vay trực tiếp: Ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho những người có
nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng.
Cho vay gián tiếp: Là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc
mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn
thanh toán. Các ngân hàng thương mại cho vay gián tiếp theo các loại sau:
Chiết khấu thương mại, mua các phiếu bán hàng, mua các khoản nợ của
doanh nghiệp Ngoài các loại cho vay trên đây, ngân hàng còn thực hiện các
nghiệp vụ bảo lãnh cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với nghiệp vụ
này ngân hàng không phải cung cấp tiền, nhưng khi người bảo lãnh không
thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng thì người bảo lãnh phải thay thế để
thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Chính vì lý do trên đây, mà người ta gọi hành
vi cam kết bảo lãnh của ngân hàng là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng
chữ ký bao gồm các loại: Tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
16
3. Tín dụng ngắn hạn.
3.1. Khái niệm.
Tín dụng ngắn hạn là những khoản cho vay có thời hạn nhỏ hơn một
năm. NHTM là nhà cung ứng phần lớn các khoản vay ngắn hạn cho các
doanh nghiệp. Các khoản vay này ít rủi ro về khả năng thanh toán cũng như
về lãi suất so với vay trung và dài hạn. Những khoản cho vay ngắn hạn
thường được sử dụng rộng rãi trong việc tài trợ mang tính thời vụ về vốn luân
chuyển và tài trợ tạm thời cho các khoản chi phí sản xuất.
3.2. Phân loại tín dụng ngắn hạn.
Nếu xét theo cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, thì đây là tín dụng tài
trợ vốn lưu động. Nếu như vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp
không đủ trang trải về loại vốn này, thì doanh nghiệp đó phải xin vay tín dụng
ngân hàng. Nhu cầu về vốn lưu động cao hay thấp tuỳ thuộc vào tình hình sản
xuất kinh doanh và khả năng quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp. Nhưng
dù nhu cầu cao hay thấp, doanh nghiệp luôn sử dụng tín dụng vốn lưu động
với tư cách là các khoản vay ít hay nhiều thường xuyên theo cơ cấu tài chính
của doanh nghiệp.
Dưới góc độ kỹ thuật tín dụng, Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay
ngắn hạn theo các loại hình phổ biến sau đây:
3.2.1. Tín dụng ứng trước.
Các tín dụng ứng trước được gọi bằng các từ ngữ khác nhau. Các tên gọi
của chúng thường thể hiện những thực tế rất gần gũi như: Mở tín dụng khoản,
thấu chi, tín dụng vãng lai(hay còn gọi là cho vay luân chuyển) Nhìn chung,
các khoản tín dụng ứng trước chủ yếu theo nhu cầu toàn bộ tài sản lưu động,
nghĩa là không thực hiện một tài sản xác định nào. Nói chung không có một
đảm bảo riêng.
Tín dụng ứng trước bao gồm các loại sau đây:
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
17
3.2.1.1. Tín dụng thế chấp hoặc nghiệp vụ mở tín dụng khoản.
Loại tín dụng này là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng tín dụng trong đó khách hàng được sử dụng một mức cho vay trong một
thời hạn nhất định.
Trong hình thức này, ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách mở cho
họ một tín dụng khoản. Khi mở tài khoản như vậy khách hàng không phải bỏ
tiền vào đấy, mà trái lại có thể lấy tiền ra, tiền đó là tiền ứng trước của ngân
hàng vì vậy nghiệp vụ này còn gọi là nghiệp vụ ứng trước. Khách hàng có thể
sử dụng tài khoản này để phát hành séc chi trả hoặc có thể sử dụng cho nhiều
mục đích khác.
Khi thực hiện một khoản tín dụng ứng trước tuỳ vào sự nhìn nhân của
ngân hàng đối với khách hàng mà có thể ngân hang đưa ra một trong hai hình
thức sau:
Tín dụng ứng trước không bảo đảm:là việc cấp tín dụng không cần tài
sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh, mà dựa trên cơ sở uy tín của khách hàng.
