Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

LÀM RÕ KHUYẾT TẬT CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. ĐỂ HẠN CHẾ NHỮNG KHUYẾT TẬT ĐÓ CẦN PHẢI GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ GÌ? VÌ SAO?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.94 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN
MÔN: Kinh tế chính trị Mác- Lênin

SV:
Lớp:
STT:

Hà Nội 2020
ĐỀ 2


CÂU 1: LÀM RÕ KHUYẾT TẬT CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. ĐỂ HẠN
CHẾ NHỮNG KHUYẾT TẬT ĐÓ CẦN PHẢI GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ GÌ?
VÌ SAO?
CÂU 2: TRÌNH BÀY TĨM TẮT CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.


CÂU 1: LÀM RÕ KHUYẾT TẬT CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. ĐỂ HẠN
CHẾ NHỮNG KHUYẾT TẬT ĐÓ CẦN PHẢI GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ GÌ?
VÌ SAO?
Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một trong những giai đoạn phát triển tất
yết của lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao
hơn trên con đường phát triển của mình.
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội đã và đang trải qua hai kiểu tổ
chức kinh tế, đó là sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa. Sản xuất hàng hóa
ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, xóa bỏ
nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu
quả kinh tế của xã hội. Khi sản xuất hàng hóa phát triển, con người sản xuất ra


nhiều hàng hóa hơn, từ đó dẫn đến việc dư thừa hàng hóa. Mặc khác, do con người
không thể tự sản xuất thỏa mãn hết nhu cầu của mình, họ tìm cách thỏa mãn nhu
cầu của mình bằng cách tìm đến người có thể đáp ứng nhu cầu đó thơng qua việc
trao đổi hàng hóa. Từ hành động đó sinh ra khái niệm thị trường. “ Thị trường là
nơi diễn ra hành vi trao đổi, mua bán hàng hóa giữa các chủ thể kinh tế với nhau”.
Sự trao đổi hàng hóa diễn ra ngày càng nhiều và việc sản xuất hàng hóa ngày càng
phát triển nhanh chóng dẫn đến khái niệm thị trường ngày càng được mở rộng.
“Thị trường là tổng hòa các mối quan hệ liên quan đến trao đổi, mua bán hàng hóa
trong xã hội, được hình thành do những điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội nhất định
”. Khi sản xuất hàng hóa đạt đến trình độ cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất trao đổi
đều thông qua thị trường, chịu sự tác động của các quy luật thị trường thì sẽ sinh ra
nền kinh tế thị trường. Sự hình thành kinh tế thị trường là khách quan trong lịch sử.
Theo P.Samuelson , “Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó các cá nhân và
các hãng tư nhân đưa ra các quyết định chủ yếu về sản xuất và tiêu dùng. Các hãng
sản xuất tiêu dùng thu được lợi nhuận cao bằng các kỹ thuật sản xuất có chi phí
thấp nhất”.
Kinh tế thị trường đã phát triển qua nhiều giai đoạn, thời kỳ và nhìn chung
chúng có những ưu thế, bên cạnh đó cịn có rất nhiều khuyết tật chúng ta cần phải
để tâm tới. Những khuyết tật chủ yếu của kinh tế thị trường bao gồm:
“Một là, xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường luôn
tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng”
Kinh tế thị trường rộng mở tạo ra những cơ hội cho các chủ thể tham gia vào
hoạt động sản xuất trao đổi hàng hóa vừa thúc đẩy tăng trưởng mặt khác nó cũng
chính là con dao hai lưỡi chứa nhiều rủi ro ảnh hưởng đến không chỉ riêng chủ thể
mà toàn bộ nền kinh tế. Trong kinh tế thị trường, rủi ro khủng hoảng luôn tiềm ẩn.
Khủng hoảng có thể diễn ra bất cứ lúc nào, mang tính cục bộ và cũng có thể diễn ra


trên phạm vi tồn bộ tổng thể. Sự khó khăn trong việc nghiên cứu và dự báo trước
rủi ro của các quốc gia về thời điểm xảy ra rủi ro. Đồng thời nền kinh tế không tự

