Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

ÔN TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH PHẦN I

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.36 KB, 53 trang )

ÔN TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
PHẦN I
Câu 1: Phân tích những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc Việt Nam và tinh hoa
văn hóa nhân loại đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?
a) Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã hình thành nên những giá trị truyền
thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề tư tưởng, lý
luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trước tiên, đó là chủ nghĩa u nước và tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại
xâm của dân tộc Việt Nam. Đây là truyền thống tư tưởng quý báu nhất, nguồn gốc sức
mạnh lớn nhất trong đấu tranh dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Điều đó được phản
ánh từ văn hoá dân gian đến văn hoá bác học, từ những nhân vật truyền thuyết như
Thánh Gióng, đến các anh hùng thời xa xưa như Thục Phán, Hai Bà Trưng, Bà Triệu…
đến những anh hùng nổi tiếng thời phong kiến như Ngô Quyền, Phùng Hưng, Trần Quốc
Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ… Chủ nghĩa yêu nước là giá trị văn hoá cao
nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hố tinh thần Việt Nam, “là dịng sữa tinh thần nuôi sống
dân tộc Việt Nam từ thời lập quốc cho đến hôm nay và mãi mãi về sau”, tạo thành cơ sở
vững chắc để nhân dân ta tiếp thu những giá trị văn hố từ bên ngồi làm phong phú và
khơng ngừng phát triển văn hóa dân tộc. Khái quát lại giá trị đặc sắc đó, chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “ Dân ta có một lịng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành
một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó vượt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”. Chủ nghĩa yêu nước là chuẩn mực, thước
đo đánh giá con người; là điểm xuất phát và cội nguồn sâu xa về hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh. Có thể nói, chính chủ nghĩa yêu nước đã tạo động lực to lớn quyết định đến
việc ra đi tìm đường cứu nước của Người. Người nói: “ Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu
1


nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ
ba”.


Hai là, cùng với chủ nghĩa yêu nước, trong truyền thống văn hóa của dân tộc
Việt Nam có những giá trị văn hóa ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh như tinh thần đồn kết cộng đồng dân tộc, tương thân, tương ái…Truyền
thống này đã đi vào trong đời sống lao động, trong chiến đấu, trong sản xuất, trong các
câu ca dao, tục ngữ, trong các truyền thuyết, truyện cổ tích và đã trở thành một nền tảng
tinh thần vững chắc của dân tộc Việt Nam, tạo động lực to lớn để nhân ta đoàn kết chiến
thắng thiên tai và ngoại xâm giữ vững độc lập, chủ quyền của dân tộc.
Ba là, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời được
kết tinh qua hàng ngàn năm nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách,
lạc quan tin tưởng vào tiền đồ dân tộc, tin tưởng vào chính mình. Tinh thân lạc quan
đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự tất thấng của chân
lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là điểm kết tinh rực rỡ của truyền thống lạc quan yêu đời
của dân tộc đã tạo cho mình một sức mạnh phi thường để vượt qua mọi khó khăn, thử
thách đi đến chiến thắng.
Bốn là, nhân dân ta có truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh sáng tạo
trong sản xuất và chiến đấu, đồng thời ham học hỏi và không ngừng mở rộng cửa để đón
nhận tinh hoa văn hố nhân loại, để làm giàu, làm sâu sắc thêm nền văn hóa của dân tộc
mình. Trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hóa của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc,
tiếp biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp từ bên ngồi và biến nó thành cái riêng của Việt
Nam.
Ngồi ra, dân tộc ta cịn có những giá trị đặc sắc khác như tinh thần khoan dung,
nhân nghĩa, thủy chung, tinh thần trong trí thức, hiền tài…Như vậy, Hồ Chí Minh là biểu
hiện sống động, trọn vẹn của các truyền thống tốt đẹp này.
b) Tinh hoa văn hoá nhân loại
2


*Tư tưởng văn hố phương Đơng
Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã được tiếp thu văn hố phương Đơng. Lớn lên Người bôn
ba khắp thế giới, đặc biệt ở các nước phương Tây. Trí tuệ hơn người, ham học hỏi nên ở

Người đã có vốn hiểu biết văn hố Đơng-Tây kim cổ uyên bác.
Về Nho giáo, Hồ Chí Minh đã kế thừa những mặt tích cực, hợp lý của Nho giáo,
đồng thời phê phán và loại bỏ những mạt tiêu cực trong học thuyết này.
Người tiếp thu những chuẩn mực để tu dưỡng đạo đức cá nhân trong xã hội của
Nho giáo. Nho giáo đã đề cập đến các phạm trù đạo đức như “tam cương, ngũ thường”;
các đức tính cần, kiệm, liêm, chính… Các phạm trù đạo đức này đã được Hồ Chí minh
kế thừa và phát triển, đồng thời đưa vào đó những nội dung mới để xây dựng đạo đức
cách mạng - đạo đức cảu con người Việt Nam mới.
Hồ Chí Minh cịn tiếp thu tư tưởng về một xã hội đại đồng của Khổng Tử. Người từng
khẳng định: “ Khổng Tử vĩ đại khởi xướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về
tài sản. Ơng từng nói: thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta khơng sợ
thiếu chỉ sợ có khơng đều”. Chính từ tư tưởng này mà khi lãnh đạo sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhắc lại lời nói của Khổng Tử để nhắc
nhở cán bộ quản lý trong việc phân phối sản phẩm lao động trong xã hội: “ Không sợ
thiếu, chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lịng dân khơng n”.
Khơng chỉ vậy, Người cịn tiếp thu tư tưởng lấy dân làm gốc của Khổng Tử và sau này
Mạnh Tử phát triển thành một mệnh đề hoàn chỉnh: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh” ( dân là quan trọng hơn cả, xã tắc đứng sau, vua còn nhẹ hơn). Tư tưởng này đã
được Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển để xây dựng một nhà nước thực sự của dân, do
dân, vì dân; đồng thời tư tưởng lấy dân làm gốc đã tỏa sáng tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh.