Trước khi cho vay ngân hàng phải xem xét, đánh giá, phân tích. Đánh
giá khách hàng dựa vào hang loạt chỉ tiêu như mức vốn, lợi nhuận hàng năm,
uy tín của sản phẩm trên thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm, trình độ quản
lý.
Tín dụng ứng trước có bảo đảm: là loại tín dụng được cấp phát trên cơ
sở có tài sản thế chấp(do đó có tên gọi là tín dụng thế chấp), cầm cố hay bảo
lãnh của một hay nhiều người khác.
3.2.1.2 . Thấu chi.
Thấu chi là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt trên cơ sở hợp
đồng tín dụng hay còn gọi là tín dụng hạn mức, được thực hiện bằng cách cho
phép khách hàng được sử dụng kết số thiếu(dư nợ) trong một giới hạn nhất
định. Thấu chi là kỹ thuật cho vay đặc biềt mà trong đó xí nghiệp được sử
dụng vốn một cách linh hoạt, các đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố phụ, vì số nợ
thường xuyên biến động không thể thực hiện các đảm bảo trực tiếp. Thấu chi
được xem là loại tín dụng không bảo chứng.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
18
Thấu chi là một khoản tín dụng tổng hợp mà doanh nghiệp vay khi nhu
cầu về vốn lưu động của nó vượt khả năng của vốn lưu động. Khi cấp tín
dụng thấu chi ngân hàng không đòi hỏi việc nghiên cứu một nguyên nhân rất
chính xác về sự phát sinh và tìm sự hợp lý của nó trong cơ cấu tài chính của
doanh nghiệp.
3.2.1.3. Tín dụng vãng lai.
Tín dụng vãng lai chưa được giới thiệu đầy đủ trên sách báo Việt Nam.
Có rất nhiều ý kiến khác nhau và đang còn có nhiều sự nhầm lẫn. Do vậy việc
quy tụ những thông tin, những tri thức về nội dung chủ yếu của tín dụng vãng
lai, để hiểu thêm những ưu điểm của nó trong nền kinh tế thị trường. Từ đó
rút ra những thích ứng với điều kiện Việt Nam đang trong quá trình đổi mới
và phát triển đa dạng các loại tín dụng của NHTM.
Tín dụng vãng lai được xem là hình thức tín dụng cổ điển nhất. Tín dụng
vãng lai là tín dụng ngân hàng do cơ quan tín dụng cấp cho khách hàng của
mình : bằng bản tệ hoặc ngoại tệ và theo nhu cầu khách hàng có thể được sử
dụng với số lượng khác nhau nhưng không vượt quá số tiền quy định trong
hợp đồng. Việc tính số dư các khoản nộp vào và rút ra khỏi tài khoản của
khách hàng được tiến hành sau những khoảng thời gian quy định trong hợp
đồng, đồng thời với việc thanh toán các khoản chi trả tín dụng trên tài khoản
thống nhất của khách hàng .
3.2.1.4. Tín dụng thời vụ.
Hoạt động thời vụ là hoạt động sản xuất được thực hiện ở một thời điểm
nào đó trong năm trong khi việc tiêu thụ lại được thực hiện tại một thời điểm
khác hoặc ngược lại việc sản xuất được rải đêù trong cả năm để tránh chi phí
đột biến và dàn đều tổng chi phí trong khi việc tiêu thụ lại được tiến hành
trong một thời gian rất ngắn. Trong các trường hợp này doanh doanh nghiệp
có nhu cầu thời vụ về tài trợ vốn lưu động và nó được thoả mản bằng tín dụng
thời vụ.