khắc phục được rủi ro tiềm ẩn này do có sự vận động tự phát của các quy luật kinh
tế. Đây là trở ngại lớn đối với nền kinh tế thị trường.
Kể từ cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán làm chấn động nước Mỹ và
thế giới vào những năm 30, sau hơn 70 năm, vào năm 2008 xảy ra một cuộc khủng
hoảng tài chính khiến các cơ quan quản lý, định chế tài chính, các thị trường, các
nhà nghiên cứu và lập chính sách tồn cầu lao đao về những gì mà vài thập kỷ họ
coi là lý thuyết, là phương pháp quản lý, sự phát triển của kinh tế thị trường, sự
rộng mở và liên kết giữa các khu vực thị trường, sự hội nhập của các nền kinh tế và
thị trường khu vực trên thế giới. Trong cuộc khủng hoảng này, thị trường chứng
khoán là nạn nhân trược tiếp gánh chịu những tổn thất lớn, khơng những vậy nó
cịn làm tăng rủi ro cho thị trường tài chính, đồng thời khiến cho cuộc khủng hoảng
lan rộng và trở nên trầm trọng hơn. Qua đó cho chúng ta thấy rằng từ việc thị
trường buông lỏng việc quản lý giám sát mà từ đó dẫn đến khủng hoảng cục thị
trường chứng khốn và lan rộng ra toàn bộ nền kinh tế ảnh hưởng nặng nề đến các
doanh nghiệp, quốc gia và toàn bộ nền kinh tế thế giới.
“Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài
ngun khơng thể tái tạo, suy thối mơi trường tự nhiên, môi trường xã hội”
Phần lớn các chủ thể sản xuất kinh doanh tham gia vào nền kinh tế thị trường
ln đặt mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận lên hàng đầu mà lãng quên đi việc song song
với việc sản xuất kinh doanh phải bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn tài nguyên.
Hầu hết các ngành sản xuất đầu vào của nó chính là từ tự nhiên, mà tài ngun từ
tự nhiên là hữu hạn. Ơng cha ta có câu: “ Rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu”, câu
nói đó chỉ đúng trong điều kiện kinh tế tự cung tự cấp và khi nền kinh tế chưa có sự
đa dạng và rộng mở. Thời nay, việc mở rộng kinh tế thị trường, đa dạng ngành nghề
khiến cho việc cầu về nguồn tài nguyên trở nên tăng một cách chóng mặt trong khi
cung khơng những khơng tăng mà cịn giảm mạnh do khai thác q mức. Đó cũng
chính là ngun nhân dẫn đến nguồn tài nguyên dần dần bị cạn kiệt, khan hiếm.
Bên cạnh đó, chủ thể sản xuất khơng quan tâm đến vấn đề ô nhiễm môi trường,
thường xuyên xả thải ra môi trường những chất gây độc hại ô nhiễm nguồn đất,
nước, khơng khí và hủy hoại mơi trường sống của nhiều loại sinh vật, ảnh hưởng

đến sức khỏe con người. Cũng vì động cơ lợi nhuận, các chủ thể sản xuất kinh
doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục tiêu làm giàu thậm
chí phi pháp, góp phần gây ra sự xói mịn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức
xã hội.