3


Ngồi ra, Hồ Chí Minh cịn tiếp thu, kế thừa tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời; đó là
lý tưởng về một xã hội bình trị; triết lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính; đề cao văn hóa lễ
giáo, tạo ra truyền thống hiếu học; đề cập việc học, coi trọng hiền tài,…
Cùng với việc tiếp thu những mặt tích cực, Hồ Chí Minh cịn phê phán những mặt
tiêu cực, hạn chế của Nho giáo mà người cách mạng cần phải khắc phục và loại bỏ ra

khỏi nhận thức và hành động của mình. Đó là việc Nho giáo phân chia thành xã hội
những đẳng cấp: người tiểu nhân và người quân tử, kẻ lao tâm và người lao lực; tư
tưởng trọng nam khinh nữ; khinh thường lao động chân tay…
Về Phật giáo: Phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm. Trải qua hàng trăm năm ảnh
hưởng, Phật giáo đã đi vào văn hoá Việt Nam, từ tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng, phong
tục tập qn, lối sống… Hồ Chí Minh đã loại bỏ những yếu tố tư tưởng mang tính duy
tâm, khó thực hiện. Nhưng Người cũng chỉ ra nhiều điều hay của Phật giáo mà nó đã đi
vào tư duy, hành động, cách ứng xử của người Việt Nam. Đó là những điều cần được
khai thác để góp vào việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng như tư tưởng vị tha, từ bi, bác
ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể thương thân, một tình yêu bao la đến cả
chim muông, cỏ cây. Phật giáo dạy con người nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị,
chăm lo làm điều thiện. Phật giáo lên án sự phân chia xã hội thành các giai cấp và chủ
trương thực hiện bình đẳng trong xã hội. Đó là tinh thần dân chủ chất phác chống lại
mọi sự phân biệt đẳng cấp.
Ngồi ra, Hồ Chí Minh bàn đến các giá trị văn hố phương Đơng khác như tư
tưởng của Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử… mà đặc biệt là chủ nghĩa tam dân của Tơn Trung
Sơn. Đó chính là dân sinh, dân quyền và dân quốc, nghĩa là dân tộc độc lập, dân quyền
tự do và dân sinh hạnh phúc. Đặc biệt khi cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi (1917),
Tôn Trung Sơn đã chủ trương thân Nga, liên Cộng, phù trợ cơng - nơng. Chính những tư
tưởng tiến bộ của Tơn Trung Sơn mà Hồ Chí Minh khẳng định chủ nghĩa của Tơn Trung
Sơn có “những điều thích hợp với nước ta”.
4


* Tư tưởng và văn hố phương Tây.
Về văn hóa phương Tây, ngay khi còn học ở trong nước, Nguyễn Tất Thành đã
làm quen với văn hoá Pháp, đặc biệt là ham mê mơn lịch sử và muốn tìm hiểu về cách
mạng Pháp 1789. Ba mươi năm liên tục ở nước ngoài, sống chủ yếu ở Châu Âu, nên
Nguyễn ái Quốc cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hoá dân chủ và cách
mạng của phương Tây. Người nghiên cứu tư tưởng của những nhà khai sáng Pháp như

Vonte, Rutxơ, Mơngtetxkiơ… đó là tư tưởng tiến bộ thể hiện trong các tác phẩm “Tinh
thần pháp luật, “Khế ước xã hội” hay học thuyết về tam quyền phân lập cũng như tư
tưởng Tự do – Bình đẳng – Bác ái ra đời trong Đại cách mạng Pháp năm 1789.
Cùng với tư tưởng của những nhà khai sáng Pháp, Hồ Chí Minh cịn nghiên cứu
những tư tưởng trong “ Tun ngôn độc lập” của cách mạng Mỹ (1776), “ Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền” của Đại cách mạng Pháp (1791). Qua đó, Hồ Chí Minh đã
nhận thức được tính tất yếu về quyền con người và quyền dân tộc mà hai cuộc cách
mạng đó đã xác lập. Chính những tư tưởng này mà khi viết “ Tuyên ngôn độc lập” khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng
quyền con người mà hai bản Tuyên ngôn của cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp xác lập
để nâng nó lên thành quyền dân tộc của Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực
tiễn. Người học được cách làm việc dân chủ trong các buổi sinh hoạt khoa học ở Câu lạc
bộ Phobua, trong sịnh hoạt chính trị của Đảng Xã hội Pháp.
Có thể thấy, trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn ái Quốc đã biết làm
giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đơng và Tây, vừa tiếp thu vừa chọn
lọc để có thể từ tầm cao tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới,
vận dụng và phát triển.

5


Câu 2: Phân tích vai trị của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh?
Chủ nghĩa Mác-Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất của tư
tưởng Hồ Chí Minh; là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí
Minh; là thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng; là phương pháp duy vật biện chứng
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời tư tưởng của Người làm phong phú thêm chủ
nghĩa Mác - Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập tự do. Người
khẳng định: “ Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với chúng ta… là mặt trời soi sáng con đường

chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới CNXH…”.
Hồ Chí Minh đã lấy thế giới quan duy vật biện chứng để xem xét những vấn đề cụ
thể của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy mà trong hoạt động cách mạng, Người luôn
lấy thực tiễn để kiểm định chân lý, khơng tin vào những điều huyền bí, mầu nhiệm mà
tin vào sức mạnh cảu quần chúng nhân dân, tin vào chân lý của khoa học mà sinh thời
C.Mác đã nhấn mạnh: phải lấy khoa học thay cho mộng tưởng.
Không chỉ vậy, Người đã nắm lấy cái linh hồn của phép biện chứng để xem xét,
giải quyết mọi vấn đề. Vì vậy mà Người dạy: Học chủ nghĩa Mác là nắm lấy cái tinh
thần của phép biện chứng chứ khơng phải học thuộc lịng từng câu, từng chữ. Học để
vận dụng vào trong công tác hằng ngày, chứ khơng phải học chủ nghĩa Mác để đi lịe
thiên hạ; phải ln quan sát, phân tích, tổng kết một cách độc lập, tự chủ và sáng tạo;
không rơi vào sao chép, giáo điều, rập khuôn; tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin
một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Người từng
căn dặn; “ Dù sao thì cũng khơng thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác
bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình khơng thể có được. Mác
đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lich sử, nhưng lịch sử
nào? Lich sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là tồn thể nhân loại”. Từ việc
tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin mà đã giúp cho tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển về chất:
6


tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ thống lý luận Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh có tính
nhân văn sâu sắc và tư tưởng Hồ Chí Minh có tính cách mạng triệt để.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận Mác-Lênin thep phương pháp nhận thức macxit,
cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ khơng tự trói buộc trong vỏ ngôn từ, câu chữ,
tiếp cận một cách không rập khn, khơng máy móc, khơng giáo điều, khơng xa rời chủ
nghĩa Mác-Lênin. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa
Mác-Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn
cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ khơng đi tìm những kết luận có sẵn trong sách
vở kinh điển. Như vậy, vai tro của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với tư tưởng Hồ Chí Minh