Doanh nghiệp yêu cầu ngân hàng phục vụ mình giúp đỡ tài chính ở các
thời vụ. Dựa vào điều tra nghiên cứu của mình, ngân hàng sẽ có kế hoạch tài
trợ thời vụ cụ thể của tong tháng, các nhu cầu và nguồn vốn dự kiến. Nói cách
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
19
khác, khi có nhu cầu vượt quá nguồn vốn trong một thời kỳ nào đó người ta
đưa ra nhu cầu đặc biệt về thời vụ mà nếu như mọi việc diễn ra tốt đẹp, sẽ
được san bằng ở thời kỳ bán hàng. Vốn lưu động phải bù đắp một phần nhu
cầu này. Một doanh nghiệp có khả năng suốt năm đương đầu với thời kỳ mùa
vụ mà không cần tới tín dụng bên ngoài, thì chắc chắn là một doanh nghiệp
quản lý chưa tốt nguồn vốn, bởi vì nó chứng tỏ việc không tận dụng số tư bản
thường có trong một thời kỳ của năm và mức sinh lợi của vốn này do đó cũng
phải gánh chịu những hậu quả.
3.2.2. Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền.
3.2.2.1. Chiết khấu thương phiếu.
Thương phiếu hay kỳ phiếu thương mại là một giấy nợ phát sinh trong
quan hệ thương mại và người hưởng thụ một trái quyền đối với người thụ trái
khi giấy nợ đến hạn. Thương phiếu là công cụ của tín dụng thương mại.
Từ thời Trung cổ các thương phiếu đã trở thành phương tiện quan trong
trong kinh doanh ngân hàng. Ngày nay, có rất nhiều nghiệp vụ ngân hàng
được thực hiện thông qua việc chiết khấu thương phiếu:
-Ngân hàng tham gia vào việc thanh toán các phiếu khoán khi các
thương phiếu đó được chiết khấu tại ngân hàng của họ.
-Ngân hàng cũng thực hiện việc thu ngân các phiếu khoán giúp khách
hàng.
Ngoài thanh toán và thực hiên thu ngân hộ khách hàng, ngân hàng có thể
giữ các phiếu khoán làm vật bảo đảm. Nhưng thông thường thì ngân hàng
chiết khấu thương các phiếu.
-Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ cổ điển của ngân hàng, ra đời rất
sớm và mãi đến ngày nay vẫn được các ngân hàng áp dụng một cách phổ
biến. Đây là một nghiệp vụ ít rủi ro và không làm đóng băng vốn của ngân
hàng. Thời hạn cho vay ngắn tối đa là 90 ngày, điều này nâng cao tính thanh
khoản trong quản lý tài sản có của ngân hàng. Mặt khác hai hình thức cơ bản
của thương phiếu là hối phiếu và lệnh phiếu được lập trên cơ sở hàng hoá đã
được chuyển giao cho người mua. Đây chính là tiền đề để người mua thực
hiện kinh doanh của mình, để có khả năng hoàn trả cho ngân hàng. Lại nữa
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
20
nghiệp vụ chiết khấu lại ở NHTW khi ngân hàng ngặp khó khăn về thanh
khoản. Mặc dù chiết khấu thương phiếu mang lại nhiều lợi ích cho khách
hàng. Tuy nhiên vẫn có rủi ro xảy ra. Vì vậy trước khi chiết khấu thương
phiếu, ngân hàng phải xem xét kỷ khách hàng đến chiết khấu, xem xét kỷ các
hối phiếu và mối quan hệ của những người có liên quan đến hối phiếu.
Như vậy: Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn,
được thực hiện dưới hình thức khách hàng chuyển giao quyền sở hữu thương
phiếu để đổi lấy một số tiền bằng mệnh giá trái phiếu trừ đi lãi chiết khấu và
hoa hồng phí.
