Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tiểu luận VAI TRÒ của NGUYỄN ái QUỐC TRONG VIỆC THÀNH lập ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LIÊN hệ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.63 KB, 30 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG

***

TIỂU LUẬN
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đề tài: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH
LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. LIÊN HỆ VỚI VIỆC
XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện: Phạm Thành Nhân
Lớp: KHQLNN K40B Kiên Giang

KIÊN GIANG - 2022


MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................
2. Mục tiêu nghiên cứu..................................................................................
3. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................
PHẦN 2: NỘI DUNG............................................................................................
1. Tiểu sử vắn tắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh ...............................................
2. Tình hình xã hội Việt Nam và các phong trào đấu tranh
của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời..........................................................
3. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện cần thiết
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam............................................................
4. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên


của Đảng..................................................................................................................
a. Hội nghị thành lập Đảng............................................................................
b. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng....................................................
c. Ý nghĩa lịch sử của sự ra đời Đảng cộng sản Việt Nam
và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng..............................................................
PHẦN 3: CƠNG TÁC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
TRONG THỜI KỲ MỚI......................................................................................
1. Vai trò, sự cần thiết phải kết hợp xây dựng với chỉnh đốn Đảng..............
2. Một số giải pháp xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay..........................
2.1. Tăng cường xây dựng Ðảng về chính trị, hồn thiện đường
lối đổi mới và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện................................................
2.2. Tăng cường công tác tư tưởng; rèn luyện phẩm chất,
đạo đức cách mạng
2.2.1 Tăng cường công tác tư tưởng..............................................................
2.2.2 Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân ........................................................................................
2.3. Ðẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.............
2.4. Ðổi mới, kiện tồn tổ chức, bộ máy của Ðảng
và của hệ thống chính trị.........................................................................................
2.5. Tiếp tục đổi mới cơng tác cán bộ, cơng tác bảo vệ
chính trị nội bộ. .......................................................................................................
2.5.1 Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ.........................................................
2.5.2 Làm tốt cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ..............................................
2.6. Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng; nâng cao
chất lượng đảng viên...............................................................................................
2.6.1 Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng................................................
2.6.2 Nâng cao chất lượng đảng viên...........................................................


2.7. Ðổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát..............................

2.8. Xây dựng và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Ðảng
với nhân dân ...........................................................................................................
2.9. Ðổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Ðảng........................
PHẦN 4: KẾT LUẬN.................................................................................


1

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1958 thực dân Pháp tiến hành cuộc xâm lược Việt Nam. Sau khi thực
dân Pháp xâm lược Việt Nam, chúng đã từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn
bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, sau gần 30 năm bình định
bằng vũ trang, Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Pháp. Giữa lúc cách mạng Việt
Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày 5-6-1911,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra
nước ngồi, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người đã bắt đầu hành trình cứu
nước của mình trên con tàu đô đốc La-tu-so To-re-vin. Kể từ giờ phút này, trái tim
của Người đã thật sự hoà nhịp với trái tim của những người dân An Nam, với
những người dân ở các nước thuộc địa đang sống trong sự thống khổ - trái tim
mong ước hồ bình và hạnh phúc cho nhân loại. Giờ đây, Người đang sống cho cả
dân tộc Việt Nam – một dân tộc mà trong lịch sử khơng bao giờ chịu khuất phục
trước giặc ngoại bang. Chính nguồn gốc lịch sử oai hùng ấy, chính dịng máu của
người dân Việt Nam ấy đã nung đúc nên một con người mà tương lai sẽ trở thành
ngọn đuốc soi đường cho dân tộc bước qua muôn vàn thử thách. Độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất để thực hiện mục tiêu giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra
đời của Đảng cộng sản Việt Nam đã gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Bác là người đầu
tiên gieo hạt giống Mác-Lenin trên đất nước Việt Nam, làm cho cách mạng Việt
Nam nên hoa kết quả. Người đã trở thành người cộng sản đầu tiên của nước ta khi

gia nhập vào Quốc tế cộng sản và trở thành người có vai trị rất quan trọng. Sau
đó, Người tiếp tục thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên-tiền thân của
Đảng Cộng sản Việt Nam, với báo Thanh niên là cơ quan ngơn luận của Hội, góp
phần truyền bá những tư tưởng tiến bộ vào đất nước. Tiếp đó, Người đã hợp nhất
ba tổ chức Đảng: Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng và Đông
Dương cộng sản liên Đoàn thành Đảng Cộng sản Việt Nam và dày công đào tạo
cho Đảng ta một đội ngũ cán bộ ưu tú, chăm lo xây dựng Đảng ta thành một khối
đoàn kết, thống nhất, vững mạnh.
Đến nay, đã 91 năm trôi qua, kho lịch sử bằng vàng ấy đã tiếp tục toả sáng
trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa đến những bước ngoặt căn bản, có
tính cách mạng làm thay đổi cả vận mệnh dân tộc, thay đổi thân phận của người
dân và vị thế của đất nước Việt Nam trên đấu trường quốc tế. Cùng quay lại trang
sách lịch sử lúc bấy giờ, để thấy rõ được và trân quý hơn cuộc sống độc lập có
được ngày hơm nay là một sự đóng góp hy sinh to lớn của Người cha anh hùng,
Người đã dành hết nửa phần cuộc đời cho mảnh đất hình chữ S. Vai trò của Người
được thể hiện rất rõ nét trong quá trình thành lập Đảng cộng sản Việt Nam cũng


2

như trong q trình giải phóng dân tộc thời kì này. Đó cung là lý do mà e chọn đề
tài “Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Liên hệ
với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay” làm tiểu luận kết nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu, sau khi học tập và kết thúc bài tiểu luận “Vai trò của Nguyễn
Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Liên hệ với việc xây dựng và
chỉnh đốn Đảng hiện nay” là nâng cao hiểu biết, nhận thức được công lao to lớn của
Chủ tịch nước Hồ Chí Minh, Người cha già dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã
dùng cả cuộc đời cho độc lập, tự do của Tổ quốc và ấm no, hạnh phúc cho Nhân
dân và nâng cao nhận thức của cá nhân về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng

trong thời kỳ mới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu chủ yếu dựa trên giáo tập bài giảng Đường lối
cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngồi ra, cịn được nghiên cứu qua các
nguồn internet, tài liệu chuyên môn khác,…


3

PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Tiểu sử vắn tắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung,
quê ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu
nước, lớn lên trên quê hương có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm. Nguyễn
Ái Quốc lớn lên giữa nước mất nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào
đã ni chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc . Triều đình phong kiến
nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, thực dân Pháp vạch ra những chính sách đàn
áp, bóc lột dã man lên nhân dân ta, khiến cho các phong trào yêu nước diễn ra sơi
nổi, mạnh mẽ. Lúc này triều đình phong kiến nhà Nguyễn đầu hàng thực dân
Pháp, song phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp vẫn diễn ra. Phong trào yêu
nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối thế kỉ XIX Tiêu biểu là các
phong trào Cần Vương, Cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Các cuộc khởi nghĩa này tuy
diễn ra sôi nổi nhưng đều không thành công. Với ý chí và quyết tâm đó, tháng
6/1911, Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải
phóng dân tộc.
2. Tình hình xã hội Việt Nam và các phong trào đấu tranh của nhân
dân ta trước khi Đảng ra đời
*Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước thiết
lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.

Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà
nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của giai cấp tư sản
mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự cấu kết giữa chủ
nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa. Sự cai trị của
chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập, quyền tự do
dân chủ; mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã man; mọi ảnh hưởng của các trào
lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn cấm.
Về kinh tế, chúng triệt để khai thác Đơng Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản
Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự
phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vơ lý, vơ
nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân ta vào cảnh bần
cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại hậu quả
nghiêm trọng, kéo dài.


4

Về văn hóa - xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích văn
hố nơ dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vịng tăm tối, dốt nát,
lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội
Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa
phong kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ
yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống
trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ
với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu
thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ
chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập

dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh địi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của
cách mạng Việt Nam đặt ra, cần được giải quyết.
*Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân tộc
ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng,
bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng
lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi
nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau, như
khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương,
phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do
Phan Đình Phùng, Hồng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi
nghĩa, phong trào đấu tranh đó vơ cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn
áp tàn bạo và đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con
đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách
mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước. Việc tìm
một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng
dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
3. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam


5

Cuối thế kỷ XIX, sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay thực thi
các chính sách thực dân hà khắc, biến nước ta từ một nước phong kiến độc lập trở
thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn
ra hết sức gay gắt. Hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác

nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó, tiêu biểu là phong trào
Cần Vương do Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào Đông
Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên
Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo... Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy
diễn ra quyết liệt, nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì thiếu một đường lối cứu nước
đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của tồn dân
tộc.
Xuất phát từ lịng yêu nước, thương dân sâu sắc, mang trong mình những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ngày 05/6/1911, người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Với nhiều
nghề lao động khác nhau để mưu sinh, tìm hiểu nền văn minh phương Tây như
Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc địa của đế quốc, thực dân, Người đã rút ra
một kết luận quan trọng: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo, độc ác và ở
đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công, Người từ nước Anh trở
lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái
Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp - một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp.
Người đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị
Vécxây bản yêu sách tám điểm. Tuy những yêu sách của Người không được Hội
nghị đáp ứng nhưng đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là
một trò bịp bợm lớn”
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đăng trên báo
L'Humanite (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17/7/1920. Những luận điểm cách mạng
của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ
dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của V.I.
Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các
dân tộc thuộc địa là cơ sở để Người xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế
Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920). Tại
Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba

(Quốc tế Cộng sản do Lênin thành lập).
Đây cũng là sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng
lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu
bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái


6

Quốc - từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Sự kiện đó cũng
mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn phát triển mới “giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế,
đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác -Lênin”(3). Nguyễn Ái Quốc từ người
tìm đường trở thành người dẫn đường cho cách mạng Việt Nam, với những
đóng góp to lớn có tính quyết định cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Người đã chuẩn bị các tiền đề tốt nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra
đời của Đảng.
+Về chính trị: Từ khi khẳng định cách mạng Việt Nam đi theo con đường
cách mạng của Chủ nghĩa Mác – Lênin, Cách mạng Thánh Mười Nga; tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu quy luật hình thành của các đảng cộng
sản trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy sự cần thiết phải chuẩn bị chu đáo về
đường lối chính trị của Đảng kiểu mới theo chủ nghĩa Lênin ở Việt Nam.
Tác phẩm Đường Cách mệnh (1927) của Người là sự chuẩn bị tập trung và chu
đáo về lý luận chính trị cho Đảng ta, đặt nền tảng tư tưởng cho đường lối chính trị
của cách mạng Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đường Cách mệnh đã
chỉ ra mục tiêu giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chủ yếu,
trước hết của cách mạng Việt Nam và các nước thuộc địa là giải phóng dân tộc; về
sự cần thiết phải đồn kết giữa giai cấp vơ sản ở chính quốc với giai cấp vơ sản
thuộc địa, đồn kết giữa các nước thuộc địa hình thành mặt trận chung chống chủ
nghĩa đế quốc; về khả năng nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản của
cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa; cách mạng Việt Nam sau khi

giành thắng lợi sẽ đi lên Chủ nghĩa xã hội. Cách mạng muốn thắng lợi phải có
Đảng lãnh đạo, phải có lý luận khoa học dẫn đường và có đường lối, phương pháp
cách mạng đúng đắn.
+Về tư tưởng: Nhận thấy muốn làm cách mạng phải tập hợp lực lượng và
sức mạnh của quần chúng, do đó, Nguyễn Ái Quốc chủ trương truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần
chúng nhân dân, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin
từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm cho phong trào yêu nước tiến
dần đến lập trường của giai cấp công nhân.
Sự chuẩn bị về tư tưởng rõ nét nhất của Nguyễn Ái Quốc là thơng qua hoạt
động báo chí và tun truyền. Thời gian ở Pháp, Người cho xuất bản và làm chủ
nhiệm kiêm chủ bút cho tờ Le’Paria (Người cùng khổ) (từ số 1 đến số 15). Người
viết khoảng 30 bài, tập trung tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân và truyền bá
Chủ nghĩa Mác – Lênin vào các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.
Tháng 6.1925 tại Quảng Châu, Người cho xuất bản báo Thanh niên, cơ quan
ngôn luận của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Ngoài ra còn một số các tờ