thể hiện ở chỗ: quyết định bản chất thế giới quan khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh;
quyết định phương pháp hành động biện chứng của Người và tư tưởng Hồ Chí Minh là
chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam, là tư tưởng Việt Nam thời hiện đại.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là để tìm ra con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc, tức là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của CMVN. Người hồi tưởng lần
đầu tiếp xúc với chủ nghĩa Mác - Lênin, “khi ấy ngồi một mình trong phịng mà tơi nói
to lên như đang đứng trước đông đảm quần chúng: hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ, đây
là cái cần thiết cho chúng ta, đầy là con đường giải phóng cho chúng ta”. Vì vậy, Người
nhắc nhở: Học chủ nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có lý. Nếu học chủ
nghĩa Mác mà sống với nhau khơng có tình có lý thì khơng gọi là hiểu chủ nghĩa Mác
được.
Tóm lại, chủ nghĩa Mác-Lênin là bộ phận văn hóa đặc sắc nhất của nhân loại: tinh
túy nhất, cách mạng nhất, triệt để nhất và khoa học nhất là một trong những tiền đề lý
luận hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 3: Trình bày những nội dung cốt lõi về vấn đề dân tộc thuộc địa trong tư tưởng
Hồ Chí Minh?
7


a) Hồ Chí Minh tiếp cận quyền dân tộc từ quyền con người được xác lập từ giá trị
CMTG mang lại
Hồ Chí Minh tiếp cận quyền con người hồn tồn khác với các học giả tư sản và
những nhà tư tưởng của nhân loại, cách tiếp cận của Người “hoàn toàn mới mẻ và sâu
sắc, quyền con người thống nhất với quyền dân tộc”. Hồ Chí Minh đã nhận thức về
quyền con người thông qua sự kế thừa những giá trị tư tưởng trong hai bản Tuyên ngôn
độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng
Pháp năm 1791. Từ quyền con người, Hồ Chí Minh đã khái quát và nâng cao thành
quyền dân tộc: “ Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
b) Nội dung của độc lập dân tộc

Đối với Hồ Chí Minh, đấu tranh cho độc lập dân tộc, xác lập chủ quyền quốc gia
dân tộc là một hành động thống nhất và nhất quán, trước sau như một. Người đã nói: “
Tự do cho đồng bào tơi, độc lập cho Tổ quốc tơi, đấy là tất cả những gì tơi muốn; đấy là
tất cả những điều tôi hiểu”. Độc lập dân tộc là điều mà người trăn trở, đau đáu và cũng
là khát vọng lớn nhất mà các dân tộc thuộc địa hướng đến.
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các nước đồng minh
thắng trận trong CTTG I long trọng thừa nhận, Người thay mặt những người Việt Nam
yêu nước gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Véc-xây để đòi những
quyền cơ bản cho dân tộc Việt Nam, như quyền được hưởng những đảm bảo về mặt
pháp luật, quyền tự do đi lại, tự do báo chí, tự do hội họp,…Theo Người, những quyền
trên là những quyền cơ bản nhất mà mỗi dân tộc đều được hưởng.
Đầu năm 1930, Người soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, một
cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, có tư tưởng cốt lõi là độc lập dân
tộc.

8


Khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đã chủ trì Hội
nghị lần thứ tám của BCH Trung ương Đảng (tháng 5/1941) và trong thư Kính báo đồng
bào, Người chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”, quyền
lợi của một số bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong, sinh tử của dân tộc. Tháng
8/1945, Hồ Chí Minh đã đúc kết ý chí đấu tranh cho độc lập dân tộc của nhân ta trong
câu nói bất hủ: “ Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên
quyết giành cho được độc lập”. Khi cách mạng tháng Tám thành công, trong bản Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã khẳng định cho
thế giới biết khát vọng của dân tộc Việt Nam: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập
ấy”.

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thật
sự, hồn tồn, gắn liền với hịa bình, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ của đất nước. Trong
các thư và điện văn gửi tới LHQ và Chính phủ các nước sau CMT8, Hồ Chí Minh trịnh
trọng tuyên bố: “ Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hịa bình. Nhưng nhân dân
chúng tơi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất:
toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”.
Khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Người đã ra lời kêu
gọi tồn quốc kháng chiến trong đó khẳng định: “ Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Lời kêu gọi của Người đã
thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc của toàn thể nhân dân VN.
Sau khi giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nước ta lại tiếp tục
kháng chiến chống đế quốc Mĩ xâm lược. Trong cuộc kháng chiến này, Hồ Chí Minh đã
nêu cao chân lý có giá trị lớn nhất mọi thời đại, đó là: “ Khơng có gì q hơn độc lập, tự
do”. Chính bằng tinh thần, nghị lực này mà cả dân tộc ta đứng dậy đánh cho Mỹ cút,
9


đánh cho Ngụy nhào, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, thu non sông về một
mối.
Qua nội dung cốt lõi của độc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta
thấy rằng:
Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc. Nếu ai vi phạm
đến quyền đó đều sẽ bị đánh trả, những người trong nước vi phạm sẽ bị pháp luật
nghiêm trị.
Độc lập dân tộc thì phải gắn liền với bình đẳng dân tộc, tơn trọng quyền tự quyết của các
dân tộc. Mặt khác, nền độc lập dân tộc phải được thực thi trong hịa bình, tự do và
Người kiên quyết lên án độc lập giả hiệu.
Độc lập dân tộc cuối cùng phải bảo đảm cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho mọi người dân.
Bởi vì, nếu nước độc lập mà dân khơng được ăn no, mặc ấm thì độc lập chẳng có ý
nghĩa gì, dân chỉ biết giá trị của độc lập khi được ăn no, mặc ấm.

Ngày nay, chúng ta cần vận dụng vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh để
khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, đó là nguồn động lực
mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Không chỉ vậy, phải chăm lo xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc, giải quyết mối quan hệ giữa các dân tộc trong nước ta. Hơn nữa,
chúng ta cịn qn triệt tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc
trên lập trường giai cấp. Đó là khẳng định rõ vai trị, sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản,
của Đảng Cộng sản, kết hợp vấn đề dân tộc và giai cấp đưa cách mạng Việt Nam từ giải
phóng dân tộc lên CNXH. Đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh cơng nơng và tầng lớp trí thức do Đảng lãnh đạo. Trong đấu tranh giành chính quyền phải sử
dụng bạo lực của quần chúng cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.
Câu 4: Nêu những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc. Luận điểm nào thể hiện rõ nhất sự sáng tạo lý luận của Người? Vì sao?
10


a) Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc:
- CM GPDT muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS;
- CM GPDT trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
- Lực lượng của CM GPDT bao gồm toàn dân tộc;
- CM GPDT ở thuộc địa có khả năng nổ ra và giành thắng lợi trước CMVS ở chính
quốc;
- CM GPDT phải được tiến hành bằng con đường cách mạng bạo lực.
Trong những luận điểm cơ bản kể trên, luận điểm “CM GPDT ở thuộc địa có khả năng
nổ ra và giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc” là luận điểm thể hiện rõ nhất sự
sáng tạo của Hồ Chí Minh về CM GPDT.
Luận điểm nói trên là luận điểm quan trọng, chẳng những thể hiện sự vận dụng
sáng tạo mà còn là một bước phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin của Hồ Chí Minh. MácĂngghen chưa có có điều kiện bàn nhiều về cách mạng giải phóng dân tộc, các ông mới
tập trung bàn về thắng lợi của cách mạng vô sản. Năm 1919, Quốc tế III ra đời đã chú ý
tới cách mạng giải phóng dân tộc, nhưng cịn đánh giá thấp vai trị của nó và cho rằng
thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vơ sản ở

chính quốc. Ngay Tun ngơn thành lập Quốc tế III có viết: “Cơng nhân và nông dân
không những ở An Nam, Angiêri, Bengan mà cả ở Ba Tư hay Ácmênia chỉ có thể giành
được độc lập khi mà công nhân ở các nước Anh và Pháp lật đổ được Lôiit Gioocgiơ và
Clêmăngxô, giành chính quyền nhà nước vào tay mình”. Cho đến tháng 9-1928, Đại hội
VI của Quốc tế III vẫn cho rằng: “Chỉ có thể thực hiện hồn tồn cơng cuộc giải phóng
các thuộc địa khi giai cấp vơ sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Như
vậy, trong tổ chức QTCS có hiện tượng bị “xơ cứng về mặt lý luận”, phong trào “tả
khuynh” phát triển mạnh, các Đảng Cộng sản ở chính quốc đặt cách mạng GPDT ở
thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc.

11


Trước thực tế đó, Hồ Chí Minh đã phê phán quan điểm đó và trên cơ sở phân tích
khoa học, Người đưa ra nhận định: Cách mạng GPDT ở thuộc địa có khả năng nổ ra và
giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc. Người nêu rõ: “…Đằng sau sự
phục tùng tiêu cực, người Đông Dương đang giấu một cái gì đó sơi sục, đang gào thét và
sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”. Có thể nói, cách mạng GPDT ở thuộc
địa có một tầm quan trong đặc biệt và nếu khinh thường nó tức là “muốn đánh chết rắn
đằng đi’. Do vậy, chúng ta không thể “đánh chết rắn đằng đuôi”, muốn đánh bại chủ
nghĩa tư bản thì phải bắt đầu bằng việc tước đoạt các thuộc địa của chúng, vì “nọc độc
và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa hơn là
ở chính quốc”.
Luận điểm này đã thể hiện Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý
luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong Điều lệ của Hội liên hiệp lao động
quốc tế, C.Mác viết: Sự nghiệp giải phóng của giai cấp cơng nhân phải là sự nghiệp của
bản thân giai cấp công nhân. Từ luận điểm này, Người đã khẳng định: “ Vận dụng công
thức của C.Mác, chúng tơi xin nói với anh em rằng, cơng cuộc giải phóng anh em chỉ óc
thể thực hiện được bằng sự nổ lực của bản thân anh em”. Theo Người thì “cách mạng
thuộc địa khơng những khơng phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc mà có thể

giành thắng lợi trước” và cách mạng thuộc địa “trong khi thủ tiêu một trong những điều
kiện tồn tại của CNTB là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em ở
phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”.
Người thực sự đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế
quốc thực dân. Người chủ trương phát huy nỗ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng
bị động, trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài. Thực tế cách mạng Việt Nam và cách
mạng giải phóng dân tọc của các nước thuộc địa trên thế giới cũng đã chứng minh tính
đúng đắn của luận điểm trên. Thắng lợi của CMT8 năm 1945 ở Việt nam là minh chứng
sáng ngời cua chân lý mà Hồ Chí Minh nêu ra. Khi thời cơ đến, Người kêu gọi toàn dân
12


tộc Việt Nam hãy đứng dậy “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Trong cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp, Người nói: “ Kháng chiến trường kì gian khổ đồng thời phải
tự lực cánh sinh… Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác
giúp đỡ thì khơng xứng đáng độc lập”. Như vậy, chỉ có thể bằng chủ động nỗ lực vượt
bậc của các dân tộc thuộc địa thì cách mạng GPDT mới giành thắng lợi trước CMVS ở
chính quốc được.
Tóm lại, luận điểm trên là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to
lớn; là một cơng hiến rất quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Luận điểm này đã được thắng lợi của phong trào cách drr GPDT trên
toàn thế giới trong gần một thế kỉ qua chứng minh là hồn tồn đúng đắn.
Câu 5: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của chủ nghĩa
xã hội?
Hồ Chí Minh bày tỏ quan niệm của mình về CNXH khơng chỉ trong một bài nói,
bài viết nhất định nào, mà trong từng hoàn cảnh cụ thể, từng đối tượng cụ thể, Người lại
có những cách diễn đạt phù hợp. Bởi vậy, trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, tùy
vào từng trường hợp cụ thể, Người đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về CNXH.
Hồ Chí Minh tiếp tục kế thừa những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
về CNXH, nhưng qua cách diễn đạt dễ hiểu của Người, chúng ta thấy bản chất và đặc

trưng của CNXH ở Việt Nam như sau:
Thông qua các cách tiếp cận CNXH từ chủ nghĩa nhân đạo, từ văn hóa, từ đạo
đức,..và từ tính chất của các hội nghị ở Trung ương và địa phương mà Hồ Chí Minh đã
đưa ra nhiều luận điểm khác nhau về CNXH ở Việt Nam.
Chẳng hạn, Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận về CNXH khoa học trước hết là từ lịng u
nước, ý chí quyết tâm cứu nước và khát vọng GPDT Việt Nam. Người tìm thấy trong lý
luận Mác - Lênin sự thống nhất biện chứng giữa GPDT, giải phóng xã hội, giải phóng

13


con người. Đó cũng là mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản theo đúng bản chất
của chủ nghĩa Mác -Lênin.
Khơng chỉ vậy, Hồ Chí Minh cịn tiếp cận CNXH từ phương diện đạo đức. CNXH với
mục tiêu và cơ sở kinh tế dựa trên chế độ công hữu về TLSX của nó, sẽ đi đến giải
phóng cả lồi người khỏi ách áp bức, bóc lột. CNXH xa lạ và đối lập với chủ nghĩa cá
nhân, nhưng không phủ nhận cá nhân mà trái lại cịn đề cao, tơn trọng cá nhân, các giá
trị cá nhân, phát triển mọi năng lực cá nhân vì sự phát triển của xã hội và hạnh phúc của
con người. Người cho rằng: “ Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng
CNXH. Cho nên thắng lợi của CNXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh
trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân’ và “ khơng có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét
những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ XHCN”.
Hồ Chí Minh cịn tiếp cận CNXH từ văn hóa. Người đã đưa văn hóa thâm nhập chính
trị, kinh tế tạo nên sự thống nhất giữa chúng, giữa các mục tiêu phát triển xã hội. Qúa
trình xây dựng CNXH ở Việt Nam cũng là q trình xây dựng một nền văn hóa trong đó
sự kết tinh, kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kết hợp truyền thống với hiện đại, dân tộc và quốc
tế. Ngoài ra, Người còn nhận thấy những nét tương đồng của CNXH với truyền thống
lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam.
Khái qt từ các định nghĩa khác nhau đó thì CNXH ở Việt Nam theo Hồ Chí

Minh theo Hồ Chí Minh có các đặc điểm nổi bật sau:
Một là, CNXH trước hết nhằm hướng tới giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậc để xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân;
Hai là, CNXH là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng,.. làm của chung;
Ba là, CNXH là một xã hội khơng có chế độ người bóc lột người, một xã hội bình đẳng,
nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, “ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít
thì ăn ít, khơng làm thì khơng ăn”;
14


Bốn là, CM XHCN gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn
hóa của nhân dân;
Năm là, chỉ ở trong chế độ XHCN thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống
của riêng mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình”;
Sáu là, CNXH là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng lên. Đó là cơng trình tập
thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng;
Bảy là, chế độ XHCN và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ.
*Từ những đặc điểm trên có thể khái quát thành những đặc trưng bản chất của
CNXH ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh là:
Trước hết, CNXH là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ. Hồ Chí Minh coi
nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo nguồn lực. CNXH là sự nghiệp của chính
bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.
Thứ hai, CNXH là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao với LLSX tiên
tiến hiện đại, có KHKT tuên tiến hiện đại, dần xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về
TLSX để thực hiện cơng hữu về TLSX. Đó là xã hội có nền kinh tế phát triển dựa trên
cơ sở năng suất lao động xã hội cao, sức sản xuất luôn luôn phát triển với nền tảng phát
triển KHKT, ứng dụng có hiệu quả các thành tựu KHKT của nhân loại.
Thứ ba, CNXH là chế độ xã hội thực hiện công bằng hợp lý. Nghĩa là trong chế
độ đó khơng cịn sự áp bức, bất công, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về TLSX và
nguyên tắc phân phối theo lao động. Một xã hội công bằng hợp lý, các dân tộc đều bình

đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xi và có mối quan hệ quốc tế tốt đẹp.
Thứ tư, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa và đạo đức. Đó là một xã
hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, cơng bằng, bình đẳng, khơng cịn áp bức, bóc
lợi, bất cơng, khơng cịn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành
thị và nơng thơn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển tồn diện, có sự hài
hịa trong phát triển của xã hội và tự nhiên.
15


Cuối cùng, CNXH là một cơng trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, CNXH là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh; là một xã hội ưu việt nhất trong lịch sử; một xã hội tự do và
nhân đạo phản ánh được nguyện vọng thiết tha của loài người.
Câu 6: Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực xây dựng chủ
nghĩa xã hội?
Tiếp cận CNXH về phương diện mục tiêu là một nét thường gặp, thể hiện phong
cách và năng lực tư duy lý luận khái quát của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có nhiều cách
đề cập đến mục tiêu của CNXH. Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: “ Mục đích của
CNXH là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiêu là: không ngừng nâng cao đời sống vật
chất va tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”. Có khi Người lại diễn
giải mục tiêu tổng quát này thành những tiêu chí cụ thể: “ CNXH là làm sao cho nhân
dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già
khơng lao đọng được thì nghỉ, những phong tục tập qn khơng tốt dần dần được xóa
bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó
là CNXH”. Có khi Người lại nói một cách gián tiếp thơng qua “ham muốn tột bậc” và
trong D chúc gửi lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người viết: “ Điều mong muốn cuối cùng
của tơi là: Tồn Đảng, tồn dân ta đồn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt nam hịa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
cách mạng thế giới”. Hồ Chí Minh đã đặt ra mục tiêu tổng quát, mục tiêu bao trùm lên

tất cả, đó là xây dựng một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu cụ thể của CNXH trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội.
Về mục tiêu chính trị, đó là xây dựng là chế độ do nhân dân làm chủ, trong đó
nhân dân là những người chủ chân chính. Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Nhà
16


nước có hai chức năng cơ bản là dân chủ với nhân dân và chuyên chính với kẻ thù của
nhân dân. Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng đã xác định: Đã là người chủ phải biết làm chủ.
Mọi công dân trong xã hội đều có nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng
và chấp hành pháp luật, tôn trọng và bảo vệ của công, đồng thời có nghĩa vụ học tập để
nâng cao trình độ về mọi mặt để xứng đáng vai trò làm chủ.
Về mục tiêu kinh tế, đó là xây dựng một nền kinh tế XHCN dựa trên cơ sỏ phát
triển nền công - nơng nghiệp hiện đại, KHKT tiên tiến, dần xóa bỏ bóc lột, cải thiện đời
sống. Hồ Chí Minh ln coi công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế
nước nhà. Chú trọng xây dựng nền kinh tế mới, cải tạo nền knih tế cũ, nhưng xây dựng
là trọng tâm. Hồ ChíMinh rất quan tâm đến vấn đề kết hợp các lợi ích kinh tế. Người đã
đặc biệt nhấn mạnh chế độ khốn là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích
kinh tế.
Về mục tiêu văn hóa - xã hội, theo Hồ Chí Minh cần phải xây dựng nền văn hóa
mới, trong đó phải biết kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh
hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu nền văn hóa dân tộc, phải đưa văn hóa vào đời
sống nhân dân. Văn hóa phải góp phần sửa sang chỉnh thể. Văn hóa phải chống tham ơ,
lãng phí, lười biếng. Văn hóa phải hướng tới xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa con
người với con người, xây dựng con người XHCN. Người nói: Muốn có CNXH phải có
con người XHCN. Đó là những con người có trí tuệ, đạo đức cách mạng, có tác phong,
đạo đức làm chủ tập thể.
Như vậy, dù là mục tiêu tổng quát hay mục tiêu cụ thể, tỏng quan niệm của Hồ
Chí Minh, các mục tiêu ln có quan hệ mật thiết với các đặc trưng bản chất của CNXH

ở Việt Nam.
Động lực của CNXH được Hồ Chí Minh nêu rất cụ thể nhưng cũng rất phong phú,
đa dạng, có thể khái quát như sau:

17


Thứ nhất, đó là động lực chính trị tư tưởng, tinh thần. Sức mạnh tiềm tàng của
quần chúng chỉ được huy động vào sự nghiệp cách mạng khi quần chúng giác ngộ lý
tưởng cách mạng, nhất trị với quan điểm của Đảng, tin tưởng vào đường lối, chủ trương
của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hồ Chí Minh từng nói, muốn xây
dựng CNXH thành cơng “cần có ý thức giác ngộ XHCN cao, một lòng một dạ phấn đấu
cho CNXH”. Sự giác ngộ này có được là kết quả của một quá trình tuyên truyền, giáo
dục lâu dài, bền bỉ của tồn hệ thống chính trị.
Thứ hai, đó là phát huy sức mạnh đồn kết của cộng đồng dân tộc. Sức mạnh ấy
thể hiện ở lực lượng của các giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức, các dân tộc,
đồng bào yêu nước trong và ngồi nước khơng phân biệt đảng phát, tơn giáo, tín
ngưỡng.
Thứ ba, đó là thỏa mãn những nhu cầu lợi ích chính đáng của người lao động.
Theo Hồ Chí Minh, động lực quan trọng nhất và quyết định nhất là con người, là nhân
dân lao động. Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng, hành động của con người luôn gắn với
nhu cầu và lợi ích của họ. Vì vậy, Người chú ý kích thích động lực mới là lợi ích cá nhân
chính đáng của người lao động; chủ trương thực hiện các cơ chế, chính sách để kết hợp
hài hịa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân như thực hiện khoán, thưởng, phạt đúng đắn và
nghiêm túc trong lao động sản xuất. Trong cách mạng, có những lĩnh vực đòi hỏi con
người phải chịu hi sinh, thiệt thòi, chỉ lợi ích kinh tế khơng thơi thì chưa giải quyết được
mà cần có động lực chính trị, tinh thần. Vì vậy, Hồ Chí Minh địi hỏi phải phát huy
quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động. Ngồi ra, người cịn thực hiện
cơng bằng xã hội và căn dặn: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; khơng sợ
nghèo, chỉ sợ lịng dân khơng n”.

Thứ tư, để động lực cho CNXH còn cần phải sử dụng vai trò điều chỉnh của các
nhân tố tinh thần khác như chính trị, đạo đức, văn hóa, pháp luật.

18


Thứ năm, ngoài các động lực bên trong, theo Hồ Chí Minh thì cịn phải kết hợp
được sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, phải sử dụng tốt những thanh tựu
KHKT của thế giới…
Giữa nội lực và ngoại lực, Hồ Chí Minh xác định nội lực là quyết định nhất, ngoại
lực là rất quan trọng là. Chính vì thế, người thường nêu cao tinh thần độc lập, tự do, tự
lục cánh sinh là chính, nhưng ln chủ trọng tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác quốc tế, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo ra sức mạnh tổng hợp để xây dựng
thành công CNXH.
Để phát huy cao độ những động lực của CNXH cần phải khắc phục những trở lực
lìm hãm nó. Đó là phải thương xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (giặc nội xâm)
vì nó là kẻ hung ác của CNXH, là “bệnh mẹ” đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm khác;
phải thường xuyên đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu vì nó la bạn đồng minh
của thực dân, phong kiến, nó phá hoại đạo đức cách mạng; chống chia rẽ bè phái, mất
đồn kết, vơ kỷ luật, vì nó làm giảm sút uy tín và ngăn cản sự nghiệp của Đảng; chống
chủ quan, bảo thủ, giáo điều, lười biếng, khơng chịu học tập…
Khái qt lại có thể thấy, động lực của CNXH theo nghĩa rộng được Hồ Chí Minh
chỉ ra là sử dụng đồng bọ các địn bẫy về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội để kích thích
tính tích cực của người lao động. Ở phương diện này, Người nhấn mạnh về tính đồng bộ
của việc sử dụng các đòn bẩy là chỉ khi nào sử dụng đồng bộ các đòn bẫy mới tạo ra
động lực, nếu không sẽ gây cản trở cho sự phát triển. Sự đồng bộ này thể hiện ra ở các
phương diện: đồng bộ giữa các yếu tố kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội; đồng bộ giữa
các đơn vị, địa phương, ban ngành,… và trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý
nhà nước.
Còn động lực của CNXH theo nghĩa hẹp được Hồ Chí Minh chỉ ra là vấn đề con người.

Ở phương diện này, theo Người, động lực con người cộng đồng là đại đoàn kết dân tộc
và đọng lực con người cá nhân là con người mới XHCN.
19


Câu 7: Phân tích quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam?
Luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
đó chính là: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩn kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng cộng sản
ra đời là sản phẩm của sự kết hợp của lý luạn CNXH khoa học với phong trào công
nhân. Nghĩa là khi phong trào công nhân tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sơ lý
luận cách mạng, điều này làm thúc đẩy phong trào công nhân phát triển và đến một lúc
nào đó thì chính phong trào cơng nhân địi hỏi đặt ra u cầu khách quan là phải có
Đảng lãnh đạo để dẫn dắt phong trào tiếp tục phát triển, đi tới chủ nghĩa cộng sản.
Vận dụng nguyên lý này của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết
hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Có luận
điểm sáng tạo và phát triển này, trước hết ta thấy ở Hồ Chí Minh có sự hiểu sâu sắc
những luận điểm của Mác là giai cấp công nhân “phải tự vươn lên thành giai cấp dân
tộc”, “tự mình trở thành dân tộc” thì mới lãnh đạo cách mạng thắng lợi ngay trên đất
nước mình. Cho thấy, Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trị của chủ nghĩa Mác - Lênin
đối với cách mạng nói chung và đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam nói
riêng. Mặt khác, Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, trí vai trị của giai cấp cơng nhân Việt
Nam và phong trào công nhân. Giai cấp công nhân lúc bấy giờ tuy còn nhỏ bé (2% dân
số), còn yếu nhưng họ vẫn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng. Bởi họ là giai cấp tiên tiến
nhất địa diện cho LLSX tiến bộ, đại diện cho PTSX mới, gánh trách nhiệm đánh đổ
CNTB và đế quốc để xây dựng một xã hội mới. Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh
thần cách mạng kiên quyết, triệt để nhất, có tỏ chức và kỷ luật cao. Và giai cấp công

nhân đươc trang bị bởi tư tưởng vững chắc , đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Song nếu chủ
20


nghĩa Mác-Lênin chỉ đi vào phong trào công nhân không thơi thì chưa đủ. Trong khi đó,
chủ nghĩa u nước Việt Nam là một động lực lớn của đất nước, phong trào yêu nước
Việt Nam có sớm và phát triển mạnh mẽ. Từ chủ nghĩa yêu nước có thể đến với chủ
nghĩa Mác-Lênin là con đường của Hồ Chí Minh cũng là con đường của nhiều người
Việt Nam khác, khi họ nhận rõ đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin thì dân tộc sẽ được độc lập,
nhân dân sẽ được tự do, hạnh phúc.
Hồ Chí Minh đã nêu thêm yếu tố phong trào yêu nước, đây là điểm khác biệt so
với quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, nó là một trong ba yếu
tố kết hợp dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sở dĩ như vậy là vì:
Một là, phong trào u nước có một vị trí, vai trị cực lỳ to lớn trong quá trình
phát triển của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong
lịch sử dân tộc Việt Nam, là nhân tố chủ đọa quyết định sự nghiệp chống giặc ngoại xâm
của dân tộc ta. Phong trào yêu nước Việt Nam là phong trào rộng lớn nhất, liên tục và
bền bỉ nhất có trước phong trào cơng nhân hàng nghìn năm lịch sử. Nó đã lơi cuốn mọi
tầng lớp nhân dân, toàn dân tộc đứng lên chống kẻ thù và đã trơt thành giá trị văn hóa tốt
đẹp của dân tộc ta.
Hai là, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào u nước bởi vì phong
trào đó đều có mục tiêu chung. Phong trào công nhân ngay từ khi mới ra đời đã kết hợp
với phong trào yêu nước. Cơ sở của sự kết hợp từ đầu, liên tục, chặt chẽ giữa hai phong
trào này do mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa toàn
thể dân tộc với bọn đế quốc và tay sai. Vì vậy, cả hai phong trào đều có mục tiêu chung
là GPDT, làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước giàu mạnh. Hơn
nữa, chính bản thân phong trào cơng nhân, xét về nghĩa nào đó, lại mang tính chất của
phong trào u nước, vì phong trào đấu tranh của cơng nhân khơng những chống lại ách
áp bức giai cấp mà còn chống lại ách áp bức dân tộc. Khác với những người cộng sản


21


phương Tây, Hồ Chí Minh và những người cộng sản Việt Nam đã đi từ chủ nghĩa yêu
nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin , từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp.
Ba là, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân ngay từ đầu. Đầu
thế kỷ XX, nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn 90% dân số, họ là bạn đồng minh tự
nhiên của giai cấp công nhân. Ở Việt Nam, do điều kiện lịch sử chi phối, phần lớn công
nhân xuất thân trực tiếp từ người nơng dân nghèo. Do đó, giữa phong trào cơng nhân và
phong trào u nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân hợp thành quân chủ lực của cách mạng.
Bốn là, phong trào yêu nước của trí thức Việt Nam là nhân tố quan trọng thúc đẩy
sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tri thức Việt Nam là
những người châm “ngòi nổ” cho các phong trào yêu nước GPDT. Họ cũng rất nhạy
cảm thời cuộc, do vậy, họ chủ động và có cơ hội đón nhận những “luồng gió mới” của
tất cả các trào lưu tư tưởng trên toàn thế giới vào Việt Nam.
Quy luận về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một luận điểm cực kỳ sáng
tạo (bổ sung chủ nghĩa yêu nước vào các thành tố kết hợp và đề cao vai trò trí thức yêu
nước đối với sự ra đời của Đảng), có ý nghĩa to lớn khơng chỉ đối với cách mạng nước ta
mà còn ảnh hưởng lớn đến phong trào CMTG.
Thực tiễn cho thấy, khi Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam thì cách mạng Việt Nam từ năm 1925
đã có sự chuyển hướng mạnh mẽ theo xu hướng vô sản. Khi phong trào lên cao đã địi
hỏi phải có Đảng tiên phong dẫn đường. Đáp ứng địi hỏi khách quan đó, ngày 3-2-1930,
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của xã hội, đáp ứng
được nhu cầu của lịch sử, đáp ứng nguyện vọng của đại đa số tầng lớp nhân dân vì mục
tiêu giành độc lập và xây dựng xã hội mới.
Câu 8: Trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam?

22



Đảng cầm quyền là một phạm trù đề cập tới việc một Đảng đã nắm được chính
quyền và sử dụng chính quyền đó như một cơng cụ quyền lực để thực hiện mục tiêu
chính trị mà Đảng đó là người đại biểu.
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm “Đảng cầm quyền” được thể hiện
và nhấn mạnh rất rõ trong Di chúc, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”.
Nhưng nhận thức của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền đã có từ rất sớm, được hình
thành và phát triển trong quá trình hoạt động cách mạng của Người. Vấn đề Đảng Cộng
sản Việt Nam cầm quyền được Hồ Chí Minh bàn tới từ những năm sau CMT8, đặc biệt
được thể hiện trong các bài viết từ năm 1947 trở đi. Tác phẩm Di chúc chính là sự khát
khao cao nhất và hồn chỉnh của Hồ Chí Minh về lý luận Đảng cầm quyền.
Hồ Chí Minh thường dùng các cụm từ để chuyển tải vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với sự nghiệp CMVN như: “Đảng nắm quyền”, “Đảng lãnh đạo chính quyền”, “Đảng
cầm quyền”. Quan niệm của Hồ Chí Minh về “Đảng cầm quyền” được thể hiện ở những
nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất là nói đến mục đích, lý tưởng của Đảng cầm quyền. Theo Hồ Chí
Minh, Đảng ta khơng có lợi ích nào khác ngồi lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân. Đó là
mục đích, lý tưởng của Đảng ta. Mục đích, lý tưởng đó khơng bao giờ thay đổi trong q
trình lãnh đạo CMVN. Người chỉ rõ: “Người cộng sản chúng ta khơng được phút nào
qn lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho CNXH
và chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên tồn thế giới”.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, khi trở thành Đảng cầm quyền, Đảng ta không thay đổi bản
chất: là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của tồn dân tộc; khơng thay đổi mục đích, lý tưởng của
mình: giải phóng nhân dân khỏi ách áp bức, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân. Đảng có sự thay đổi căn bản về mục tiêu đấu tranh, nhiệm vụ cách mạng cụ
thể, đặc biệt là thay đổi căn bản về điều kiện hoạt động và phương thức lãnh đạo khi trở
23



thành Đảng cầm quyền, Đảng đứng trước vấn đề mới: làm thế nào để Đảng khơng bị tha
hóa bởi quyền lực, khơng làm biến chất đảng viên. Hồ Chí Minh cho rằng, đó là thử
thách cực kỳ to lớn. Và để làm được điều đó, Đảng phải phấn đấu, rèn luyện trở thành
một đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo thoe
hướng ngày càng gắn bó máu thịt với nhân dân. Mục tiêu GPDT, GPXH, giải phóng con
người là lý do tồn tại và đấu tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ hai là, Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung
thành của nhân dân. Đây là một quan điểm lớn của Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản cầm
quyền. Đó là điểm khác biệt cơ bản giữa Đảng Cộng sản với bất cứ đảng cầm quyền nào
khác. Trong Di chúc, Người đã viết: “ Đảng ta là một Đảng cầm quyền… Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành
của nhân dân”. Xác định “người lãnh đạo” là xác định quyền lãnh đạo duy nhất của
Đảng đối với tồn bộ xã hội và khi có chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền nhà
nước. Theo Hồ Chí Minh, là người lãnh đạo, Đảng bằng giáo dục, thuyết phục thì phải
làm cho dân tin, dân phục để dân theo. Đảng lãnh đạo nhưng quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân, cho nên Đảng “Phải đi đường lối quần chúng, khơng được quan liêu,
mệnh lệnh và gị ép nhân dân”, Đảng phải tổ chức, đoàn kết họ lại thành một khối thống
nhất, bày cách cho dân và hướng dẫn họ hành động. Vì vậy, chức năng lãnh đạo và sự
lãnh đạo của Đảng phải bảo đảm trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sông xã hội,
phải quan tâm chăm lo đời sống nhân dân từ việc nhỏ đến việc lớn. Là người lãnh đạo,
Đảng phải sâu sát, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, khiêm tốn
học hỏi dân và phải chịu sự kiểm soát của dân, bởi “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết
thực của Đảng, ắt phải từ trong quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Đảng phải thực
hành triệt để dân chủ, mà trước hết dân chủ trong nội bộ Đảng, để phát huy được mọi
khả năng trí tuệ sáng tạo của quần chúng; lãnh đạo nhưng phải chống bạo biện, làm thay,
phải thông qua chính quyền nhà nước “của dân, do dân và vì dân” để Đảng thực hiện
24



quyền lãnh đạo của mình đối với tồn xã hội. Do đó, Đảng phải lãnh đạo Nhà nước một
cách tồn diện, trước hết là lãnh đạo xây dựng pháp luật để quản lý, điều hành xã hội;
đồng thời, Đảng phải thường xuyên coi trọng công tác giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, luôn bảo đảm cho Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, thực sự
Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cịn là người
đầy tớ trung thành của nhân dân. “Đầy tớ” khơng có nghĩa là “tơi tớ, tơi địi hay theo
đi quần chúng” mà là tận tâm, tận lực phụng sự nhân dân nhằm đem lại các quyền và
lợi ích cho nhân dân. Người nhấn mạnh: “Việc gì có lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ
được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”. Người sử dụng cụm từ “đầy tớ trung
thành” là để nhắc nhở và chỉ rõ vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong mọi
hoạt động của mình đều phải quan tâm thực sự đến lợi ích của nhân dân: “khổ trước
thiên hạ,vui sau thiên hạ”; tận tụy với công việc, gương mẫu trước nhân dân, phải
thường xuyên tự kiểm tra, tự phê bình. Mỗi cán bộ, đảng viên “đều là công bộc của dân,
nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời lỳ
dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”. Mặt khác, mỗi cán bộ, đảng viên địi hỏi phải có
trí thức khoa học, trình độ chun môn, nghiệp vụ giỏi; thực sự thấm nhuần đạo đức
cách mạng: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”. Khơng chỉ nắm vững và thực hiện
tốt quan điểm, đường lối của Đảng, mà còn phải biết tuyên truyền, vận động lôi cuốn
quần chúng đi theo Đảng, đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi.
Thứ ba là Đảng cầm quyền, dân là chủ. Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân. Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, cho đây là điểm khác biệt giữa
Đảng Cộng sản và Đảng tư sản trong vai trò cầm quyền. Người luôn nhấn mạnh vấn đề
quyền lực thuộc về dân là vấn đề nguyên tắc, là bản chất chế độ mới mà Đảng ta, nhân
dân ta ra sức xây dựng. Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo chính quyền là nhằm thiết
lập và củng cố quyền làm chủ của dân, mọi quyền lực phải thuộc về dân. Trái với
nguyên tắc đó thì Đảng sẽ thối hóa, biến chất, trở thành Đảng đối lập với dân, đứng trên
25



×