Ngoài ra tín dụng dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền còn gồm các
loại: Nghiệp vụ huy động các trái quyền thương mại, bao thanh toán hay mua
uỷ nhiệm thu
3.2.3. Tín dụng bằng chữ ký của ngân hàng.
Loại tín dụng này thực chất là một cam kết lãnh nợ do ngân hàng đưa ra
bằng việc phát hành các chứng thư bảo lãnh hoặc bảo chứng, cam kết trả thay
cho người đi vay nếu người đi vay không trả được nợ. Có trường hợp đó là
sự xác nhận khoản tín dụng đã cấp cho một thời hạn nhất định. Khi thực hiện
cho vay qua cam kết bằng chữ ký, ngân hàng không phải xuất quỹ đễ cho
khách hàng sử dụng một khoản tiền nhất định, mà chỉ đưa ra một cam kết bảo
lãnh cho con nợ đối với chủ nợ. Như vậy, chỉ khi nào con nợ không trả được
nợ thì ngân hàng mới trả nợ hộ. Thông thường để thực hiện nghiệp vụ này thì
ngân hàng phải lập một quỹ bảo lãnh theo một tỷ lệ so với vốn pháp định.
Hiện nay ở Việt Nam số tiền bảo lãnh tín theo tỷ lệ phần trăm trên tổng giá trị
bảo lãnh.
3.3. Vai trò của tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi
chúng ta. Tín dụng đã góp phần làm ổn định và phát triển sản xuất của nền
kinh tế, các tổ chức và mỗi cá nhân. Cũng như các loại tín dụng khác, tín
dụng ngắn hạn có vai trò cực kỳ quan trọng. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt
Nam là một nước trong giai đoạn đang phát triển thì tín dụng ngắn hạn càng
có vai trò quan trọng. Nó thể hiện:
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
21
3.3.1. Đối với nền kinh tến
Ngân hàng trong nền kinh tế với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ. Với tư cách là một trung gian tài chính, nó là kênh
chuyển vốn từ những nơi thừa vốn đến những nơi thiếu vốn và hoạt động hiệu
quả trong nền kinh tế. Các kênh truyền dẫn vốn có thể qua thị trường tài
chính đó là các nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn, nhưng nó đã bị cạnh
tranh mạnh mãnh mẽ của các tổ chức tài chính phi ngân hàng tham gia vào thị
trường này như: Công ty Bảo hiểm, các quỹ đầu tư, công ty tài chính Hoặc là
thị trường tiền tệ là kênh dẫn và huy động những ngồn vốn và các giấy tờ có
giá ngắn hạn. Thị trường này hoạt động rất linh hoạt và cung cấp một nguồn
một nguồn vốn rất lớn cho nền kinh tế. Do đó tín dụng ngắn hạn ngày càng
phát triển mạnh mẽ.
3.3.2. Đối với các doanh nghiệp.
Tín dụng ngân hàng là nguồn bổ sung vốn lưu động để bảo đảm hoạt
động kinh doanh được liên tục
Không có sự ăn khớp về mặt thời gian giữa các khoản thu và các khoản
chi của một doanh nghiệp nên tại một thời điểm nhất định, trong nền kinh tế
có những thời điểm trong nền kinh tế có những doanh nghiệp thiếu vốn tạm
thời và cần bổ sung ngay để đảm bảo tính sản xuất được liên tục. Đối với các
doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ như các doanh nghiệp bán lẻ, chế
biến thực phẩm, các công ty chế biến nông sản, các doanh nghiệp xây
lắp hoặc các doanh nghiệp có vòng quay vốn lưu động chậm thì các khoản tín
dụng từ ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc giúp cho quá trình sản
xuất không bị gián đoạn. Các khoản tín dụng ngắn hạn có ý nghĩa lớn đối với
các doanh nghiệp khi xuất hiện cơ hội kinh doanh trên thị trường, giúp doanh
nghiệp tận dụng được thời cơ phát triển sản xuất.
Tín dụng ngắn hạn tạo áp lực buộc các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả.
Một trong những nguyên tắc cơ bản là vay có hoàn trả ngốc lẫn lãi sau
một thời gian nhất định. Do vậy có thể trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và tạo
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
22
lập được uy tín trong việc thực hiện hợp đồng tín dụng, các doanh nghiệp phải
hoạt động có hiệu quả để trả nợ cho ngân hàng.