7

báo định kỳ khác như: tờ tuần báo Công nông (xuất bản cuối 1926 – 1928) đối
tượng tuyên truyền chủ yếu là cơng nhân và nơng dân; tờ Lính cách mệnh xuất bản
đầu 1927 đến 1928, lấy binh sĩ Việt Nam trong quân đội Pháp ở Đông Dương làm
đối tượng tuyên truyền.
Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925) và Đường Cách mệnh
(1927) vừa tố cáo tội ác của thực dân vừa vạch ra những vấn đề chiến lược và sách
lược của cách mạng, gắn cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng
vơ sản ở chính quốc.
Ngồi viết sách, báo, tham luận tại các hội nghị, Nguyễn Ái Quốc còn trực tiếp
giảng bài, thảo luận. Người đã sử dụng nhiều cơng cụ, hình thức, phương pháp để

vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác – Lênin và
động viên nhân dân giác ngộ làm cách mạng.
+Về tổ chức: Hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi trong phong trào cộng
sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc sớm đã nhận thức được vai trị quan trọng của cơng
tác tổ chức xây dựng Đảng. Người đánh giá cao sức mạnh tổ chức của nhân dân
thuộc địa sẽ thành lực lượng khổng lồ chống chủ nghĩa đế quốc.
Tại Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã tập hợp các thanh niên Việt Nam
yêu nước tại đây thành lập nên Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên – một tổ chức
yêu nước, tiền cộng sản, phù hợp với trình độ của phong trào cách mạng Việt Nam
lúc bấy giờ.
Thấm nhuần nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, Nguyễn Ái Quốc xác định Đảng Cộng sản phải có lý luận tiên phong dẫn
được, phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, kỷ luật
tự giác và nghiêm minh, đồn kết thống nhất, gắn bó với nhân dân.
Tin tưởng vào thanh niên - thế hệ trẻ và là tương lai của dân tộc, Nguyễn Ái
Quốc không những tập hợp thanh niên vào một tổ chức mà còn đào tạo họ thành
những lớp người kiên trung của Đảng. Đó là Đinh Đức Cảnh, Trần Phú, Nguyễn
Văn Cừ, Lê Hồng Phong…
Bằng những hoạt động tích cực về mọi mặt của Nguyễn Ái Quốc, phong
trào cách mạng Việt Nam đã có bước phát triển nhanh về chất, nhanh chóng vơ sản
hóa và thành lập các nhóm cộng sản. Tuy nhiên, sự tồn tại và hoạt động riêng rẽ
của các tổ chức cộng sản này gây khó khăn, bất lợi cho phong trào cách mạng
trong nước. Vì thế đi đến thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một chính
đảng thống nhất của cách mạng Việt Nam là một sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc,
thể hiện công lao, trí tuệ, uy tín và đạo đức cách mạng trong sáng của Người.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời tháng 2 năm 1930 là bước ngoặt lịch sử vĩ
đại, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về mặt tổ chức của cách mạng Việt Nam. Đồng
thời thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo các nguyên lý của Chủ nghĩa Mác



8

– Lênin của Nguyễn Ái Quốc vào việc sáng lập một chính đảng vơ sản kiểu mới ở
một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Từ đây, cách
mạng Việt Nam có Đảng dẫn đường chỉ lối. Trải qua 91 mùa xuân, dù tình hình
thế giới có nhiều biến động, cách mạng có những lúc vơ cùng khó khăn, đứng
trước sự chống phá gay gắt của các thế lực thù địch, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
giữ vững bản lĩnh, giữ vững uy tín và vai trò lãnh đạo cách mạng, được sự tin
tưởng ủng hộ của nhân dân, là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam
kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
4. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
a. Hội nghị thành lập Đảng
*Bối cảnh lịch sử
Đầu năm 1930, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh mẽ. Liên Xô
lớn mạnh. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 1929 gây hậu quả nặng nề
đối với nhiều nước tư bản trong đó có thực dân Pháp, ở Đông Dương, thực dân
Pháp tăng cường các biện pháp quân sự hoá.
Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930) do Quốc dân Đảng lãnh đạo, thực
dân Pháp càng tăng cường hơn các biện pháp đàn áp, khủng bố dã man.
Phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam phát triển mạnh
dưới sự lãnh đạo của các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam. Tuy nhiên, do hoạt
động phân tán nên có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Yêu cầu thống nhất các tổ
chức cộng sản để thành Đàng Cộng sản duy nhất đặt ra cấp bách.
Tháng 10 - 1929, Quốc tế Cộng sản gửi tài liệu yêu cầu những người cộng
sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ và thành lập một Đảng của giai
cấp vơ sản và có mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới.
Từ tháng 7-1928, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Xiêm. Nhận được tin về sự
chia rẽ của những người cộng sản Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm trở lại
Hương Cảng (Trung Quốc). Với tinh thần trách nhiệm cao của người cộng sản
chân chính và vói tư cách là Uỷ viên Bộ Phương Đông, phụ trách cục Phương

Nam của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập các đại biểu của Đông
Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến dự Hội nghị họp nhất các
tổ chức cộng sản. Người dự thảo các văn kiện: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương trình tóm tắt; dự kiến thời gian, địa điểm, cách thức tổ
chức Hội nghị.
Từ ngày 6-1 đến ngày 7 - 2 - 1930 (dịp Tết Canh Ngọ), tại xóm nhỏ của
người lao động ở bán đảo Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc), Nguyễn Ái
Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Dự Hội nghị có 2 đại biểu của Đơng Dương cộng sản Đàng là Trịnh Đình
Cửu, Nguyễn Đức Cảnh; 2 đại biểu của An Nam cộng sản Đảng là Châu Văn Liêm


9

và Nguyễn Thiệu. Hai đại biểu đang hoạt động ở Hồng Cơng, Trung Quốc dự
khơng chính thức là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn. Tổng sổ đảng viên của Đông
Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng khi đó có khoảng 500 người.
Đơng Dương cộng sarn Liên Đồn vừa thành lập, khơng kịp nhận thơng báo cử
người đến dự.
* Nội dung Hội nghị
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thảo luận và nhất trí 5 nội dung do
Nguyễn Ái Quốc đề nghị:
-Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm
cộng sản Đơng Dương.
-Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
-Thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt
và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
-Quyết định phương châm, kế hoạch thực hiện việc thống nhất các tổ chức
Đảng trong nước; quyết định ra báo, tạp chí của Đảng Cộng sản Việt Nam.

-Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại biểu
chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đơng Dương.
-Hội nghị cịn dự kiến tổ chức Đồn Thanh niên cộng sản, Hội Tương tế,
Hội phản đế, mở rộng ảnh hường của công xã Quảng Tây, bảo vệ Liên Xô và cách
mạng Trung Quốc.
-Ngày 24-2-1930, theo yêu cầu của Đơng Dương Cộng sản Liên đồn,
Trung ương lâm thời của Đảng họp quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
-Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (2-1930) có ý nghĩa
như Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
b. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thơng qua
tại Hội nghị thành lập Đảng, có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt của Đảng
và Sách lược vắn tắt của Đảng (8) đã phản ánh về đường hướng phát triển và
những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy,
hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cương lĩnh đã xác định các vấn đề cơ bản về chiến lược, sách lược của cách mạng
Việt Nam như sau:
Một là, phương hướng chiến lược của cách mạng: Làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Nói cách khác là làm
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành độc lập dân tộc, đánh đổ phong kiến,
giành dân chủ, ruộng đất cho nông dân và tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Hai là, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng bao gồm:
Về chính trị: Đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Việt Nam


10

được hồn tồn độc lập; lập ra Chính phủ cơng nông binh; tổ chức ra quân đội
công nông.

Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu hầu hết sản nghiệp lớn
(như công nghiệp, vận tài, ngân hàng, v.v) của tư bản để quốc Pháp để giao cho
Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu hết ruộng đất của để quốc làm của
công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công
nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
Về văn hoá - xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền,
v.v; phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hố.
Ba là, về lực lượng cách mợng: Đảng phải thu phục cho được đại đa số
nông dân và phảị dựa vào nông dân nghèo làm cách mạng ruộng đất. Đảng phải
hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng, Thanh Niên, Tân Việt, ... để
kéo họ đi vào phe giai cấp vô sản.
Đối với phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản An Nam chưa lộ rõ
mặt phàn cách mạng thì lợi dụng, sau đó làm cho họ trung lập. Kẻ nào đã ra mặt
phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Bốn là, về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Đảng là đội tiền phong của giai cấp vô sản phải thu phục được
đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo dân chúng đánh đổ
đế quốc, tay sai, để ủng hộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Khi liên lạc với các
giai cấp khác, Đảng phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân và dân
tộc, không khi nào nhân nhượng, thoả hiệp.
Năm là, về phương pháp cách mạng: Tiến hành bạo lực cách mạng giành
chính quyền. Chính phù cơng nơng binh phải nhanh chóng tổ chức qn đội cơng
nơng để bảo vệ những thành quả cách mạng, đập tan mọi sự kháng cự của thế lực
phản cách mạng.
Sáu là, về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế
giới: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận cách mạng của thế giới, phải đồng thời
tuyên truyền và thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế
giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ra đời ngay khi thành lập Đảng, đã
giải đáp đúng những vấn đề cơ bản nhất của cách mạng Việt Nam, đặt nền tàng

đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động của toàn Đảng, toàn dân, tạo ra
sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam từ đây phát triển.
Với Cương lĩnh chính trị, Đảng cộng sản Việt Nam sớm khẳng định vai trị lãnh
đạo duy nhất của mình. Với tư tưởng cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, Cương lĩnh chính trị đầu tiên là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin vào thực tiễn Việt Nam, là cơ sở quyết định mọi thăng lợi của cách mọng
Việt Nam.


11

c. Ý nghĩa lịch sử của sự ra đời Đảng cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân
tộc và đấu tranh giai cấp, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong thời đại mới. Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng nước ta. “Việc thành lập
Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam
nước ta. Nó chứng tỏ rằng, giai cấp vơ sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo
cách mạng”.
Đảng ra đời với Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã chấm dứt thời kỳ bế tắc,
khủng hoảng “như trong đêm tối khơng có đường ra” về đường lối cứu nước Việt
Nam, đồng thời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những
bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam; đặt nền
tảng cho truyền thống đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Cách
mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khắng khít của cách mạng thế giới; chứng
minh sự đúng đắn của chủ nghĩa Lênin về xây dựng Đảng cộng sản kiểu mới trong
một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Quá trinh vận động ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã để lại cho cách
mạng những kinh nghiệm quý giá: Kinh nghiệm về sự truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Kinh nghiệm

về sự cần thiết phải có lý luận Mác - Lênin làm cốt trong Đảng. Kinh nghiệm về
xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Lênin.
Đảng ra đời gắn liền với công lao to lớn cùa Nguyễn Ái Quốc- Người sáng
lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam. Thắng lợi cùa cách mạng Việt
Nam hơn 80 năm qua chứng tỏ sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự mở
đầu cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
PHẦN 3:
CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG THỜI KỲ MỚI
1. Vai trò, sự cần thiết phải kết hợp xây dựng với chỉnh đốn Đảng
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, cấp bách, có
ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự tồn
vong của Đảng và chế độ, sự phát triển bền vững của đất nước. Với ý nghĩa, tầm
quan trọng đặc biệt đó, kể từ khi ra đời đến nay, trong các văn kiện đại hội Đảng,
các hội nghị trung ương và trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng,
xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một nội dung trung tâm, vấn đề then chốt trong
hoạt động và tổ chức của Đảng. Bản thân nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng tiền bối
và hiện nay, bên cạnh là lãnh tụ chính trị, đồng thời cũng là nhà lý luận, có nhiều
bài viết, tác phẩm về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.


12

Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là hai mặt của một quá trình. Xây dựng là việc
xác lập, hình thành đường lối, Cương lĩnh chính trị, các quy định, quy chế; làm
cho tư tưởng của cán bộ, đảng viên phù hợp, thống nhất cao và tin tưởng vào
đường lối, chủ trương của Đảng; là việc xây dựng tổ chức, cán bộ, phương thức
lãnh đạo,... Chỉnh đốn là việc uốn nắn, chấn chỉnh, sắp đặt lại cho đúng theo quy
định, Điều lệ Đảng; xử lý, đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực,... Xây dựng và chỉnh đốn Đảng liên quan mật
thiết với nhau, gắn liền với nhau, bổ trợ, tác động đến nhau. Trong xây dựng có

chỉnh đốn, trong chỉnh đốn có xây dựng.
Trong mỗi giai đoạn, thời kỳ, căn cứ vào đặc điểm, bối cảnh, yêu cầu của sự
nghiệp cách mạng, xây dựng và chỉnh đốn Đảng có nhiệm vụ trọng tâm khác
nhau. Nếu như trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, trong các cuộc kháng
chiến chống thực dân, đế quốc, xây dựng, chỉnh đốn Đảng tập trung chủ yếu vào
nhiệm vụ hoạch định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, đường lối kháng
chiến đúng đắn, sáng tạo; thống nhất tư tưởng và hành động, chống ngả nghiêng,
dao động trước khó khăn, khi đối mặt nguy cơ sinh tử, mất - còn; củng cố lòng tin,
nâng cao ý chí, tăng cường quyết tâm kháng chiến..., thì trong thời kỳ hịa bình
xây dựng đất nước, xây dựng, chỉnh đốn Đảng tập trung vào việc nâng cao năng
lực lãnh đạo, cầm quyền, bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ để Đảng đủ sức lãnh
đạo công cuộc đổi mới; đấu tranh chống sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực,... trong bộ máy Đảng và Nhà nước.
Hiện nay, công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế càng sâu rộng lại càng xuất hiện những vấn đề mới,
những khó khăn, thách thức địi hỏi Đảng phải ln tự đổi mới, tự chỉnh đốn để đủ
sức lãnh đạo cách mạng. Tinh thần tự đổi mới, tự chỉnh đốn đã được Đảng ta phát
huy cao độ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, trong cách mạng giải phóng
dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, trở thành truyền thống tốt đẹp của Đảng; nhờ đó, Đảng
khơng ngừng lớn mạnh, vượt qua mọi sóng gió, những bước ngoặt của lịch sử để
lãnh đạo cách mạng Việt Nam thành cơng. Trong thời kỳ hịa bình, xây dựng, phát
triển đất nước, truyền thống đó cần tiếp tục được phát huy lên một tầm cao mới,
với chất và lượng mới, trở thành ý thức thường trực trong mỗi cán bộ, đảng viên,
cấp ủy, tổ chức đảng để tạo thành nguồn sức mạnh to lớn giúp Đảng ta vượt qua
mọi khó khăn, thử thách tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên.
Thực tiễn sau khi đất nước thống nhất, bước vào công cuộc đổi mới cũng cho thấy,
việc kết hợp giữa xây dựng với chỉnh đốn Đảng còn một khoảng cách. Về lý luận,
trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng đã đề cập đến xây dựng, đổi mới và
chỉnh đốn Đảng. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện lại chưa chú ý đúng
mức, chưa chỉ đạo kiên quyết việc chỉnh đốn Đảng, chưa kịp thời uốn nắn, chấn