Vào năm 2016, cả nước Việt Nam đang bàng hoàng đối mặt với sự chết hàng
loạt của cá vùng biển Vũng Áng ( Hà Tĩnh) và sau đó lần lượt lan sang Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên- Huế. Thảm họa này gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất
và sinh hoạt của ngư dân, đến những hộ nuôi thủy hải sản ven bờ, ảnh hưởng đến
du lịch biển và cuộc sống của cư dân miền Trung. Sau sự điều tra kịch liệt của các
ban ngành phát hiện ra công ty Formosa đã liên tục xả thải ra môi trường trong suốt
thời gian dài. Việc lọc bỏ chất thải tốn nhiều chi phí và thời gian nên cơng ty đã tối
thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi nhuận bằng việc xả thải trực tiếp ra biển. Hành
động này cho thấy công ty đã vi phạm đạo đức kinh doanh, đồng thời cho thấy
được sức mạnh quá lớn của lợi nhuận khiến cho con người trở lên tàn ác hơn với tự
nhiên.
“Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu
sắc trong xã hội”
Khi chưa xuất hiện kinh tế thị trường, con người sống bình đẳng, tự cung tự
cấp nên khơng có sự phân hóa trong xã hội. Từ khi xuất hiện sự trao đổi mua bán
hàng hóa, bắt đầu xuất hiện sự phân hóa đó và dần trở lên nghiêm trọng hơn. Người
giàu là những người nắm trong tay của cải, vật chất, quyền lực trong khi người
nghèo học là những người bị áp bức, khơng có tiếng nói trong xã hội. Bản thân nền
kinh tế thị trường không thể khắc phục được khía cạnh phân hóa có xu hướng sâu
sắc. Các quy luật thị trường ln phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt
động tham gia thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh dẫn đến sự phân hóa
như vậy là tất yếu.
Khuyết tật của kinh tế thị trường ln là một thách thức lớn mà bất kì quốc
gia nào cũng phải đối mặt-mặc dù muốn hay không. Không một quốc gia nào tồn

tại kinh tế thị trường thuần túy địi hỏi có sự xuất hiện của nhà nước để sửa chữa
kịp thời và đúng đắn trước những thất bại của cơ chế thị trường.
Với khuyết tật thứ nhất,nhà nước đề ra những luật định cho các doanh nghiệp
khi tham gia vào thị trường. Việc này giúp làm giảm sự gia tăng chiều rộng của nền
kinh tế thị trường, hướng tới chiều sau là tăng trưởng phát triển ổn định, bền vững.
Qua đó giúp giảm thiểu rủi ro khủng hoảng. Ngoài ra, nhà nước nên xây dựng một
hàng rào bảo vệ để chánh tình trạng ảnh hưởng từ các nước trong khu vực và trên
thế giới. Hàng năm, chọn lọc ra đội ngũ hoạch định chính sách, dự đốn khủng
hoảng để kịp thời nắm bắt và ứng phó với những bất lợi từ kinh tế thị trường đem
lại cho quốc gia từ đó giúp giảm thiểu tổn thất khi có rủi ro.
Với khuyết tật thứ hai, nhà nước nên xây dựng pháp luật về môi trường và tài
nguyên thiên nhiên mang tính đầy đủ và chi tiết, với những hình phạt nặng nếu vi
phạm, xây dựng chính sách bảo vệ mơi trường thơng qua việc khuyến khích, tạo


điều kiện thuận lợi để tổ chức, cộng đồng dân xư, hộ gia đình tham gia hoạt động
bảo vệ mơi trường. Bên cạnh đó, nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các sản phẩm bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn
tài nguyên thiên nhiên. Nhà nước nên tăng nguồn chi cho sự nghiệp bảo vệ môi
trường để hướng đến một nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững.
Với khuyết tật thứ ba, trong bối cảnh hiện nay, cần đẩy mạnh việc cải cách,
tiếp tục hoàn thiện chinh sách pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện bảo hiểm xã
hội phù hợp với thực tiễn đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.... Vấn
đề an sinh xã hội là vấn đề cấp thiết nhất mà nhà nước nên quan tâm hiện nay. Việc
một quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển bền vững là nền kinh tế có sự tăng
trưởng ổn định và cơng bằng xã hơi. Để đạt được điều đó, nhà nước cần đứng đằng
sau điều tiết của cải, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp tham gia vào nền kinh
tế thị trường bằng cách đánh thuế thu nhập các nhân. Từ đó giúp giảm sự chênh
lệch về giàu nghèo các chủ thể trong nền kinh tế. Qua đó tạo động lực giúp những
người yếu thế hơn có tinh thần làm việc để đuổi kịp những người ở phía trên. Từ đó

tính cơng bằng xã hội trong kinh tế thị trường cũng như trong quốc gia đó ngày
càng được cải thiện.
Cái gì sinh ra cũng đều có hai mặt của nó, kinh tế thị trường cũng vậy. Kinh
tế thị trường có nhiều ưu thế trong phát triển sản xuất. Tuy nhiên, kinh tế thị trường
cũng có những khuyết tật. Những khuyết tật này có thể khắc phục thơng qua vai trị
kinh tế của nhà nước, các tổ chức trong xã hội và các thiết chế kinh tế khác trong
xã hội.
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm
phát triển của các quốc gia trên thế giới, và thực tiễn phát triển Việt nam, Đảng ta
đã đề ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là
bước phát triển mang tính vượt bậc về tư duy và nhận thức, một sự vận dụng sáng
tạo và đổi mới của Đảng ta. Đảng ta đã thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, chấp
nhận cơ chế thị trường và khẳng định nó khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, thực
hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Độc lập, sáng
tạo, có cơ sở trong xác định mơ hình mới- mơ hình kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đó là mơ hình vừa tn theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa
dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi những nguyên tắc và bản chất CNXH.
Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vân động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
nhaừm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tuy nhiên
nền kinh tế của nước ta còn rất nhiều bất cập. Những thành tự đạt được chưa tương
xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng,
năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế cịn thấp. Cơng tác quy hoạch,


kế hoạch và việc sử dụng nguồn lực chưa hợp lý và hiệu quả, quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp nói chung cịn yếu kém. Để duy trì và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN chúng ta cần tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế đồng
bộ, hiện đại trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy luật kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế sâu rộng. Xây dựng thống nhất kết cấu hạ tầng và đô thị, nâng cao

chất lượng nguồn nhân lực và tăng cường tiềm lực khoa học và cơng nghệ.

CÂU 2: TRÌNH BÀY TĨM TẮT CÁC HÌNH THỨC BIỂU HIỆN CỦA GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Giá trị thặng dư là một phạm trù nói lên mục đích của sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Trong đời sống thực tế của xã hội tư bản, giá trị thặng dư chuyển hóa và biểu
hiện thành lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi nhuận ngân hàng,
lợi tức cho vay, địa tô tư bản chủ nghĩa. Sau đây chúng ta sẽ đi vào phân tích những
hình thức biểu hiện cụ thể đó của giá trị thặng dư, đồng thời khẳng định quy luật
vận động của chúng trong điều kiện tự do cạnh tranh của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu về chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi
nhuận và tỷ suất lợi nhuận. Như chúng ta đã biết, muốn tạo ra giá trị hàng hóa, tất
yếu phải chi phí một số lao động nhất định gọi là chi phí lao động, bao gồm: lao
động quá khứ và lao động hiện tại. Lao động quá khứ tức là giá trị của tư liệu sản
xuất (c); lao động hiện tại tức là lao động tạo ra giá trị mới (v+m).
Trên quan điểm xã hội, chi phí lao động đó là chi phí thực tế của xã hội, chi
phí này tạo ra giá trị hàng hóa W:
W= c+v+m
Về mặt lượng: chi phí thực tế = giá trị hàng hóa
Trong thực tế, nhà tư bản chỉ quan tâm đến việc ứng tư bản để mua tư liệu
sản suất (c) và mua sức lao động (v). Do đó, nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao
nhiêu tư bản, chứ khơng tính đến hao phí hết bao nhiêu lao động xã hội. C.Mác gọi
đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k).
k=c+v
Vậy, “chi phí để sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản bất biến và tư
bản khả biến mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hóa”.


Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì cơng thức giá trị hàng hóa