Như vậy, tín dụng ngân hàng cũng là một yếu tố kích thích sản xuất của
doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải tiến mẫu mã sản phẩm để có
thể rút ngắn chu kỳ sản xuất, đưa nhanh sản phẩm vào lưu thông, tạo lập chỗ
đứng trên thị trường.
Đối với các doanh nghiệp lớn, công việc sản xuất đang phát triển thì
phần lớn vốn lưu động đều vay ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp còn ký hợp
đồng ứng trước để có thể linh hoạt trong việc vay vốn, đáp ứng các cơ hội
kinh doanh. Do tính chất của tín dụng ứng trước là doanh nghiệp phải trả lãi
kể cả trên phần dư nợ vay chưa sử dụng đến. Do đó bắt buộc các doanh
nghiệp phải quay vốn nhanh và tính toán hoạt động kinh doanh có hiệu quả,
mang lại lợi nhuận cho cả doanh nghiệp và cả cho ngân hàng.
Nói tóm lại, tín dụng ngắn hạn không chỉ giúp các doanh nghiệp có được
nguồn bổ sung nguồn vốn lưu động mà còn là động lực giúp các doanh nghiệp
làm ăn có hiệu quả, trước là để trả các khoản nợ vay và sau là để phát triển
doanh nghiệp.
3.3.3. Đối với ngân hàng.
Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng ngắn hạn nói riêng đã đảm bảo
nguồn thu chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đó là công cụ để
tạo nên lợi nhuận và phòng chống rủi ro của ngân hàng. Trong quá trình hoạt
động của các ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng phải quan tâm đến các
vấn đề : Phải tạo được nguồn thu bù đắp được các chi phí( chi phí huy động
vốn, chi phí trả lương, chi phí quản lý Mặt khác phải đảm bảo khả năng
thanh khoản của ngân hàng. Tín dụng ngắn hạn có thể giúp các nhà quản trị
giải quyết vấn đề này.
3.4. Các quy định trong hoạt động tín dụng ngắn hạn.
3.4.1. Nguyên tắc tín dụng:
Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo các nguyên tắc
sau:
-Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
23
-Phải hoàn trả nơ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng.
-Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiện đúng quy định của chính phủ và
ngân hàng nhà nước.
3.4.2. Điều kiện vay vốn.
Ngân hàng sẽ xem xét và quyết định cho khách hàng vay khi khách hàng
có đủ các điều kiện:
*Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu quy định
của pháp luật.
*Có khả năng đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Cụ thể :
-Đối với pháp nhân phải có vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình sản
xuất kinh doanh. Đối với hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, cá
nhân, công ty hợp danh, mức vốn tự có tham gia trực tiếp vào phương án sản
xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống tối thiểu bằng 20% nhu cầu vốn thực hiện
phương án.
-Sản xuất kinh doanh có lãi hoặc không bị lỗ, nếu bị lỗ thì phải có dự án
khả thi khắc phục hoặc cơ quan có thẩm quyền xác nhận bù lỗ.
-Có tình hình tài chính lành mạnh.
-Khách hàng phải mua bảo hiểm tài sản là đối tượng vay vốn.
*Mục đích sử dụng vốn hợp pháp.
*Có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh khả thi.
*Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay của NHNN.
3.4.3. Đối tượng cho vay.
*Giá trị vầt tư hàng hoá trong các khâu dự trữ, lưu thông và các chi phí
cấu thành giá mua hoặc giá thành sản phẩm, các khoản chi phí khác để doanh
nghiệp tiến hành phương án sản xuất kinh doanh.
*Số tiền thuế xuất nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất
khẩu mà giá trị lô hàng xuất khẩu đó tổ chức tín dụng có tham gia cho vay.
Ngân hàng không cho vay ngắn hạn để nộp khấu khao, nộp thuế và phần lãi
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
24
định mức(đối với các xí nghiệp xây lắp). Những vầt tư hàng hoá là những đối
tượng vay vốn có khả năng luân chuyển. Ngân hàng không cho vay vốn để
mua vật tư, hàng hoá ứ đọng hoặc để thực hiện những khối lượng thi công
ngoài kế hoạch vốn đầu tư của Nhà Nước đã ghi, ngoài thiết kế dự án hoặc
nguồn vốn chưa rõ nguồn vốn đầu tư.