chỉnh, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm quy định, Điều lệ Đảng. Việc kết hợp giữa


13

xây dựng với chỉnh đốn chưa hài hòa, hiệu quả, chưa có tác dụng hỗ trợ, bổ sung
cho nhau. Đây là một trong những nguyên nhân lý giải vì sao từ khi đất nước
thống nhất, đặc biệt là bước vào cơng cuộc đổi mới, tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, quan liêu, “lợi ích
nhóm”,... diễn ra ngày càng nghiêm trọng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị khơng
từ một thủ đoạn nào nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và đất nước.
Chúng tìm đủ mọi cách để mưu toan phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, xuyên
tạc rằng, Đảng phạm nhiều sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo; đảng
cộng sản lãnh đạo mất dân chủ, cơng tác phịng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là cuộc “đấu đá nội bộ”, “phe này
cánh kia”, “nhẹ trên nặng dưới”; xuyên tạc cơng tác cán bộ, mưu toan hạ bệ hình
tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh, trắng trợn cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã lỗi
thời, không thể làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng,...
Tất cả những vấn đề lý luận và thực tiễn trên cho thấy, việc nhận thức đúng đắn,
đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng nói chung,
kết hợp xây dựng với chỉnh đốn Đảng nói riêng là hết sức quan trọng, cấp bách,
tạo cơ sở cho việc triển khai thực hiện một cách hài hịa, chặt chẽ, hiệu quả, có
trọng tâm, trọng điểm giữa “xây” và “chống”, “chống” và “xây” nhằm tiếp tục tạo
chuyển biến thực chất trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
2. Một số giải pháp xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay
2.1. Tăng cường xây dựng Ðảng về chính trị, hồn thiện đường lối đổi
mới và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện.
Cụ thể hóa, pháp luật hóa và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối chính

trị, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc, gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt
và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ðảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tiếp thu
tinh hoa văn hóa của nhân loại, tri thức mới của thời đại, nâng cao năng lực trí tuệ;
phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý luận,
kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt, sáng tạo về sách lược, phương
pháp; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc đổi mới vơ nguyên tắc, chủ quan, nóng
vội.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức để nhân dân tham gia xây
dựng đường lối, chủ trương, quyết sách quan trọng của Ðảng, Nhà nước. Coi trọng
nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương; tăng cường kiểm tra,
giám sát; thường xuyên bám sát và kịp thời tổng kết thực tiễn, phát hiện, ủng hộ


14

và nhân rộng những nhân tố mới, qua thực tiễn làm sáng tỏ những vấn đề mới, bổ
sung, hoàn thiện và phát triển đường lối.
Xúc tiến nghiên cứu bổ sung, phát triển Cương lĩnh của Ðảng phù hợp với yêu
cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
2.2. Tăng cường công tác tư tưởng; rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách
mạng.
2.2.1 Tăng cường công tác tư tưởng:
Chủ động hơn trong công tác tư tưởng. Nghiên cứu xây dựng chiến lược
cơng tác tư tưởng trong tình hình mới.
Ðổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của
Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu nhân
dân, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường giáo dục phẩm chất

đạo đức cách mạng trong toàn Ðảng, toàn dân, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Chăm
lo củng cố sự đồn kết, thống nhất và tình đồng chí trong Ðảng, sự đồng thuận
trong xã hội; thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và phê bình.
Cơng tác tư tưởng cần nâng cao tính chiến đấu và sức thuyết phục. Bám sát thực
tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và những vướng mắc trong tư tưởng của cán
bộ, đảng viên và nhân dân để giải đáp sát thực, kịp thời; đấu tranh khắc phục
những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, cơ hội, chạy theo lợi ích cá nhân; chủ động và
kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận điệu phản động,
góp phần làm thất bại mọi mưu toan "diễn biến hòa bình", bạo loạn, lật đổ của các
thế lực thù địch.
Tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
kịp thời làm sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; về Ðảng cầm quyền và công tác xây dựng Ðảng; về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về tổ chức
và hoạt động của Mặt trận và các đồn thể nhân dân... Chú trọng nâng cao tính
khoa học, tính thực tiễn và sự mạnh dạn khám phá, sáng tạo trong công tác nghiên
cứu khoa học, nghiên cứu lý luận. Sớm xây dựng và ban hành quy chế dân chủ
trong nghiên cứu lý luận.
Tiếp tục cụ thể hóa chiến lược phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu những thành tựu và tinh hoa văn hóa của nhân loại,
hồn thiện hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế; gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn phát triển kinh tế xã hội với phát triển văn hóa, làm cho văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần
của xã hội.


15

Ðổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giảng dạy và học tập lý
luận, công tác thông tin, tun truyền, cổ động, báo chí, xuất bản, văn hóa nghệ

thuật, nắm bắt và định hướng dư luận xã hội; tăng cường tuyên truyền đối ngoại,
đặc biệt là về những vấn đề chính trị nhạy cảm như dân tộc, tơn giáo, nhân
quyền... Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong
các cơ quan báo chí. Khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí,
xuất bản, văn hóa, văn nghệ, nhất là xa rời tơn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu
thấp kém, vì lợi ích vật chất cá nhân, cục bộ.
Kiện toàn tổ chức, nâng cao phẩm chất và năng lực đội ngũ cán bộ làm công
tác tư tưởng, lý luận, nhất là cán bộ chủ chốt, từng bước hiện đại hóa điều kiện,
phương tiện cơng tác tư tưởng - văn hóa.
2.2.2 Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân:
Ðặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ,
đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lịng vì
nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng.
Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trước Ðảng và nhân
dân, thật sự tiên phong, gương mẫu, đi đầu trong mọi công việc; xử lý hài hịa các
lợi ích, đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết. Tạo điều kiện để đảng
viên cơng tác, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, bảo đảm đời sống và
đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Học tập, quán triệt, làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Ðổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt đảng bộ, chi bộ; thường
xuyên lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên.
Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật nghiêm những cán bộ, đảng viên vi
phạm những quy định về trách nhiệm, phẩm chất, đạo đức, lối sống.
2.3. Ðẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Ðấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm
của cơng tác xây dựng Ðảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của cả hệ thống
chính trị và tồn xã hội. Các cấp ủy và tổ chức đảng phải nhận thức sâu sắc tính
cấp thiết, lâu dài, phức tạp và khó khăn của cuộc đấu tranh phịng, chống tham
nhũng, lãng phí; có quyết tâm chính trị cao, đấu tranh kiên quyết, kiên trì, liên tục,

có hiệu quả từ Trung ương đến cơ sở, trong Ðảng, Nhà nước và tồn xã hội; có hệ
thống giải pháp đồng bộ, cụ thể và có hiệu lực về tuyên truyền, giáo dục và hành
chính, về kinh tế, tài chính và pháp luật, về thanh tra, kiểm tra và giám sát, về chế
độ chính sách đãi ngộ và kỷ luật Ðảng; sử dụng sức mạnh tổng hợp của tổ chức
Ðảng, bộ máy nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể, nhân dân và các phương tiện
thông tin đại chúng.


16

Các cấp ủy và tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo
cấp cao phải thực sự tiên phong, gương mẫu đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
lãng phí.
Ðẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, bổ sung thêm những yêu cầu, biện pháp
mới phù hợp, đưa cuộc vận động đi vào chiều sâu.
Coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, tự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng
viên; công tác quản lý cán bộ, đảng viên của tổ chức đảng; đẩy mạnh đấu tranh tự
phê bình và phê bình, mở rộng dân chủ, công khai. Biểu dương và nhân rộng
những tấm gương cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư.
Hồn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, nhất là về kinh tế, tài chính; về cơ chế,
giải pháp phịng ngừa; cơ chế giám sát, phản biện của Mặt trận và các đồn thể
nhân dân. Ðẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước. Xác định rõ chế độ trách
nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu trong đấu tranh phịng,
chống tham nhũng, lãng phí.
Tăng cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy công tác
kiểm tra và kỷ luật của Ðảng; củng cố, kiện toàn, nâng cao hiệu lực của hệ thống
thanh tra các cấp, các cơ quan bảo vệ pháp luật và sự phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan có liên quan.
Xây dựng hệ thống chính sách phân phối thu nhập xã hội và chế độ đãi ngộ

công bằng, hợp lý bảo đảm đời sống của cán bộ, cơng chức. Cơng khai hóa các
chế độ, chính sách để cán bộ, đảng viên và nhân dân giám sát, kiểm tra.
Xây dựng thiết chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia
giám sát, phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
Xử lý kịp thời, nghiêm minh, cơng khai theo kỷ luật Ðảng và pháp luật của
Nhà nước đối với những cán bộ, công chức tham nhũng, bao che cho tham nhũng,
gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của nhân dân, dù người đó ở chức vụ nào,
đương chức hay đã nghỉ hưu. Tịch thu tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng.
Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị phải lãnh đạo chặt chẽ
cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, không để những phần tử xấu,
các thế lực thù địch lợi dụng cuộc đấu tranh này kích động, gây rối.
Thành lập các ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng trung ương và địa
phương đủ mạnh, có thực quyền, hoạt động có hiệu quả. Ðẩy mạnh hợp tác quốc
tế về phịng, chống tham nhũng.
2.4. Ðởi mới, kiện tồn tở chức, bộ máy của Ðảng và của hệ thống chính
trị.
Tiếp tục hồn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ
và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Ðảng. Hồn thiện quy chế, quy trình về
cơng tác tổ chức bảo đảm mở rộng và phát huy dân chủ trong Ðảng.


17

Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Ðảng và của cả hệ thống
chính trị; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành,
lề lối làm việc.
Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Ðảng ở Trung ương và các
địa phương, gắn với kiện toàn tổ chức, tinh giản biên chế của cơ quan nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 khóa
VIII, bảo đảm tinh gọn, hoạt động thiết thực, hiệu quả, phù hợp với điều kiện một

đảng cầm quyền. Tổ chức cơ quan tham mưu chuyên trách của Ðảng tinh gọn, có
chất lượng cao đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ,
đảng viên, hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân.
Cải tiến lề lối làm việc, nâng cao chất lượng nghiên cứu, đề xuất, tham mưu,
hướng dẫn, kiểm tra của các cơ quan tham mưu của Ðảng các cấp. Tăng cường sự
phối hợp giữa các ban cán sự đảng, đảng đoàn với cấp ủy địa phương.
Tổng kết về tổ chức và hoạt động của ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy khối
cả về lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị
sẽ xem xét, quyết định về mơ hình và phương thức hoạt động của các tổ chức này.
Sắp xếp, củng cố tổ chức cơ sở đảng phù hợp với mơ hình sản xuất kinh doanh
mới ở các tổng công ty, các loại hình doanh nghiệp; bảo đảm hiệu quả lãnh đạo
của tổ chức đảng.
Tiếp tục kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt
động của Quốc hội, của Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội, nâng cao
chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên
trách, thực hiện tốt hơn các chức năng lập pháp, giám sát tối cao và quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước.
Kiện tồn tổ chức, bộ máy của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực,
hiệu quả, xây dựng bộ đa ngành, đa lĩnh vực, tập trung làm nhiệm vụ quản lý nhà
nước, bỏ chế độ chủ quản đối với doanh nghiệp. Xây dựng nền hành chính nhà
nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại. Tiếp tục đẩy mạnh cải
cách hành chính, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của tất cả các tổ chức trong hệ
thống chính trị.
Tiếp tục thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Kiện toàn các cơ
quan tư pháp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả, gọn đầu mối,
lấy cải cách tổ chức và hoạt động xét xử làm trung tâm.
Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
các cấp, bảo đảm thực hiện đúng thẩm quyền và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi

được phân cấp. Sắp xếp tổ chức, bộ máy Mặt trận và các đoàn thể nhân dân theo
hướng tinh gọn ở cấp Trung ương, tỉnh, huyện. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương


18

thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phù hợp với chức năng, tơn
chỉ, mục đích hoạt động của từng tổ chức; hướng về cơ sở; khắc phục tình trạng
hành chính hóa, xa dân, phơ trương, hình thức.
2.5. Tiếp tục đởi mới cơng tác cán bộ, cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ.
2.5.1 Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ:
Mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có đạo đức, lối sống lành mạnh, khơng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên quyết
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có
kiến thức chun mơn, nghiệp vụ đáp ứng u cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa; có tinh thần đồn kết, hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật
cao và phong cách làm việc khoa học, tơn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Ðội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có tính kế
thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý.
Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là
cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành của
hệ thống chính trị. Ðây là nhiệm vụ của toàn Ðảng, toàn dân, trước hết là của Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, cần có kế hoạch chu đáo, giải pháp đồng bộ,
cụ thể, có hiệu lực để thực hiện. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ nữ,
cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, con em những gia đình có
cơng với cách mạng.
Qn triệt và thực hiện đúng nguyên tắc Ðảng thống nhất lãnh đạo công tác
cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời đề cao trách nhiệm của các tổ chức
trong hệ thống chính trị và người đứng đầu tổ chức. Cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm
quyền phải chủ trì và chịu trách nhiệm về công tác tổ chức cán bộ theo đúng

nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định; xác định rõ trách nhiệm của tập
thể và trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong cơng tác
cán bộ. Có chính sách, quy chế tơn vinh những người có cơng; bố trí, sử dụng
đúng những người có năng lực, hết lịng vì dân, vì nước; khuyến khích những
người năng động, sáng tạo, có sáng kiến, có ý tưởng mới.
Mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai, minh bạch trong công
tác cán bộ. Các cấp ủy cần coi trọng việc đánh giá cán bộ; căn cứ vào tiêu chuẩn,
sự tín nhiệm, xem xét giới thiệu để bầu cử hoặc bổ nhiệm những người thực sự có
đức, có tài, có tâm huyết với đất nước vào các chức vụ trong cơ quan nhà nước các
cấp, khơng phân biệt người ngồi Ðảng hay trong Ðảng; khắc phục những biểu
hiện cá nhân, cục bộ, thiếu dân chủ, không công tâm, nể nang, tuỳ tiện trong công
tác cán bộ.
Ðổi mới và hoàn thiện chế độ bầu cử, thực hiện bầu cử có số dư, mở rộng
quyền tiến cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự trong bầu cử và bổ
nhiệm cán bộ. Thực hiện tốt các cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, quản


19

lý, giám sát cán bộ sau bầu cử, bổ nhiệm; các quy định về quyền hạn, trách nhiệm
của người đứng đầu, của các thành viên trong tập thể lãnh đạo, của cơ quan sử
dụng cán bộ và cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ. Ðổi mới và thực hiện tốt
chế độ bỏ phiếu tín nhiệm, cho từ chức, thôi chức, miễn chức và cách chức đối với
những cán bộ phạm khuyết điểm hoặc khơng hồn thành nhiệm vụ; thực hiện cơ
chế đảng viên và nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ. Mở rộng
phân cấp quản lý đi đôi với tăng cường kiểm tra công tác cán bộ.
Ðổi mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán
bộ. Ðánh giá cán bộ phải cơng khai, minh bạch, khách quan, tồn diện và cơng
tâm, lấy hiệu quả hồn thành nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng

lực cán bộ. Ðánh giá cán bộ lãnh đạo phải căn cứ vào hiệu quả cơng tác, khả năng
đồn kết, quy tụ, phát huy sức mạnh của tập thể, tạo ra sự tiến bộ và kết quả cụ thể
trong ngành, lĩnh vực, địa phương, đơn vị mình phụ trách; khơng tham nhũng,
lãng phí, quan liêu và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Không bổ
nhiệm, đề bạt những người không đủ phẩm chất và năng lực; khoan dung những
người thành thật nhận và sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Tiếp tục cải cách chế độ
tiền lương; thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ
tiền khởi nghĩa, cán bộ hưu trí.
Xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút
nhân tài vào những lĩnh vực quan trọng, không phân biệt người trong Ðảng hay
ngoài Ðảng. Tăng cường nguồn đầu tư của Nhà nước và toàn xã hội vào phát hiện,
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, trước hết trên ba lĩnh vực: lãnh đạo - quản
lý, sản xuất - kinh doanh và khoa học - cơng nghệ; có chính sách phát triển nhân
tài trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và các lĩnh vực khác; tiếp tục thực hiện chủ
trương, chính sách khuyến khích đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và
triển vọng đi đào tạo ở nước ngồi, làm tốt cơng tác quản lý, giáo dục và sử dụng
sau đào tạo; thu hút, sử dụng tốt tài năng người Việt Nam định cư ở nước ngoài và
chuyên gia giỏi ở nước ngoài.
Ban Chấp hành Trung ương cần có hội nghị chun đề bàn về cơng tác xây
dựng Ðảng, về cán bộ và công tác cán bộ trong thời kỳ mới.
2.5.2 Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ:
Hết sức chú trọng cơng tác bảo vệ Ðảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Bảo vệ chính trị nội bộ là trách nhiệm của toàn Ðảng, trước hết là của các cấp ủy
đảng. Bảo vệ chính trị nội bộ phải trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Ðảng, bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất trong Ðảng, bảo vệ cán bộ,
đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành, trung thực với Ðảng, khơng
giấu giếm, khai man lịch sử chính trị bản thân và gia đình. Các cấp ủy, tổ chức



20

đảng, nhất là cấp cơ sở phải nắm chắc và quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên cả về
phẩm chất chính trị và đạo đức lối sống. Coi trọng việc nắm chắc tình hình cán bộ,
nhất là những vấn đề chính trị hiện hành. Kiên quyết đấu tranh chống những biểu
hiện lệch lạc, trái với đường lối, quan điểm, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; dựa vào nhân dân, đề cao cảnh giác,
đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại nội bộ Ðảng.
Củng cố, kiện toàn cơ quan tham mưu của Ðảng về cơng tác bảo vệ chính
trị nội bộ, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, tăng cường cán bộ có chất lượng, xây dựng
quy chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan bảo vệ chính trị nội bộ với các cơ quan
liên quan.
Tổng kết việc thực hiện Quy định 75-QÐ/TW, bổ sung, sửa đổi cho phù hợp
với thực tiễn.
2.6. Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng; nâng cao chất lượng đảng
viên
2.6.1 Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng:
Với vị trí là nền tảng của Ðảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, vai trị của tổ
chức cơ sở đảng rất quan trọng. Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức này thực sự trong
sạch, vững mạnh; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý, giám sát
đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức, lối sống; đấu
tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong Ðảng. Phải đổi mới mạnh mẽ công tác
xây dựng cơ sở, lấy chuyển biến từ cơ sở làm mục tiêu và thước đo kết quả tổng
hợp của công tác xây dựng Ðảng, cần thực hiện tốt những chủ trương đã đề ra,
trọng tâm là:
Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt các quy định về chức năng, nhiệm vụ,
phương thức hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng, chú trọng các loại
hình mới như tổ chức cơ sở đảng trong các công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương

pháp để đánh giá đúng chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên.
Thực hiện tốt nguyên tắc dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng từ cơ sở. Có
cơ chế để nhân dân tham gia ý kiến vào việc xây dựng các nghị quyết của đảng bộ,
chi bộ, các quyết định của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở trực tiếp liên quan đến
quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân; vào việc bố trí cán bộ chủ chốt của hệ thống
chính trị cơ sở; để nhân dân tham gia giám sát tổ chức đảng, chính quyền và cán
bộ, đảng viên. Tổ chức đảng, đảng viên phải giữ mối liên hệ mật thiết với nhân
dân ở nơi công tác và nơi cư trú.
Thực hiện đồng bộ các biện pháp củng cố tổ chức cơ sở đảng, chú trọng
những địa bàn xung yếu, vùng sâu, vùng xa, ở các đảng bộ, chi bộ yếu kém; nâng
cao tính chiến đấu, tính giáo dục, đề cao tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt


21

đảng; kiện tồn đội ngũ cấp ủy, bí thư chi bộ; bồi dưỡng, tạo nguồn, thực hiện việc
tiêu chuẩn hóa cán bộ, công chức cơ sở; đề cao trách nhiệm quản lý, kiểm tra,
giám sát đảng viên của chi bộ. Ðảng viên có cương vị càng cao càng phải gương
mẫu chấp hành sự quản lý của chi bộ.
Kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các trường chính trị
tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện và các trường dân tộc nội trú để
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở cơ sở.
2.6.2 Nâng cao chất lượng đảng viên:
Cần nhấn mạnh các yêu cầu sau đây đối với đảng viên:
Về tư tưởng chính trị, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của
Ðảng, của dân tộc, tích cực thực hiện đường lối đổi mới của Ðảng, hồn thành tốt
nhiệm vụ chính trị được giao. Có bản lĩnh chính trị vững vàng, khơng dao động
trước những khó khăn, thách thức. Có ý thức giữ vững và nêu cao vai trò lãnh đạo
của Ðảng. Về trình độ năng lực, có hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Ðảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước; có trình độ chun mơn, nghiệp vụ để đủ sức hồn thành tốt nhiệm vụ.
Có năng lực vận động và lãnh đạo quần chúng tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Ðảng.
Về phẩm chất, đạo đức, lối sống, có tinh thần trách nhiệm cao, gương mẫu,
đi đầu trong cơng tác; xử lý hài hịa các lợi ích, đặt lợi ích của Ðảng, của Tổ quốc
lên trên hết. Liên hệ mật thiết với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ quyền làm chủ
của nhân dân. Có lối sống trong sạch, lành mạnh, có kỷ cương, kỷ luật. Khơng
quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh phịng, chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác.
Chú trọng và tăng cường công tác phát triển Ðảng, sớm khắc phục tình
trạng một số cơ sở, địa bàn chưa có đảng viên, tổ chức đảng. Việc kết nạp đảng
viên phải coi trọng chất lượng, tiêu chuẩn, đặc biệt tiêu chuẩn giác ngộ lý tưởng
của Ðảng, đạo đức lối sống, năng lực hoàn thành nhiệm vụ; trọng tâm phát triển
hướng vào thế hệ trẻ, cơng nhân, nơng dân, trí thức, qn nhân, cán bộ, con em
các gia đình có công với cách mạng. Coi trọng giáo dục, rèn luyện đảng viên dự
bị, đảng viên trẻ.
Thường xuyên sàng lọc đảng viên, kiên quyết đưa những người không đủ
tiêu chuẩn ra khỏi Ðảng bằng các hình thức thích hợp. Khai trừ những đảng viên
thối hóa về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
cố tình vi phạm kỷ luật Ðảng và pháp luật của Nhà nước. Vận động ra Ðảng hoặc
xóa tên khỏi danh sách đảng viên đối với những đảng viên phai nhạt lý tưởng,
giảm sút ý chí phấn đấu, khơng làm trịn nhiệm vụ đảng viên, đã được tổ chức
đảng giúp đỡ mà không tiến bộ.


22

Ðảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính
sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Ðiều lệ Ðảng và quy định của Ban
Chấp hành Trung ương.

2.7. Ðổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát với nhận thức và yêu cầu mới: công
tác kiểm tra, giám sát phải góp phần phát hiện và khắc phục được những khuyết
điểm, thiếu sót khi mới manh nha; bên cạnh việc tiếp tục thực hiện kiểm tra tổ
chức và cá nhân đảng viên có dấu hiệu vi phạm, phải tăng cường chủ động giám
sát, kiểm tra về phẩm chất đạo đức và kết quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên, về nhận thức và chấp hành đường lối, chủ trương của
Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và việc chấp hành Ðiều lệ Ðảng. Coi
trọng kiểm tra, phát hiện nhân tố tích cực.
Bổ sung chức năng giám sát, tăng thẩm quyền và trách nhiệm xem xét kỷ
luật của cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp. Uỷ ban kiểm tra các cấp có quyền yêu
cầu các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên giải trình về các vấn đề thuộc thẩm
quyền và trách nhiệm kiểm tra, giám sát được giao.
Kiện toàn hệ thống ủy ban kiểm tra các cấp, hoàn thiện quy chế phối hợp
giữa ủy ban kiểm tra đảng với các tổ chức đảng và các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong việc xem xét khiếu nại, tố cáo và xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên.
Xây dựng quy chế tiếp nhận, xử lý ý kiến của Mặt trận, các đoàn thể và của
nhân dân nhận xét, phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.
Kiện tồn tổ chức, tăng cường cán bộ có chất lượng, cải thiện điều kiện,
phương tiện làm việc của ủy ban kiểm tra các cấp.
2.8. Xây dựng và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Ðảng với nhân
dân
Phải quán triệt và thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những
quan điểm của Ðảng về mối quan hệ giữa Ðảng với nhân dân: thực hiện đại đoàn
kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân
và đội ngũ trí thức; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để
xây dựng Ðảng; Ðảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý là để bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân. Cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là công bộc của nhân
dân. Hoạt động của Ðảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát của nhân dân. Sự tin
tưởng, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân là cội nguồn của sức mạnh, là cái gốc của

thắng lợi, là tài sản quý báu của Ðảng.
Ðẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, hồn thiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Ðảng cho phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước; kết hợp hài
hòa sự phát triển kinh tế với bảo đảm sự tiến bộ và công bằng xã hội trên phạm vi
cả nước cũng như ở từng lĩnh vực, từng địa phương, từng chính sách phát triển.


×