(W=c+ v + m) sẽ chuyển thành W= k+m.
Vấn đề đặt ra là giữa p và m có gì khác nhau?
Về mặt lượng: nếu hàng hoá bán với giá cả đúng giá trị thì m = p; m và p
giống nhau ở chỗ chúng đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động
không công của công nhân làm thuê.
Về mặt chất: thực chất lợi nhuận và giá trị thặng dư đều là một, lợi nhuận
chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hố của giá trị thặng dư. C.Mác viết:
"Giá trị thặng dư, hay là lợi nhuận, chính là phần giá trị dơi ra ấy của giá trị
hàng hố so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số
lượng lao động chứa đựng trong hàng hố so với số lượng lao động được trả
cơng chứa đựng trong hàng hố"
Như vậy, giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự khác
nhau về cả mặt chất lẫn mặt lượng.
Ví dụ: Một nhà tư bản sản xuất đầu tư tư bản với số tư bản cố định (c1) là 1.000
đơn vị tiền tệ: số tư bản lưu động (c2 và v) là 400 đơn vị tiền tệ (trong đó giá trị của
nguyên, nhiên, vật liệu(c2) là 240, tiền công (v) là 160). Nếu tư bản cố định hao
mòn hết trong 10 năm, tức mỗi năm hao mòn 100 đơn vị tiền tệ, thì:
Chi phí sản xuất (k) là: 100+ 400 = 500 đơn vị tiền tệ
Tư bản ứng trước (K) là: 1.000+ 400 =1.400 đơn vị tiền tệ
Tức K > k
Nhưng thực tế C. Mác khi nghiên cứu đã giả định tư bản cố định hao mòn
hết trong một năm nên tổng tư bản ứng trước (K) và chi phí sản xuất (k) là bằng
nhau. Việc hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) che đậy thực chất bóc
lột của chủ nghĩa tư bản.
Giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn tồn tại
một khoảng chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hóa (giả định: giá trị= giá cả),
nhà tư bản đã bù đắp được khản ứng ra trước đó và thu về một số tiền ngang bằng
với m. Số tiền này được gọi là lợi nhuận (p).
W= c + v + m = k+ m bây giờ chuyển thành:
W=k+p



Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là
con đẻ của troàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức biến tướng là lợi nhuận.
Lợi nhuận chính là mục tiêu, động cơ, động lực của hoạt động sản xuất, kinh doanh
trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, lợi nhuận khi đo bằng số tuyệt đối chỉ phản ánh quy mô của hiệu
quả kinh doanh mà chưa phản ánh rõ mức độ hiệu quả của kinh doanh, do đó cần
được bổ sung bằng số tương đối là tỷ suất lợi nhuận.
“Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá trị của tư
bản ứng trước (ký hiệu là p’)”.
p’= x 100%
Lợi nhuận là hình thức chuyển hóa của giá trị thặng dư, nên tỷ suất lợi nhuận
là sự chuyển hóa của tỷ suất giá trị thặng dư, vì vậy chúng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau.
Trong thực tế khi xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận chúng
ta nên để ý đến bốn nhân tố sau:
Thứ nhất, đó chính là tỷ suất giá trị thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư càng
cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn và ngược lại.
Ví dụ:
Nếu cơ cấu giá trị hàng hóa là 800c + 200v +200m thì m’ = 100%, p’= 20%
Nếu cơ cấu giá trị hàng hóa là 800c + 200v + 400m thì m’= 200%, p’= 40%
Do đó tất cả các thủ đoạn nâng cao giá trị thặng dư cũng chính là tủ đoạn
nâng cao tỷ suất lợi nhuận.
Thứ hai, đó chính là cấu tạo hữu cơ. Trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư
không đổi nếu cấu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và
ngược lại.
Ví dụ:
Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 70c + 30v + 20m thì p’= 30%
Nếu cấu tạo hữu cơ tư bản là 80c + 20v +20m thì p’= 20%

Thơng thường khi cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng thì tỷ suất giá trị thặng dư
cũng có thể tăng lên, nhưng khơng thể tăng đủ bù đắp mức giảm của tỷ suất lợi
nhuận.


Thứ ba là tốc độ chu chuyển của tư bản. Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản
sản sinh ra giá trị thặng dư trong năm của tư bản ứng trước càng nhiều lần, giá trị
thặng dư theo đó mà tăng lên làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng tăng.
Ví dụ:
Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản một năm 1 vịng: 80c+ 20v+ 20m thì
p’=20%
Nếu tốc độ chu chuyển của tư bản một năm 2 vòng: 80c + 20v + (20 +20)m
thì p’= 40%
Vậy tỷ suất lợi nhuận tỷ lệ thuận với số vòng chu chuyển của tư bản và tỷ lệ
nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản.
Thứ tư, đó chính là tiết kiệm của tư bản bất biến. Trong điều kiện tỷ suất giá trị
thặng dư và tư bản khả biến không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi
nhuận càng lớn. Vì theo cơng thức:
p’= x 100%
Rõ ràng khi m và v khơng đổi, nếu c càng nhỏ thì p’ càng lớn.
Vì vậy trong thực tế, để nâng cao tỷ suất lợi nhuận, các nhà tư bản đã tìm
mọi cách để tiết kiệm tư bản bất biến như sử dụng máy móc, thiết bị, nhà xưởng,
nhà kho, phương tiện vận tải với hiệu quả cao nhất: kéo dài ngày lao động, tăng
cường độ lao động, thay thế nguyên liệu đắt tiền bằng nguyên liệu rẻ tiền, giả
những chi tiêu bảo hiểm lao động, giảm những chi tiêu bảo vệ môi trường sinh thái,
giảm tiêu hao vật tư năng lượng và tận dụng phế liệu, phế phẩm, phế thải để sản
xuất hàng hóa.
Bốn nhân tố trên đâu đều được các nhà tư bản sử dụng, khai thác một cách
triệt để, để đạt đượ tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Song, với những đặc điểm, điều kiện
khác nhau, nên cùng một lượng tư bản như nhau đầu tư vào các ngành sản xuất

khác nhau, thì tỷ suất lợi nhuận đạt được lại khác nhau, Vì vậy, các nhà tư bản ra
sức cạnh tranh kịch liệt với nhau và dẫn tới việc hình thành lợi nhuận bình quân.
“ Lợi nhuận bình quân được hình thành do cạnh tranh giữa các ngành”
Cạnh tranh xuất hiện và gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa.
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất, kinh
doanh hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện có lợi về sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa, để thu lợi nhuận cao nhất.


Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các ngành sản xuất khác
nhau, nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn, tức là nơi có tỷ suất lợi nhuận cao
hơn.
Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác,
tức là phân phối tư bản (c và v) vào các ngành sản xuất khác nhau.
Kết quả của cuộc cạnh tranh này là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân,
và giá trị hàng hóa được chuyển thành giá cả sản xuất.
Chúng ta đều biết, ở các ngành sản xuấ có những điều kiện tự nhiên, kinh tế,
kỹ thuận và tổ chức quản lý khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.
Giả sử có ba ngành sản xuất khác nhau, tư bản của mỗi ngành đều bằng 100,
tỷ suất giá trị thặng dư đều bằng 100% tốc độ chu chuyển của tư bản ở các ngành
đều như nhau. Nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản ở từng ngành khác nhau, nên tỷ
suất lợi nhuận khác nhau.
“Tỷ suất lợi nhuận bình qn là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị
thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa, ký hiệu ”
=

C. Mác cho rằng: Những tỷ suất lợi nhuận hình thành trong những ngành sản
xuất khác nhau, lúc đầu rất khác nhau. Do ảnh hưởng của cạnh tranh, tỷ suất lợi
nhuận khác nhau đó san bằng thành tỷ suất lợi nhuận chung, đó là con số trung bình

của tất cả các tỷ suất lợi nhuận khác nhau.
Nếu ký hiệu giá trị tư bản ứng trước là K thì lợi nhuận bình qn tính như
sau:
xK

Những điều kiện hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình
quân, giá cả sản xuất bao gồm: tư bản tự do di chuyển và sức lao động tự do di
chuyển. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận bình quân trở
thành căn cứ cho các doanh nghiệp lựa chọn ngành nghề, phương án kinh doanh
sao cho hiệu quả nhất.


Trong nền kinh tế thị trường, các ngành nghề được phân cơng và chun
mơn hóa cơng việc cao. Việ chun mơn hóa kinh doanh dẫn đến xuất hiện một bộ
phận gọi là tư bản thương nghiệp.
Sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua được gọi là lợi nhuận thương nghiệp.
Nguồn gốc chính của lợi nhuận thương nghiệp chính là một phần của giá trị
thặng dư mà nhà tư bản sản xuất trả cho nhà tư bản thương nghiệp, do đó nhà tư
bản thương nghiệp đã giúp cho việc bán được hàng một cách nhanh chóng và hiệu
quả.
Cách thức thực hiện là nhà tư bản bán hàng hóa cho nhà tư bản thương
nghiệp với mức giá cao hơn chi phí sản xuất để đến lượt nhà tư bản thương nghiệp
bán hàng hóa cao hơn hoặc ngang bằng giá trị của hàng hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, ln xuất hiện hiện tượng có chủ thể thì có tiền
nhàn rỗi, trong khi lại có những chủ thể khác lại cần tiền để mở rộng kinh doanh.
Từ đó phát sinh mối quan hệ giữa người đi vay và người cho vay. Nguời đi vay
phải trả lợi tức cho người đi vay. Người đi vay thu được lợi nhuận bình quân, do
phải vay tiền của người khác nên phải khấu trừ một phần lợi nhuận bình quân để trả
người cho vay.
Như vậy, lợi tức (z) chính là một phần của lợi nhuận bình quân mà nhà tư

bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay căn cứ vào lượng tư bản tiền tệ mà nhà
tư bản cho vay bỏ ra cho nhà tư bản đi vay sử dụng.
Vì là một phần của lợi nhuận bình quân nên lợi tức được giới hạn trong
khoảng: 0 < z <
“Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức và tư bản cho vay. Nếu ký
hiệu tỷ suất lợi tức là z’, tư bản cho vay là TBCV, thì cơng thức tỷ suất lợi tức như
sau:”
z’= x 100%
Tỷ suất lợi tức phụ thuộc vào những nhân tố sau:


Một là, tỷ suất lợi nhuận bình quân vì tỷ suất lợi tức là một phần của lợi
nhuận bình quân. Khi lợi nhuận bình quân của nhà tư bản cao thì lợi tức cũng sẽ
cao lên.
Hai là tỷ lệ phân chia lợi nhuận bình quân thành lợi tức và lợi nhuận của nhà
tư bản hoạt động.
Ba là quan hệ cung cầu về tư bản cho vay.
Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, tỷ suất lợi tức có xu hướng giảm và
cung về tư bản cho vay có xu hướng tặng nhanh hơn cầu về tư bản cho vay.
Trong điều kiện quan hệ tín dụng ngày càng phát triển, các mơ hình sản xuất
kinh doanh ngày càng được đổi mới khơng ngừng, nền kinh tế thị trường thúc đẩy
hình thành các công ty cổ phần. Các công ty này phát hành trái phiếu, cổ phiếu.
Các loại trái phiếu, cổ phiếu này được C.Mác gọi là tư bản giả do nó nược giao
dịch tách biệt. Tư bản giả được mua bán trên thị trường chứng khoán.
Với sự phát triển của thị trường chứng khốn và các cơng ty chứng khốn,
trong những năm gần đây, các cơng ty chứng khốn cịn phát hành các chứng
quyền, các chứng quyền này được đem đi trao đổi, mua bán đem lại lợi nhuận cho
người có chứng quyền.
Sự hình thành của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp theo
hai con đường:

Thứ nhất, dần dần chuyển nền nông nghiệp địa chủ phong kiến sang kinh
doanh theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sử dung lao động làm thuê
Thứ hai, thông qua cuộc cách mạng dân chủ tư sản, sản xóa bỏ chế độ cạnh
tranh ruộng đất theo phong kiến, phát triển chủ nghĩa tư bản cho nông nghiệp
Đặc điểm nổi bật của quan hệ tư bản sản xuất trong nông nghiệp là sự tồn tại
của 3 giai cấp: địa chủ( sở hữu ruộng đất), nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp ( các
nhà tư bản thuê ruộng đất của địa chủ để kinh doanh) và công nhân nông nghiệp
làm thêm.
Giống như tư bản kinh doanh trong công nghiệp, tư bản kinh doanh trong
nơng nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng vì phải thuê ruộng đất


của địa chủ nên ngồi lợi nhuận bình q, tư bản kinh doanh nơng nghiệp cịn phải
thu thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra nữa, tức là lợi nhuận siêu ngạch.
Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định, lâu dài và tư bản kinh doanh nông
nghiệp phải trả cho địa chủ dưới hình thái địa tơ tư bản chủ nghĩa.
Vậy, “Địa tô tư bản chủ nghĩa là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu
trừ đi một phần lợi nhuận bình quân mà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp
cho địa chủ”
Thực chất địa tơ tư bản chủ nghĩa chính là một hình thức chuyển hóa của giá
trị thặng dư siêu ngạch hay lợi nhuận siêu ngạch.
Địa tô chênh lệch là phần địa tơ thu được ở trên những ruộng đất có lợi thế
về điều kiện sản xuất. Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung và giá cả sản
xuất cá biệt.
Địa tô chênh lệch= Giá cả sản xuất chung – Giá cả sản xuất riêng biệt.
Trong thực tế đời sống kinh tế, “địa tô là một trong những căn cứ để tính
tốn giá cả ruộng đất khi thực hiện bán quyền sử dụng đất cho người khác”.
Về nguyên lý, giá cả ruộng đất được tính trên cơ sở so sánh với tỷ lệ lãi suất
ngân hàng, theo công thức:
Giá cả đất đai=

“Lý luận địa tô tư bản chủ nghĩa của C. Mác không chỉ vạch rõ bản chất
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa học để
xây dựng các chính sách thuế đối với nơng nghiệp và các ngành khác có liên quan
đến đất đai có hiệu quả hơn”.


MỤC LỤC
“Một là, xét trên phạm vi toàn bộ nền sản xuất xã hội, nền kinh tế thị trường
luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng” [2;40] Bộ GD-ĐT, giáo trình kinh
tế chính trị Mác – Lênin, Hà Nội 2019
“Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt
tài nguyên không thể tái tạo, suy thối mơi trường tự nhiên, mơi trường xã
hội” [2;40] Bộ GD-ĐT, giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin, Hà Nội
2019
“Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa
sâu sắc trong xã hội” ” [2;41] Bộ GD-ĐT, giáo trình kinh tế chính trị Mác –
Lênin., Hà Nội 2019

“Chi phí để sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản bất biến và tư bản
khả biến mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hóa”. [4,281] Nhà suất bản
Quốc gia sự thật, giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin
“Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa lợi nhuận và toàn bộ giá trị của
tư bản ứng trước (ký hiệu là p’)”. [3;72] Bộ GD-ĐT, giáo trình kinh tế chính
trị Mác – Lênin., Hà Nội 2019

“ Lợi nhuận bình quân được hình thành do cạnh tranh giữa các ngành”
[3;73] Bộ GD-ĐT, giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin., Hà Nội 2019
“Tỷ suất lợi nhuận bình qn là tỷ số tính theo phần trăm giữa tổng giá trị
thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa, ký hiệu ” [3; 74] Bộ GD-ĐT, giáo trình kinh tế chính trị

Mác – Lênin., Hà Nội 2019

“Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm giữa lợi tức và tư bản cho vay. Nếu ký
hiệu tỷ suất lợi tức là z’, tư bản cho vay là TBCV, thì cơng thức tỷ suất lợi
tức như sau:” [3;76] Bộ GD-ĐT, giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin.,
Hà Nội 2019


“Địa tô tư bản chủ nghĩa là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu
trừ đi một phần lợi nhuận bình quân mà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải
nộp cho địa chủ” [4;306] Nhà suất bản Quốc gia sự thật, giáo trình những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin

“Lý luận địa tô tư bản chủ nghĩa của C. Mác không chỉ vạch rõ bản chất
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp mà còn là cơ sở khoa
học để xây dựng các chính sách thuế đối với nơng nghiệp và các ngành khác
có liên quan đến đất đai có hiệu quả hơn”. [3; 77] Bộ GD-ĐT, giáo trình
kinh tế chính trị Mác – Lênin., Hà Nội 2019



×