3.4.4. Thời hạn cho vay.
Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với các chu kỳ sản xuất kinh
doanh và khả năng trả nợ của khách hàng, nhưng tối đa không quá 12 tháng.
3.4.5. Lãi suất cho vay.
Mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận phù
hợp với quy định của NHNN về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp
đồng tín dụng. Tổ chức tín dụng có trách nhiệm công bố công khai các mức
lãi suất cho vay cho khách hàng biết. Tuỳ các mức độ quan hệ của ngân hàng
và khách hàng mà có các mức độ ưu tiên về lãi suất khác nhau. Nếu khoản
vay quá hạn trả nợ thì phải áp dụng lãi suất quá hạn.
Phương pháp xác định lãi suất cho vay được xác định trước khi cho vay
dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản.
Tại Việt Nam lãi suất cho vay ngắn hạn do tổng giám đốc tổ chức tín
dụng ấn định trong phạm vi khung lãi suất do NHNN ấn định trong từng thời
kỳ.
3.4.6. Mức cho vay:
Tổ chức tín dụng căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, tỷ lệ cho
vay tối đa so với giá trị tài sản làm bảo đảm tiền vay, khả năng trả nợ của
khách hàng và khả năng nguồn vốn của mình để quyết định mức cho vay
nhưng không được vượt quá mức quy định tại điều 79 của Luật các tổ chức
tín dụng.
Ngân hàng xây dựng mức cho vay đối với tong doanh nghiệp trên cơ sở
vốn vay chỉ bổ sung cho vốn lưu động thiếu, sau khi doanh nghiệp đã tận
dụng hết vốn tự có. Các nguồn vốn khác bao gồm cả vốn được các chủ đầu tư
ứng trước khi doanh nghiệp trúng thầu.
Luận văn tốt nghiệp
Nguyễn Thành Sơn - Khoa Ngân hàng Tài chính
25
Đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có nguồn thu ổn định,
tình hình tài chính lành mạnh, có quan hệ vay vốn thường xuyên và có tín
nhiệm đối với khách hàng, ngân hàng có thể cho vay theo hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là giới hạn dư nợ tối đa mà ngân hàng cam kết cho khách
hàng vay trong một thời hạn nhất định và được xác định như sau:
Chi phí cần thiết cho
quá trình hoạt động
kinh doanh quý kế
hoạch.
Mức vốn
vay quý
=
Vòng quay VLĐ quý
-
Vốn tự có
và coi
như tự có
-
Các
khoản
Huy động
khác.
-
Vốn ứng
trước của
chủ đầu
tư
1. Chi phí cần thiết để sản xuất kinh doanh quý, kỳ hoặc thời vụ kế
hoạch là giá trị sản lượng thực hiện trong quý, kỳ hoặc thời vụ chuẩn bị làm
loại trừ đi các khoản khấu hao, thuế, lãi định mức và các khoản không thuộc
đối tượng cho vay khác.
2. Là vốn lưu động tự có của khách hàng.
Ngoài ra hạn mức tín dụng dựa trên cơ sở:
-mức dư nợ cao nhất
-mức cho vay tối đa theo quy định của pháp luật
-mức cho vay tối đa theo quyết định của chính sách tín dụng mỗi ngân
hàng thương mại.
-Đảm bảo tiền vay.
Đối với những doanh nghiệp có nguồn thu không thay đổi, các doanh
nghiệp doanh nghiệp có quan hệ không thường xuyên với ngân hàng, các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ gia đình .ngân hàng thường áp dụng cho
vay từng món trên cơ sở thẩm định hồ sơ vay vốn của khách hàng, ngân hàng
xác định được nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và quyết định mức cho vay,
thời hạn, phương thức trả nợ đối với từng doanh nghiệp cụ thể. Mức cho vay
được xác định: