Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

CHUYÊN sâu đoạn THƠ 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.75 KB, 121 trang )

MỤC LỤC

STT
1.
2.
3.
4.
5.

Tên bài học
Số đoạn thơ
Tây Tiến……………………………...………….…………(03 đoạn)
Việt Bắc……………………………………………………(06 đoạn)
Đất nước………………………...…………………………(06 đoạn)
Sóng…………...…………………………….………… …(04 đoạn)
Đàn ghi ta của Lorca…………………………………………………….

TÂY TIẾN
-Quang DũngA. MỞ BÀI CHUNG
1

Trang
2
21
58
91
110


“Quy luật của văn học là quy luật của cái đẹp” và “quy luật của cái đẹp là quy
luật của tình cảm”. Vậy tình cảm chứ khơng phải bất kỳ yếu tố gì khác mới là ngọn


nguồn sâu xa của cái đẹp. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đính thực phải hướng con người tới
cái đẹp bằng tình cảm của người nghệ sĩ. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng là một
minh chứng sáng giá cho quan niệm đó. Quang Dũng là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn,
làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc. Nhưng trước hết ơng là một nhà thơ mang hồn thơ
phóng khống, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, đặc biệt là khi ơng viết về người lính Tây
Tiến và xứ Đồi q mình. Có lẽ trong suốt cả đời của người nghệ sĩ tài hoa ấy những
năm tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến là quãng thời gian đáng nhớ nhất, để lại
những dấu ấn và tình cảm sâu đậm nhất. Và bao nhiêu kỉ niệm sâu sắc ấy đã được nhà thơ
lưu giữ lại với thời gian trong một thi phẩm xuất sắc, được đánh giá là một trong những
bài thơ hay nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp: “Tây Tiến” - bài thơ mang chứa gần
như trọn vẹn những gì là đặc trưng nhất của hồn thơ Quang Dũng.
B. PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ
Đoạn số 1:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.88)


I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
2


1.1. Hoàn cảnh sáng tác
- Giới thiệu đoàn binh Tây Tiến:
+ Tây Tiến là phiên hiệu một đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 (Đây là giai đoạn
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, theo tiếng gọi của Đảng, nhiều học sinh - sinh
viên đã lên đường tham gia kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”).
+ Nhiệm vụ: Phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch và bảo vệ biên
giới Việt - Lào.
+ Địa bàn hoạt động: Rộng. Bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hịa Bình, miền
Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa - Thượng Lào.
+ Thành phần: Phần đông là thanh niên Hà Nội (nhiều sinh viên, học sinh).
+ Điều kiện sống và chiến đấu: Gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật.
+ Tinh thần: Hào hùng, lãng mạn, lạc quan, yêu đời.
+ Đoàn binh Tây Tiến sau một thời gian hoạt động trở về Hịa Bình, thành lập
trung đồn 52.
- Hoàn cảnh sáng tác cụ thể : Hiện thực đời sống luôn là nguồn cảm hứng vô tận
sáng tạo nên văn chương, người nghệ sĩ phải đứng vững trên mảnh đất đời sống, lấy
đó làm điểm tựa, điểm xuất phát thì mới mong tạo ra được thứ gì đó để đời. Quang
Dũng là là người lính, là một Đại đội trưởng trong đồn binh Tây Tiến và ơng đã bám vào
hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ, của những kỉ niệm mà đời lính khơng thể qn,
chắp cánh cảm xúc để cho ra đời tác phẩm để đời. Cuối năm 1948, Quang Dũng phải
chuyển đơn vị khác. Rời xa đoàn binh Tây Tiến chưa được bao lâu, khi kỉ niệm về Tây

Tiến và hơi ấm đồng đội hầu như vẫn còn nguyên vẹn, tại Phù Lưu Chanh - một làng nhỏ
bên bờ sơng Đáy hiền hịa, ơng nhớ về đơn vị cũ nên viết bài thơ này.
1.2. Xuất xứ và nhan đề:
Nhan đề ban đầu của bài thơ là "Nhớ Tây Tiến" sau đổi thành "Tây Tiến" => Giúp
cho tâm tư tình cảm của tác giả được bộc lộ kín đáo hơn.
Bài thơ được in trong tập thơ “Mây đầu ơ” (1986).
1.3. Nội dung chính của bài thơ:
Cả bài thơ là nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng về một thời Tây Tiến. Với tình cảm
sâu nặng, cảm hứng vừa hiện thực vừa lãng mạn và ngòi bút tài hoa, nhà thơ đã khắc họa
bức tranh thiên nhiên Tây Tiến vừa hoang vu, dữ dội, hiểm trở vừa thơ mộng, duyên
dáng, mĩ lệ. Trên cái nền thiên nhiên ấy là hình tượng những người lính Tây Tiến mang
vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng, vừa dũng cảm, can trường vừa lãng mạn, hào hoa.
2. Phân tích đoạn thơ: Bức tranh thiên nhiên miền Tây hoang vu, dữ dội, hiểm trở
và chặng đường hành quân vất vả, gian khổ của những người lính Tây Tiến
2.1. Hai câu thơ đầu:
Hai câu thơ đầu thể hiện chủ đề và cảm xúc chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ bao
trùm không gian, thời gian:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
3


- Bài thơ được bắt đầu bằng tên địa danh Sơng Mã ở Thanh Hóa, con sơng chảy
dọc từ thượng Lào về đất Việt và nằm trong địa bàn hoạt động của những người lính Tây
Tiến. Ngồi câu thơ mở đầu, hình ảnh con sơng Mã cịn được nhắc một lần nữa trong bài
thơ "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" cho thấy con sơng khơng cịn là vật vơ tri vô giác
mà trở thành một chứng nhân lịch sử, chứng kiến biết bao vui buồn trong cuộc đời người
chiến binh và chính dịng sơng ấy, khi có một người lính ngã xuống đã gầm lên khúc nhạc
ai ốn, não nùng. Sơng Mã vì thế trở thành một trong những biểu tượng về một thời Tây
Tiến.

- "Sông Mã xa rồi", một thời Tây Tiến đã xa rồi, đã trở thành quá khứ, trở thành
những kỉ niệm không thể nào quên. Xa rồi mà vẫn nhớ, nhớ Tây Tiến, “nhớ về rừng núi”
Tây Bắc là địa bàn hoạt động của Tây Tiến với bao gian nguy, hiểm họa nhưng cũng thật
trữ tình, lãng mạn, nhớ đồng đội thân yêu nên nỗi nhớ ấy được bật lên thành tiếng gọi tha
thiết như gọi người thân “Tây Tiến ơi”.
- Nỗi nhớ trở thành cảm xúc chủ đạo thể hiện rõ qua điệp từ "nhớ" được lặp lại hai
lần trong một câu thơ thể hiện một nỗi nhớ trào dâng, da diết. Tất cả kỷ niệm giờ lại đang
trở về trong cảm xúc nhớ thương đến mức tác giả khơng kìm nén được. Cụm từ “nhớ
chơi vơi” càng thể hiện rõ hơn nỗi nhớ. Thơ ca Việt Nam nói về nỗi nhớ cũng nhiều, và
mỗi nhà văn, nhà thơ thể hiện một nỗi nhớ khác nhau. Ca dao có câu thơ về nỗi nhớ
người yêu:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
Tố Hữu viết về nỗi nhớ của người cán bộ cách mạng miền xuôi với thiên nhiên và
con người Việt Bắc:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”
Nhưng Quang Dũng trong bài thơ này đã diễn tả nỗi nhớ một cách đầy mới lạ "nhớ
chơi vơi”. Chơi vơi là trạng thái chông chênh giữa khoảng khơng rộng, khơng thể bấu víu
vào đâu cả nên "nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hồi niệm mênh
mơng, bề bộn, khơng đầu, không cuối và dường như nỗi nhớ đã nhấc bổng nhà thơ lên
chơi vơi giữa không gian và thời gian. Việc láy lại vần "ơi" giữa chữ "ơi" cuối câu thơ
thứ nhất với từ láy "chơi vơi" ở cuối câu thơ thứ hai tạo âm hưởng ngân dài, sâu lắng, gợi
nỗi nhớ từ lòng người vọng vào thời gian, năm tháng.
2.2. Hai câu 3,4:
Hai câu thơ tiếp theo miêu tả những cuộc hành quân trong đêm sương. miêu tả vẻ
đẹp mờ ảo của núi rừng Tây Tiến mà những người lính Tây Tiến cảm nhận được trên
đường hành quân:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Với những nét vẽ vừa tài hoa vừa chân thực hai câu thơ làm hiện lên bức tranh
thiên nhiên miền Tây heo hút, hùng vĩ, hiểm trở mà thơ mộng. Đó là những đêm sương
mờ ảo, bồng bềnh ở Sài Khao, Mường Lát mà không chỉ là màu sương của thiên nhiên
che mất tầm mắt mà còn là màu sương mờ ảo của kí ức, hồi niệm.
4


+ Ở Sài Khao: Sương giăng mắc, bao phủ, che lấp tất cả là một nét vẽ vừa lãng
mạn huyền ảo vừa hiện thực. Đoàn quân Tây Tiến đi trong sương mù dày đặc của núi
rừng, hình ảnh họ như chìm đi, ẩn hiện trong lớp sương huyền ảo.Vế sau của câu thơ chỉ
sử dụng bút pháp hiện thực khi miêu tả đoàn quân dãi dầu, mệt mỏi hiện ra sau màn
sương. Đây là một chi tiết thể hiện rõ sự vất vả, gian khổ của những người lính Tây Tiến
trên chặng đường hành quân giữa cái khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu miền Tây.
+ Ở Mường Lát: Nếu như câu thơ trên nhà thơ đặc tả hoàn cảnh khắc nghiệt của
thời tiết thì câu này lại phác họa vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên và tâm hồn người lính:
"Đêm hơi" là cách sử dụng ngơn từ sáng tạo, mới mẻ chỉ một đêm sương bồng bềnh,
huyền ảo. Quang Dũng quả thật tài tình trong việc sử dụng từ ngữ khi người ta nói hoa nở
thì nhà thơ lại nói “hoa về”. Hoa về có thể chỉ những bơng hoa rừng mà những người lính
bắt gặp trong đêm hành qn, có thể chỉ những ngọn đuốc như những bơng hoa lung linh,
lộng lẫy, soi sáng đường hành quân nhưng cũng có thể đó là hình ảnh các cơ gái dân tộc
hoặc những nữ chiến sĩ quân y xinh đẹp mà người lính bất chợt bắt gặp trong đêm sương
bồng bềnh khiến cảm xúc dâng trào. Có thể thấy người lính hành quân trong gian khổ
nhưng tâm hồn lúc nào cũng luôn lạc quan, yêu đời làm bạn với hoa rừng, sương núi.
=> Hai câu thơ như hai nét vẽ tương phản thể hiện hai cực điểm nổi bật của mảnh
đất miền Tây khắc nghiệt thật đấy nhưng thơ mộng đẹp đẽ vơ cùng. Và có lẽ những người
lính Tây Tiến hẳn phải tinh tế, lãng m
ạn lắm mới có thể cảm nhận được vẻ đẹp của núi rừng nơi đây. Những khó khăn của hồn
cảnh sống khơng làm mất đi ở họ thế giới tâm hồn phong phú.
2.3. Câu thơ 5,6,7,8:
Những câu thơ tiếp theo của đoạn thơ gợi tả bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang

vu, dữ dội với dốc cao vực sâu và chặng đường hành quân vất vả của những người lính
Tây Tiến:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
- Bằng những nét vẽ gân guốc, mạnh bạo, bút pháp tả thực nhà thơ Quang Dũng
đã vẽ lên bức trạnh thiên nhiên Tây Tiến hoang vu, dữ dội, hiểm trở với dốc cao, vực sâu.
Những dốc núi miền Tây chập chùng, cao ngàn thước mà sâu cũng ngàn thước, dốc lên
heo hút, dốc xuống thăm thẳm, lên cao thì cao tít tắp mà xuống thì khiến người ta chóng
mặt vì một bên là dốc cao thẳng đứng một bên là vực thẳm không giới hạn, dốc núi lại gồ
ghề, khúc khuỷu. Điệp từ "dốc" cho thấy thiên nhiên không cịn là đối tượng để thưởng
thức ngắm nhìn nữa mà là đối thủ, là sự thử thách hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên
cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt.
- Các biện pháp nghệ thuật khác như sử dụng các từ láy tạo hình khúc khuỷu, thăm
thẳm, heo hút; sử dụng nhiều thanh trắc “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” câu thơ có
7 chữ mà đã có tới 5 chữ là thanh trắc, có câu thơ gãy làm đôi "ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống" và nghệ thuật đối lập đã nhấn mạnh chiều cao, độ sâu, sự gồ ghề, khúc
khuỷu của dốc núi.
5


- Bức tranh thiên nhiên đã gợi lên cả chặng đường hành quân đầy vất vả, gian khổ
của những người lính Tây Tiến. Trên chặng đường hành quân họ phải trèo đèo, vượt suối
băng rừng, phải vượt qua những đỉnh núi cao đến chạm trời, phải hành quân trong sương
mù dày đặc, trong những trận mưa rừng. Đặc biệt, phép nhân hóa “súng ngửi trời” làm
hiện lên hình ảnh núi cao heo hút, trên chặng đường hành quân những người lính phải
vượt qua những đỉnh núi cao đến chạm trời. Đây là cịn là cách nói dí dỏm, đầy chất lính
cho thấy những người lính trẻ giữa khó khăn, gian khổ vẫn tinh nghịch, hồn nhiên, yêu
đời. Ý thơ cũng làm hiện nổi bật tầm cao kì vĩ của người lính cách mạng, làm chủ cả non

sơng đất nước của mình. Tư thế làm chủ ấy cũng được Tố Hữu thể hiện:
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá nguỵ trang reo với gió đèo
hoặc giống với ý của một câu ca dao trong kháng chiến:
“Đèo cao thì mặc đèo cao
Ta trèo lên đỉnh ta cao hơn đèo”
- Thiên nhiên Tây Bắc bên cạnh cái hoang vu, hùng vĩ, hiểm trở có những nét vẽ
đầy thơ mộng trữ tình như câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được sử
dụng toàn thanh bằng, nhịp thơ cũng chậm lại, âm điệu nhẹ nhàng diễn tả phút nghỉ chân
hiếm hoi của người lính. Giữa lưng chừng dốc núi trên đường hành qn, những người
lính phóng tầm mắt ra xa để thấy những ngôi nhà, bản làng của người dân tộc thấp
thoáng, bồng bềnh sau màn mưa. Câu thơ là một nét vẽ mềm mại giữa những nét vẽ gân
guốc, giống như việc sử dụng gam màu trong hội họa, giữa gam màu nóng tác giả sử
dụng gam màu lạnh, làm dịu lại và tạo sự cân đối, hài hòa cho bài thơ.
2.4. Câu thơ 9,10:
Trên chặng đường hành quân chiến đấu những vất vả, gian khổ, hi sinh của những
người lính Tây Tiến được tái hiện đậm nét:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Bằng bút pháp tả thực, nhà thơ Quang Dũng đã không ngại ngần khi nói đến những
vất vả, gian khổ thậm chí là hi sinh của những người lính Tây Tiến. Từ trước đến nay hai
câu thơ vẫn tồn tại hai cách hiểu:
+ Miêu tả một giấc ngủ: Một khoảnh khắc nghỉ ngơi của người lính. Sau chặng
đường hành quân dốc tiếp dốc, vực tiếp vực, sự dãi dầu nắng gió, mệt mỏi khiến cho
những người lính chỉ cần gục trên súng mũ, trong một tư thế không thoải mái mà vẫn có
thể ngủ một giấc say sưa như chết.
+ Miêu tả sự hi sinh: Có thể vì dãi dầu nhiều nắng mưa, sương gió, vì căn bệnh sốt
rét mà người lính Tây Tiến mệt mỏi đến kiệt sức, khơng thể bước tiếp, ngã xuống một
cách thanh thản, nhẹ nhàng. Anh gục xuống khi đang hành quân, súng mũ vẫn bên mình,
vẫn nghiêm trang trong hàng ngũ. Nghệ thuật nói giảm "khơng bước nữa", "bỏ qn đời"

thể hiện người lính hi sinh chỉ như đang chìm vào giấc ngủ sau khi hồn thành nhiệm vụ
của mình, giống như người nơng dân:
6


Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
Lòng khoẻ nhẹ anh dân quê sung sướng
Ngửa mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành
Tư thế hi sinh của anh vệ quốc quân chống Pháp đang trên đường hành quân trong
bài thơ gợi chúng ta liên tưởng đến tư thế hi sinh của anh giải phóng quân chống Mĩ
trong bài thơ "Dáng đứng Việt Nam" của Lê Anh Xuân:
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng anh gượng đứng lên
Tì súng trên xác trực thăng
Và anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
Những sự hi sinh ấy đều là của những con người bình dị mà anh hùng. Chính họ đã
góp phần hóa thân thành Đất nước và làm nên truyền thống yêu nước, kiên cường bất
khuất chống giặc ngoại xâm:
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Khơng ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm nên đất nước
2.5. Câu thơ 11,12:
Tiếp đó là bức tranh thiên nhiên Tây Tiến hoang vu, dữ dội và đầy bí hiểm:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
- Các từ láy "Chiều chiều", "đêm đêm" chỉ quãng thời gian lặp đi lặp lại. Những

âm thanh “thác gầm thét” và hình ảnh “cọp trêu người” là sự khẳng định cái bí mật, cái
uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng từng được nhà thơ Thế Lữ miêu tả
trong "Nhớ rừng":
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Thì ở đây được Quang Dũng miêu tả:
+ Vào các buổi chiều tiếng nước thác gầm thét. Chỉ một câu thơ ngắn mà gợi ra
những âm thanh dữ dội chẳng kém gì tiếng nước thác Sơng Đà trong "Người lái đị Sơng
Đà" của Nguyễn Tuân. Âm thanh của thác nước vào buổi chiều khiến rừng núi trở nên dữ
dội và đầy bí hiểm, đáng sợ.
+ Vào ban đêm rừng núi Tây Tiến còn có cọp đe dọa tính mạng con người. Cái tài
của Quang Dũng là nhà thơ đã sử dụng một loạt địa danh nhưng địa danh nào cũng đem
lại sự thú vị cho người đọc. Không dưới mười địa danh được sử dụng nhưng đó khơng
đơn thuần là sự liệt kê, kể lể mà mỗi địa danh đều khốc trên mình một tấm áo riêng, một
điệu hồn riêng. Có những địa danh khi đọc lên đã thấy cái hiểm trở của núi rừng, có
những địa danh đầy trữ tình thơ mộng, những cái tên này gợi ý niệm về sự xa ngái và
hoang sơ... Ở mỗi địa danh Quang Dũng đều phát hiện và thể hiện đúng thần thái của nó.
7


Dữ dội chỉ có Sài Khao, Mường Hịch… Nồng ấm tình người có Mường Lát, Mai Châu,
Pha Lng… Riêng địa danh Mường Hịch trong câu thơ “Đêm đêm Mường Hịch cọp
trêu người” được Vũ Quần Phương nhận xét hai chữ “hịch" và "cọp” và hai dấu nặng đặt
giữa câu thơ gợi bước chân chúa sơn lâm đang đến gần, gợi sự ghê rợn của cái chết đang
rình rập. Rõ ràng Quang Dũng không sử dụng địa danh một cách tùy hứng mà ông biết
lựa chọn để tạo nên sức ám ảnh cho thơ. Và mỗi địa danh đã vượt qua tư cách là những
tên gọi địa lí, ngấm vào nỗi nhớ nhà thơ, trở thành sợi thương sợi nhớ và chính điều đó đã
làm “đất lạ hóa q hương”.
- Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, thác thì "gầm thét", cọp thì "trêu người" như để
thử thách chí can trường các chiến binh Tây Tiến. Nhưng những nguy hiểm, đầy đe dọa

ấy chắc chắn vẫn khơng đủ làm những người lính Tây Tiến nản lịng.
2.6. Câu thơ 13,14:
Trong khó khăn, gian khổ hi sinh, giữa núi rừng miền Tây đầu hoang vu dữ dội và
hiểm trở nhưng cũng thơ mộng, lãng mạn vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến
và tình quân dân thắm thiết được nhà thơ Quang Dũng gợi tả:
Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Nếu như ở những câu thơ trước ta đã cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những
người lính Tây Tiến với sự lạc quan, yêu đời, dí dỏm, hồn nhiên qua hình ảnh "súng ngửi
trời", tâm hồn lãng mạn nên cảm nhận và thi vị hóa vẻ đẹp của thiên nhiên qua những câu
thơ như "Mường Lát hoa về trong đêm hơi"... thì ở hai câu thơ này tâm hồn các chàng trai
Tây Tiến lại dễ xúc động trước tình người ấm áp:
+ Thán từ "Nhớ ơi" xuất phát từ tình cảm sâu sắc, mãnh liệt, gợi bao bâng khuâng,
vương vấn. Nhớ những kỉ niệm khơng thể phai mờ về tình qn dân thắm thiết.
+ Hình ảnh cơm lên khói gợi cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ
băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm đừng chân, được nghỉ ngơi
ở một bản làng nào đó và nhận được sự đón tiếp nồng hậu của đồng bào địa phương, họ
quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói và cảm nhận được tình người ấm áp nơi xứ
lạ.
+ Mùi hương nếp xôi: Đến Mai Châu vào mùa lúa nếp người lính Tây Tiến cũng
cảm nhận tình được tình cảm mến thương và sự thơ mộng của vùng đất này qua hương
thơm của nếp rừng. Hương thơm của tình mẹ, tình em ấy sẽ theo suốt dọc cuộc đời của
người lính Tây Tiến. Cái đặc sắc nhất của câu thơ là ở hai chữ “mùa em”, đó là cách định
danh, không gọi tên một mùa cụ thể như mùa xuân, mùa hạ, mùa đông, hay mùa thu mà
gọi bằng ấn tượng là “mùa em”. Mùa là một đơn vị đo thời gian, em” là một chủ thể trữ
tình. Sự kết hợp độc đáo này khiến mùa khơng cịn là của thiên nhiên, đất trời mà đã trở
thành mùa của niềm thương nỗi nhớ, mùa của trái tim người lính khi hướng về những
bóng dáng thân thương, những tấm lịng thơm thảo.
Bữa xôi tỏa mùi hương trở thành những kỉ niệm không thể phai mờ cũng được nhà
thơ Chế Lan Viên ghi nhớ mãi:

“Đất Tây Bắc tháng ngày khơng có lịch
Bữa xơi đầu cịn toả nhớ mùi hương”
8


3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật:
Đoạn thơ đầu khắc họa một Tây Bắc dữ dội, hùng vĩ, mộng mơ, huyền ảo. Thiên
nhiên ấy làm nền cho sự xuất hiện của những người lính Tây Tiến vừa hào hùng, phong
trần lại vừa hồn nhiên, tươi trẻ. Họ không hề nhụt chí, chùn chântrước khó khăn, gian
khổ. Bài thơ ngay từ đầu đã mang màu sắc lãng mạn, bi tráng. Bút pháp hiện thực kết hợp
với lãng mạn mà nổi bật là cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tơi tràn đầy tình cảm cảm
xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố
cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn
tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và tuyệt mĩ. Một nét sáng tạo trong ngôn ngữ thơ nữa là
có những kết hợp từ độc đáo, mới lạ, tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới cho từ ngữ (ví dụ:
nhớ chơi vơi, đêm hơi, súng ngửi trời, mưa xa khơi, Mai Châu mùa em ...). Nghệ thuật sử
dụng tên địa danh cũng là một nét đáng chú ý trong ngơn ngữ thơ.
Thiên nhiên miền Tây, qua ngịi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với
vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình
ảnh con người miền Tây càng tơ đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất
lãng mạn còn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi
sinh tất cả cho lí tưởng chung của cộng đồng, của tồn dân tộc. Từ đó, làm nổi bật hình
tượng người lính vừa dũng cảm, can trường vừa lãng mạn, hào hoa.
Đoạn số 2:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa?
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.88,89)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1.1. Hoàn cảnh sáng tác
- Giới thiệu đoàn binh Tây Tiến:
+ Tây Tiến là phiên hiệu một đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 (Đây là giai đoạn
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, theo tiếng gọi của Đảng, nhiều học sinh - sinh
9


viên đã lên đường tham gia kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”).
+ Nhiệm vụ: Phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch và bảo vệ biên
giới Việt - Lào.
+ Địa bàn hoạt động: Rộng. Bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hịa Bình, miền
Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa - Thượng Lào.
+ Thành phần: Phần đông là thanh niên Hà Nội (nhiều sinh viên, học sinh).
+ Điều kiện sống và chiến đấu: Gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật.
+ Tinh thần: Hào hùng, lãng mạn, lạc quan, yêu đời.
+ Đoàn binh Tây Tiến sau một thời gian hoạt động trở về Hịa Bình, thành lập
trung đồn 52.
- Hồn cảnh sáng tác cụ thể : Hiện thực đời sống luôn là nguồn cảm hứng vô tận
sáng tạo nên văn chương, người nghệ sĩ phải đứng vững trên mảnh đất đời sống, lấy
đó làm điểm tựa, điểm xuất phát thì mới mong tạo ra được thứ gì đó để đời. Quang

Dũng là là người lính, là một Đại đội trưởng trong đồn binh Tây Tiến và ông đã bám vào
hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ, của những kỉ niệm mà đời lính khơng thể qn,
chắp cánh cảm xúc để cho ra đời tác phẩm để đời. Cuối năm 1948, Quang Dũng phải
chuyển đơn vị khác. Rời xa đoàn binh Tây Tiến chưa được bao lâu, khi kỉ niệm về Tây
Tiến và hơi ấm đồng đội hầu như vẫn còn nguyên vẹn, tại Phù Lưu Chanh - một làng nhỏ
bên bờ sơng Đáy hiền hịa, ơng nhớ về đơn vị cũ nên viết bài thơ này.
1.2. Xuất xứ và nhan đề:
Nhan đề ban đầu của bài thơ là "Nhớ Tây Tiến" sau đổi thành "Tây Tiến" => Giúp
cho tâm tư tình cảm của tác giả được bộc lộ kín đáo hơn.
Bài thơ được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (1986).
1.3. Nội dung chính của bài thơ:
Cả bài thơ là nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng về một thời Tây Tiến. Với tình cảm
sâu nặng, cảm hứng vừa hiện thực vừa lãng mạn và ngòi bút tài hoa, nhà thơ đã khắc họa
bức tranh thiên nhiên Tây Tiến vừa hoang vu, dữ dội, hiểm trở vừa thơ mộng, duyên
dáng, mĩ lệ. Trên cái nền thiên nhiên ấy là hình tượng những người lính Tây Tiến mang
vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng, vừa dũng cảm, can trường vừa lãng mạn, hào hoa.
2. Phân tích đoạn thơ: Những kỉ niệm đẹp về một thời Tây Tiến
2.1. Khái quát về đoạn thơ
- Mạch cảm xúc của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của tác giả. Bài thơ được
viết ra từ nỗi nhớ da diết của Quang Dũng , nhớ thiên nhiên Tây Tiến, nhớ chặng đường
hành quân vất vả, gian khổ, nhớ đồng đội thân yêu, nhớ những người đã cùng vào sinh ra
tử. Bài thơ là những kí ức được tái hiện một cách tự nhiên, kí ức này gợi kí ức khác, kỉ
niệm này gợi kỉ niệm khác như những con sóng nối tiếp nhau. Nếu đoạn thơ trước bằng
những nét vẽ gân guốc, mạnh bạo Quang Dũng đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên Tây Tiến
hoang vu, dữ dội hiểm trở, tái hiện chặng đường hành quân vất vả, gian khổ của những
người lính Tây Tiến thì ở đoạn thơ gồm 8 câu này bằng những nét vẽ mềm mại, uyển
10


chuyển, bút pháp lãng mạn, tài hoa nhà thơ đã tái hiện những kỉ niệm đẹp trong cuộc đời

người chiến binh và vẽ lên bức tranh thiên nhiên Tây Tiến duyên dáng, mĩ lệ và lãng
mạn.
Đoạn thơ được chia làm hai phần rõ nét. Bốn câu thơ đầu là một đêm liên hoan
trong doanh trại. Bốn câu thơ sau là thiên nhiên Tây Tiến trong buổi chiều sương hành
quân qua Châu Mộc.
2.2. Bốn câu thơ đầu của đoạn thơ là kỉ niệm về một đêm liên hoan trong doanh trại:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
- Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến được thể hiện rõ
trong những câu thơ miêu tả đêm liên hoan trong doanh trại. Địa bàn hoạt động của
những người lính Tây Tiến rất rộng, hành quân di chuyển thường xuyên nên đó có thể là
doanh trại mới được dựng tạm trên chặng đường hành quân chiến đấu.
- Chữ "bừng" là một nét vẽ có thần. "Bừng" là sáng bừng lên, là tưng bừng, nhộn
nhịp. Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu.
Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh
vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực.
- Hai chữ “kìa em” và cụm từ "tự bao giờ" thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng,
ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là
những cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy, e
thẹn, dịu dàng, tình tứ trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ đã thu hút cả hồn vía những
chàng trai Tây Tiến.
- Đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến cịn có đồng bào địa
phương đến góp vui. Bởi vậy, đây cịn là những câu thơ thắm tình qn dân, qn dân tựa
như cá với nước, tựa như con một nhà. Tình cảm qn dân thắm thiết với khơng khí tưng
bừng, nhộn nhịp cũng được nhà thơ Hồng Trung Thơng miêu tả chân thực:
“Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười rộn ràng xóm nhỏ”
- Cảm hứng lãng mạn, bay bổng của đoạn thơ còn được thể hiện rõ hơn qua câu

thơ "Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ". Đêm liên hoan diễn ra trong doanh trại nằm ở
vùng giáp ranh biên giới Việt- Lào nên âm thanh réo rắt của tiếng khèn, tiếng nhạc vang
vọng, bay về tận Viên Chăn. Đêm liên hoan "xây hồn thơ" trong tâm hồn những người
lính trẻ nên tâm hồn họ cũng bay bổng, phiêu diêu theo tiếng khèn, tiếng nhạc.
=> Nhìn chung, bốn câu thơ về đêm liên hoan trong doanh trại là những câu thơ đầy chất
thơ, chất nhạc và thể hiện rõ hồn thơ Quang Dũng tài hoa, hồn hậu và phóng khống.
3.3. Bốn câu thơ sau của đoạn thơ là kỉ niệm về một buổi chiều sương hành quân qua
Châu Mộc:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
11


Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa?
- Bốn câu thơ là nỗi nhớ sâu đậm của những người lính Tây Tiến về bức tranh thiên
nhiên miền Tây được cảm nhận trên đường hành quân qua Châu Mộc. Trong đó, câu thơ
thứ nhất gợi cả không gian và thời gian. Thời gian là vào một buổi chiều, khơng gian thì
bảng lảng sương khói. Buổi chiều ấy có sương giăng mắc, bao phủ khắp các bãi bờ làm
bức tranh cảnh vật có phần mờ nhịe, nhạt nhịa. Sự mờ nhịe, nhạt nhịa ấy khơng chỉ bởi
màn sương bao phủ mà cịn bởi màn sương của kí ức, hồi niệm. Nhưng cũng vì thế mà
cảnh vật trở nên mềm mại và có hồn hơn, hư ảo như trong một bức tranh thủy mặc.
- Ba câu thơ còn lại miêu tả cảnh sông nước miền Tây. Cảnh sông nước mênh
mông với bến bờ cỏ lau hoang dại đượm màu cổ tích. Hình ảnh hoa lau gợi nét đặc trưng
của thiên nhiên rừng núi. Cái hay của đoạn thơ là ở chỗ nó khơng chỉ vẽ lên được bức
tranh cảnh vật mà còn gợi được cả cái hồn của cảnh vật. Lau dại khơng cịn vơ tri vơ giác
mà dường như có linh hồn, gợi được cái hồn của bức tranh cảnh vật hoang dại mà thơ
mộng, đáng yêu. Hồn lau trong thơ Quang Dũng là hồn lau của li biệt, có phảng phất chút
buồn và đầy nỗi nhớ nhung, lưu luyến, bịn rịn.Trong thơ ca, lau cũng thường mang ý
niệm của của nỗi buồn thương xa vắng, mênh mơng:

“Người đi phơ phất hồn lau gió
Thổi trắng chân trời như khói pha”
(Hồng Hữu)
=>Bút pháp chấm phá tinh tế: khơng gian sơng nước rộng lớn, cảnh thì thưa thớt,
thấp thống bóng người, bóng hoa và trong gió trong cây như có linh hồn của vạn vật.
- Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như khắc chạm vào lịng người một nỗi
nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Câu thơ "Có nhớ dáng người trên độc mộc" làm bức
tranh cảnh vật hoang sơ xuất hiện hình ảnh con người. Dáng người trên độc mộc ở đây có
thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái đang đưa các chiến sĩ vượt
sơng. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống
con thuyền vượt thác dữ trên đường hành quân. Hình ảnh ấy tạo thêm một nét đẹp rắn rỏi,
khoẻ khoắn cho bức tranh thiên nhiên thơ mộng, mềm mại.
- Câu thơ cuối sử dụng nghệ thuật đối lập: “Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa''. Đó
là sự đối lập giữa cái dữ dội của thiên nhiên là dịng nước lũ với cái mềm mại, dịu dàng
của bơng hoa rừng. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi. Không phải “đung đưa” mà
là “đong đưa” – gợi hình ảnh bơng hoa đang đong đưa, dập dềnh làm duyên làm dáng
trên dòng nước lũ. Người và hoa như họa thêm vẻ đẹp cho nhau làm nên một bức họa thật
lãng mạn mà cũng thật hào hùng.
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Với bút pháp nghệ thuật và cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ giàu chất nhạc, chất
họa, cách sử dụng ngôn từ sáng tạo, tài hoa nhà thơ Quang Dũng đã dẫn dắt người đọc
bước vào thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, của những giây phút bình yên, thư thái trong
tâm hồn. Bốn câu thơ đầu như nhạc điệu được cất lên từ tâm hồn đang ngây ngất, say mê.
Trong bốn câu thơ sau chất hội họa được thể hiện đậm nét khi nó không chỉ vẽ lên bức
tranh thiên nhiên đẹp, gợi cảm mà còn gợi được cả cái hồn của bức tranh cảnh vật. Chất
12


nhạc và chất họa kết hợp với nhau khiến những kỉ niệm về một thời Tây Tiến trở nên
sống động, lãng mạn. Đoạn thơ cho thấy sự gắn bó của nhà thơ với một thời Tây Tiến.

cho thấy tâm hồn đầy lãng mạn, hào hoa của người lính Tây Tiến trong một thời kì lịch sử
hào hùng của dân tộc.
Đoạn số 3:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng:
Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.89)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1.1. Hoàn cảnh sáng tác
- Giới thiệu đoàn binh Tây Tiến:
+ Tây Tiến là phiên hiệu một đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 (Đây là giai đoạn
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, theo tiếng gọi của Đảng, nhiều học sinh - sinh
viên đã lên đường tham gia kháng chiến với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”).
+ Nhiệm vụ: Phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch và bảo vệ biên
giới Việt - Lào.

+ Địa bàn hoạt động: Rộng. Bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hịa Bình, miền
Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa - Thượng Lào.
+ Thành phần: Phần đông là thanh niên Hà Nội (nhiều sinh viên, học sinh).
+ Điều kiện sống và chiến đấu: Gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật.
+ Tinh thần: Hào hùng, lãng mạn, lạc quan, yêu đời.
13


+ Đoàn binh Tây Tiến sau một thời gian hoạt động trở về Hịa Bình, thành lập
trung đồn 52.
- Hồn cảnh sáng tác cụ thể : - Hoàn cảnh sáng tác cụ thể : Hiện thực đời sống
luôn là nguồn cảm hứng vô tận sáng tạo nên văn chương, người nghệ sĩ phải đứng
vững trên mảnh đất đời sống, lấy đó làm điểm tựa, điểm xuất phát thì mới mong tạo ra
được thứ gì đó để đời. Quang Dũng là là người lính, là một Đại đội trưởng trong đồn
binh Tây Tiến và ông đã bám vào hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ, của những kỉ
niệm mà đời lính khơng thể qn, chắp cánh cảm xúc để cho ra đời tác phẩm để đời. Cuối
năm 1948, Quang Dũng phải chuyển đơn vị khác. Rời xa đoàn binh Tây Tiến chưa được
bao lâu, khi kỉ niệm về Tây Tiến và hơi ấm đồng đội hầu như vẫn còn nguyên vẹn, tại
Phù Lưu Chanh - một làng nhỏ bên bờ sơng Đáy hiền hịa, ơng nhớ về đơn vị cũ nên viết
bài thơ này.
1.2. Xuất xứ và nhan đề:
Nhan đề ban đầu của bài thơ là "Nhớ Tây Tiến" sau đổi thành "Tây Tiến" => Giúp
cho tâm tư tình cảm của tác giả được bộc lộ kín đáo hơn.
Bài thơ được in trong tập thơ “Mây đầu ô” (1986).
1.3. Nội dung chính của bài thơ:
Cả bài thơ là nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng về một thời Tây Tiến. Với tình cảm
sâu nặng, cảm hứng vừa hiện thực vừa lãng mạn và ngòi bút tài hoa, nhà thơ đã khắc họa
bức tranh thiên nhiên Tây Tiến vừa hoang vu, dữ dội, hiểm trở vừa thơ mộng, duyên
dáng, mĩ lệ. Trên cái nền thiên nhiên ấy là hình tượng những người lính Tây Tiến mang
vẻ đẹp lãng mạn và bi tráng, vừa dũng cảm, can trường vừa lãng mạn, hào hoa.

2. Phân tích đoạn thơ: Bức tượng đài tập thể về đoàn binh Tây Tiến
2.1. Khái quát về đoạn thơ
- Bài thơ được chia làm bốn đoạn, trong đó đoạn thơ thứ nhất và thứ hai chính là
cái nền để làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến ở đoạn thơ này. Cảm
hứng chủ đạo trong đoạn thơ là cảm hứng bi tráng. Bi có nghĩa là buồn, cái bi cái buồn
trong đoạn thơ được thể hiện khi nói nhiều đến những khó khăn, gian khổ, mất mát, hi
sinh. Tuy nhiên ở đây cái bi cái buồn khơng gợi nên cảm giác đau thương, tang tóc trái lại
còn gợi sự hào hùng, hùng tráng. Bởi vậy nên đọc đoạn thơ, mỗi khi người đọc cảm thấy
sắp bị rơi vào, chìm xuống trong sự bi thương thì lại được nâng lên bởi đơi cánh của lí
tưởng và cảm xúc lãng mạn. Có thể nói cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức
tượng đài về những người lính Tây Tiến, chúng hồ quyện, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp
bí tráng.
2.2. Hai câu đầu: “Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm”
Ngoại hình của những người lính Tây Tiến
Hai câu thơ trước hết là nét tả ngoại hình của những người lính Tây Tiến với hai
nét tả là đầu trọc, da xanh đều là di chứng của căn bệnh sốt rét và hiện thực là cả một
đoàn quân đầu trọc, da xanh. Thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp khi viết về người
lính cũng thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã
trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
14


“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài "Cá nước" cũng không quên
ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó:
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ”
Quang Dũng trong Tây Tiến khơng hề che giấu những gian khổ, khó khăn

cửa người lính. Chỉ có điều, tất cả qua ngịi bút của ông trở nên vừa hiện thực vừa lãng
mạn. Những cái đầu khơng mọc tóc của những người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh
ly kì, giật gân, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa dựng một
sự thực nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến phải hoạt động ở chốn rừng thiêng nước
độc, ở đó có những con suối "Rửa chân rụng lơng, gội đầu rụng tóc", có người thì cạo
trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cả với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc,
trọc đầu. Đâu còn vẻ lịch lãm, thư sinh của những chàng trai tiểu tư sản của đất Tràng An
ngàn năm văn hiến. Nhưng đó chính là quy luật tất yếu của chiến tranh như Chính Hữu
cũng từng miêu tả trong bài thơ “Ngày về”:
“Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa”
Nhưng điều đáng chú ý là đầu trọc, da xanh dù trơng có xấu xí, tiều tụy
nhưng những người lính Tây Tiến vẫn khơng thấy mình xấu, tiều tụy mà trái lại họ thấy
mình oai phong, dữ dằn như chúa sơn lâm ở chốn nơi rừng thiêng. Người lính Tây Tiến
“dữ oai hùm” là mạnh mẽ làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt, đạp bằng mọi gian
khổ để chiến đấu. Mượn hình ảnh con hổ để nói đến khí thế và sức mạnh dân tộc cũng là
một cách nói truyền thống trong thơ ca: "Tam qn tỳ hổ khí thơn Ngưu" (Phạm Ngũ
Lão), "Tỳ hổ ba quân – Giáo gươm sáng chói" (Trương Hán Siêu). Ngồi ra, cách nói
“khơng mọc tóc” chứ khơng phải “khơng mọc được tóc” cũng thể hiện khẩu khí kiêu
hùng, ngang tàng, sự chủ động của người lính trước mọi hoàn cảnh.
2.3. Hai câu thơ tiếp theo: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Vẻ đẹp tâm hồn của những người lính Tây Tiến
- Quang Dũng đã dùng những hình ảnh rất hiện thực để tô đậm vẻ đẹp phi thường
của những người lính. Hai chữ “Mắt trừng” gợi nhiều liên tưởng: “mắt trừng” là mắt mở
to, dữ dội, ngùn ngụt ý chí nhìn thẳng về phía kẻ thù với chí khí mạnh mẽ, dám thề sống
chết. Đôi mắt mở to, luôn nâng cao tinh thần cảnh giác để bảo vệ đất nước. Đôi mắt ấy
“gửi mộng qua biên giới” – mộng giết giặc lập cơng, mộng hịa bình, độc lập, khơng chỉ
vì độc lập tự do của đất nước mình mà cịn vì độc lập tự do của nước bạn Lào.
- Tưởng chừng trong gian khổ hy sinh, người lính Tây Tiến khơng cịn thời gian để

mà mơ mộng, ấy vậy vẫn mơ mộng, vẫn không hề mất đi sự hào hoa của những chàng
trai Hà Nội. Câu thơ “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” trước đây bị phê phán là “buồn
rớt”, “mộng rớt” tiểu tư sản. Nhưng người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ học sinh, sinh
viên Hà Nội, họ ra đi từ những mái trường, giảng đường nên tâm hồn đầy mơ mộng. Họ
vẫn dành những giờ phút thảnh thơi, thư thái để nhớ về một Hà Nội ngàn năm văn hiến
15


với những cô gái xinh đẹp, yêu kiều. Lãng mạn như vậy giữa một hồn cảnh khắc nghiệt
khơng phải là buồn rớt, mộng rớt mà chính là biểu hiện của một bản lĩnh phi thường.
Chính cảm xúc lãng mạn ấy đã cân bằng tâm hồn họ giữa những nghiệt ngã chiến tranh,
đã tiếp thêm sức mạnh để họ thực hiện lí tưởng cao đẹp của mình.
Thơ ca kháng chiến chống Pháp cũng đã khắc họa bao nỗi nhớ như thế. Nếu như
những người lính nơng dân ra đi là nhớ ruộng đồng, nhớ : “Giếng nước gốc đa nhớ người
ra lính” (Đồng chí). Nhớ về người vợ trẻ:
“Ba năm rồi gửi lại mái lều tranh
Luống cày đất đỏ
Tiếng mõ đêm trường
Ít nhiều người vợ trẻ
Mịn chân trên cối gạo canh khuya”
(Nhớ - Hồng Nguyên)
.... Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình khơng về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều q...
(Màu tím hoa sim – Hữu loan)

Câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" đã thể hiện chất tài tử, hào hoa của
người lính Tây Tiến. Thời gian và độc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng định cái hay riêng
của thơ Quang Dũng vì nó góp phần làm phong phú thêm chân dung anh bộ đội Cụ Hồ
trong kháng chiến chống Pháp.
2.4. Hai câu thơ tiếp theo:Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Sự hi sinh và lí tưởng cao đẹp của những người lính Tây Tiến
Nhà thơ Quang Dũng đã nhìn thẳng vào sự khốc liệt của chiến tranh, không né
tránh hiên thực miêu tả về cái chết. Viết về cái chết của người lính trên dọc đường hành
quân và chiến đấu, tác giả đã sử dụng những từ ngữ được sắp xếp theo chiều tăng tiến của
sự bi thảm: đã “rải rác”, lại rải rác tận nơi biên cương, tận vùng rừng núi xa xôi hẻo lánh,
rải rác tận nơi viễn xứ, thậm chí tận nơi nước người. Những người lính Tây Tiến nằm lại
nơi chiến trường rất nhiều, những nấm mồ sơ sài, vội vã nằm rải rác khắp biên thùy.
Những ngôi mộ sơ sài như thế cũng được nhà thơ Hồng Lộc nhắc tới trong bài "Viếng
bạn":
Ở đây khơng gỗ ván
Vùi anh trong tấm chăn
Của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán
16


Từng chữ, từng từ đều xốy sâu vào xót thương của người đọc. Nếu tách riêng câu
thơ này ra, người đọc dễ mủi lòng dễ rơi vào trạng thái bi lụy như câu thơ trong “Chinh
phụ ngâm":
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Đoạn thơ tưởng sắp rơi vào đau thương bi lụy thì ngay sau đó được nâng lên bởi lí
tưởng cao đẹp. Những người lính khi ra đi đều biết rằng rất có thể họ cũng sẽ phải nằm
lại nơi núi rừng như bao nhiêu đồng đội đã ngã xuống. Nhưng vì lí tưởng cao đẹp họ sẵn

sàng hi sinh cuộc đời và tuổi thanh xuân của mình cho đất nước. Hơn nữa, nói về sự hi
sinh của những người lính Tây Tiến nhà thơ Quang Dũng đã sử dụng nhiều từ Hán Việt
như biên cương, chiến trường, viễn xứ. Đó là cách nhà thơ trang trọng hóa sự hi sinh của
những người lính Tây Tiến, là sự kính cẩn nghiêng mình của nhà thơ trước sự hi sinh của
đồng đội, biến những nấm mồ nơi rừng sâu hoang lạnh thành những mộ chí thiêng liêng.
Câu thơ của người lính viết về những đồng đội đã ngã xuống đượm vẻ ngậm ngùi thành
kính. Sau này trong bài thơ "Sông Lào", Chế Lan Viên cũng nói về sự hi sinh của những
người con ưu tú khắp mọi miền quê thành nghìn nấm mộ với bao xúc động, nghẹn ngào:
"Tôi qua những con sông Lào đâu chỉ uống vào thơ
Gặp nghìn nấm mộ
Và trăm bản Lào bom Mĩ đốt ra tro!
Ngủ lại Xê-băng-hiên chàng trai nhỏ đất sơng Hồng
Ngủ lại Xê-băng-phai là chàng Phú Thọ
Bóng khộp, bóng bằng lăng che mình thay bóng cọ.
Chàng trai Nghĩa Bình ngủ ở Xê – kơng
Nén hương thơm lẫn với hương rừng
Những cô gái Lào đến thăm phần mộ
Các anh chưa từng cầm tay và múa lăm – vông…"
Đúng là "Có cái chết hóa thành bất tử" (Tố Hữu). Nhiều nhà thơ Việt Nam, trong
đó có Quang Dũng đã viết nên những bài ca nói lên ý chí chiến đấu quả cảm và sự hi sinh
oanh liệt của người chiến sĩ Vệ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh.
2.5. Hai câu thơ tiếp theo: Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Sự tiếc thương vơ hạn trước sự hi sinh của những người lính Tây Tiến
Với câu thơ "Áo bào thay chiếu anh về đất", Quang Dũng khắc tả tinh thần của
những người lính giống như người phu tráng sĩ thời xưa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
Ngày xưa, người tráng sĩ chọn cái chết hiên ngang nơi trận mạc với da ngựa bọc thây và
coi đó là vinh quang tột đỉnh:
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao”

Cịn chiến sĩ Tây Tiến thì chỉ cần “áo bào thay chiếu anh về đất.” Cách nói “áo bào
thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hi sinh của người lính. Áo bào là từ
Hán Việt chỉ áo của vua hoặc của khanh tướng nhưng ở đây nó chỉ chiếc áo lính. Những
người lính khi ngã xuống khơng cần có cả manh chiếu bọc thân chỉ cần chiếc áo đơn sơ
17


vẫn mặc hàng ngày, các anh đã có thể thanh thản trở về với đất mẹ. “Anh về đất” là cách
nói giảm, nói tránh đi cái chết làm câu thơ bi mà khơng lụy.
- Đối với những người lính cái chết đơn giản chỉ là "ngủ quên đời", "anh về đất"
nhưng có cái chết nào, có sự hi sinh nào lại không gây nên sự bi thương. Con sông Mã,
chứng nhân của lịch sử, đã chứng kiến sự hi sinh của những người lính Tây Tiến. Nó gầm
lên giống như một con chiến mã trung thành, đau thương khi chứng kiến cái chết của
người bạn đồng hành. Dịng sơng như cất lên một khúc tráng ca đưa người lính về với đất
với bao tiếc thương, ngậm ngùi. Chỉ bằng âm thanh ấy, Quang Dũng đã truyền dược vào
câu thơ tất cả cái bi tráng của sự hi sinh và nỗi đau xót trong lịng người chiến sĩ khi phải
vĩnh biệt đồng đội. Trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết của
người lính khơng bi luỵ mà thấm đẫm chất anh hùng của thời đại.
2.6. Bốn câu thơ cuối: Khẳng định chất lí tưởng sâu sắc
Bốn câu thơ cũng là lời kết luận cho cả bài thơ, khẳng định chất lí tưởng sâu sắc
của những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm giọng thơ buồn nhưng linh hồn của đoạn
thơ vẫn là sự hào hùng. Trong đó, hai câu thơ sau là lời khẳng định ra đi không hẹn ngày
trở về:
Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Cách mạng tháng tám thành công, lịch sử dân tộc bước sang một giai đoạn mới là
kỉ nguyên độc lập, tự do cho đất nước. Nhưng bọn thực dân Pháp quay trở lại xâm lược.
Năm 1946 Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến, khẳng định “Chúng ta thà
hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Hưởng ứng lời kêu gọi ấy, tiếng kèn sông núi vang dậy khắp non sông, cả nước quyết tâm

chống thực dân Pháp với tinh thần "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Ra đi không hẹn
ngày về trở thành tinh thần chung của cả thời đại được thể hiện rõ qua lời một ca khúc
của Phan Huỳnh Điểu "Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi /Là có mong chi đâu ngày trở
về/ ra đi, ra đi báo cừu sông núi/ Ra đi, ra đi thà chết không lui". Nợ nước, nợ non sông
thôi thúc các chàng trai lên đường:
Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Cổ nhân từng nói "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!". Từ xưa đến nay mấy người
đi chiến trận mà hẹn được ngày trở về. Khi xưa, tráng sĩ Kinh Kha chia tay thái tử Yên
Đan bên bờ sông Dịch Thủy để sang đất Tần cũng xác định tinh thần "nhất khứ bất phục
hồn":
“Gió hiu hiu hề
Nước sơng Dịch lạnh ghê
Tráng sĩ một đi khơng hẹn về”
Do hồn cảnh lịch sử quá ngặt nghèo, cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn đầu
chẳng khác nào lấy trứng chọi đá, đòi hỏi phải lấy tính mạng để đổi độc lập tự do. Nên
những người lính Tây Tiến cũng một tinh thần ấy, ra đi là cũng không hẹn ngày trở về, ra
18


đi là xác định chia phôi. Ý thơ đã lột tả lí tưởng chiến đấu cao cả của anh bộ đội cụ Hồ,
làm nổi bật phẩm chất yêu nước, anh hùng của họ.
Bài thơ khép lại bằng hai câu thơ thể hiện sự gắn bó máu thịt của những người lính
với một thời Tây Tiến:
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi
Hai câu thơ một lần nữa tô đậm thêm tinh thần thời đại, tinh thần chung của người
lính Tây Tiến. Đại từ "ai" phiếm chỉ nhưng rõ ràng là chỉ những người lính Tây Tiến.

Mùa xuân ấy là mùa xuân năm 1947, khi những người lính lên đường lên Tây Tiến nhưng
cũng có thể mùa xuân ở đây là chỉ tuổi thanh xuân. Những người lính Tây Tiến ra đi vào
mùa xuân năm ấy khi tuổi đời còn rất trẻ, đang tràn đầy sức sống, khát vọng và lí tưởng
cao đẹp. Họ ra đi chiến đấu là vì một mùa xuân cho đất nước.
Trong câu thơ cuối, Sầm Nứa là tên địa danh của nước bạn Lào, nằm trong địa bàn
hoạt động của đoàn binh Tây Tiến. Có lẽ, nhà thơ đang thể hiện một tâm nguyện âm thầm
mà thuỷ chung, son sắt của tất cả những “ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy” bởi trong lịng
họ, thời gian gắn bó với trung đoàn, với miền Tây từ “ mùa xuân ấy” là khoảng thời gian
quý giá nhất trong cuộc đời, khoảng thời gian vời vợi nhớ thương. Dù có thể chia xa
nhưng tâm hồn những người lính sẽ mãi đi về với miền Tây, với những Sầm Nứa, Pha
Luông, Mường Hịch,..những vùng đất xa xôi đong đầy kỉ niệm với đồng đội, với trung
đoàn Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ hào hùng vì như chế Lan Viên đã đúc
kết:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hố tâm hồn
Cũng có thể hiểu nhà thơ đang xót xa, ngậm ngùi khi nhắc đến những đồng đội đã
vĩnh viễn nằm lại những nấm mồ cô đơn nơi miền viễn xứ. Họ đã lên Tây Tiến mùa xuân
ấy, đã chiến đấu kiên cường, đã hi sinh dũng cảm, linh hồn và thân xác họ đã vĩnh viễn ở
lại với miền Tây, vẫn theo đồng đội trên chặng đường hành quân, chiến đấu.
3. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật
Với bút pháp nghệ thuật vừa hiện thực vừa lãng mạn, cách sử dụng ngôn từ sáng
tạo, tài hoa nhà thơ Quang Dũng. Hình ảnh thơ khá đa dạng và được sáng tạo bằng nhiều
bút pháp khác nhau, tạo nên sắc thái thẩm mĩ phong phú. Mỗi loại hình ảnh cũng lại có
hai dạng chính, tạo nên hai sẳc thái thẩm mĩ phối hợp, bổ sung cho nhau, ở đoạn thơ này
là hình ảnh người lính hiện ra với nhiều vẻ đẹp khác nhau, mà vẻ đẹp nổi bật là hào hùng
và hào hoa. Đoạn thơ vừa có thứ ngơn ngữ trang trọng, có màu sắc cổ kính nhất là ở đoạn
miêu tả trực tiếp hình ảnh người lính Tây Tiến và sự hi sinh bi tráng của họ, lại có lớp từ
ngữ thơng tục, sinh động của tiếng nói hằng ngày, in đậm trong phong cách người lính,
kết hợp từ độc đáo, mới lạ, tạo nghĩa mới hoặc sắc thái mới cho từ ngữ man điệu, dữ oai
hùm, dáng kiều thơm, anh về đất…

Đoạn thơ cho thấy tình cảm, sự gắn bó của nhà thơ với một thời Tây Tiến, với
đồng đội thân yêu, cho thấy tâm hồn đầy lãng mạn, hào hoa của người lính Tây Tiến
trong một thời kì lịch sử hào hùng của dân tộc.
19


C. KẾT LUẬN CHUNG
Không phải ngẫu nhiên mà khi bàn về thơ, nhiều nhà văn, nhiều học giả đều khẳng
đinh vai trị của tình cảm đối với thơ. Ngơ Thì Nhậm thì kêu gọi các thi nhân “Hãy xúc
động hồn thơ cho ngịi bút có thần”, cịn Muytxê cũng nhắn nhủ “Hãy đập vào tim anh,
thiên tài là ở đó”. Tư tưởng của một nhà thơ dù dầu có giá trị đến đâu, độc đáo mới mẻ
đến nhường nào thì nó cũng chỉ là một xác buớm ép khơ trên trang giấy, nếu khơng được
tình cảm của họ thổi hồn đánh thức dậy. Nếu anh chỉ có tư tưởng khơng thơi, thì khơng
thể làm một tác phẩm có giá trị nghệ thuật đính thực. Tư tưởng của anh phải được rung
lên ở các cung bậc của tình cảm. Cảm xúc trơ lì, mịn sáo, tình cảm thống qua, hời hợt,
rút cuộc những tư tưởng ấy dù hay đến mấy cũng chỉ ”nằm thẳng đơ”, vô hồn, vô cảm
trên trang giấy mà thơi. Những sáng tạo nghệ thuật chân chính tuyệt nhiên không phải là
sự minh hoạ giản đơn cho tư tưởng này hay tư tưởng khác, cho dù đó là tư tưởng rất hay
(Ý của Khrapchencô). Tây Tiến mùa xuân ấy đã thành một đi không trở lại, lịch sử dân
tộc sẽ không bao giờ lặp lại thơ mộng lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy. Nhưng "Tây
Tiến" của Quang Dũng đã góp phần tái hiện lại một giai đoạn lịch sử oai hùng của dân
tộc, thể hiện tình cảm sâu sắc của nhà thơ với một thời Tây Tiến, rộng hơn là tình yêu quê
hương đất nước. Quang Dũng hẳn đã xúc động hồn thơ và đập vào trái tim để tạo nên
những vần thơ kiệt tác. Để trải qua bao nhiêu thăng trầm và thời gian, bài thơ vẫn có vị trí
trong lịng bạn đọc và càng ngày càng sáng giá.
VIỆT BẮC
-Tố HữuA. MỞ BÀI CHUNG
Biêlinxki đã từng nói: “Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại bởi vì những đau khổ
và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là
khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại.” Tố Hữu chính là một đại

biểu xuất sắc của thời đại mình, là lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam. Từ đầu đến
cuối trong cuộc đời mình ơng đều gắn bó với con đường cách mạng giải phóng dân tộc, là nhà
thơ của lí tưởng cộng sản. Con đường thơ của ơng ln gắn bó, song hành và phản ánh chân thật
các chặng đường gian khổ, hi sinh nhưng cuối cùng đi đến thắng lợi vẻ vang của cách mạng
Việt Nam. Thơ Tố Hữu dễ thuộc, dễ nhớ và đậm đà bản sắc dân tộc, giọng điệu tâm tình ngọt
ngào dễ đi vào lịng người, trở thành quen thuộc trong tâm thức người Việt. Bài thơ "Việt Bắc"
được đánh giá là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, là một trong số các bài thơ hay
nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ in trong tập thơ cùng tên năm 1954.
B. PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ
Đoạn số 1:
Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu:
20


- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
(Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD VN, 2018, tr.109)
I. MỞ BÀI
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Tk mở bài chung
- Giới thiệu yêu cầu của đề bài:
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1.1. Hoàn cảnh sáng tác
- Sau 9 năm kháng chiến đầy gian khổ, hi sinh dân tộc ta đã làm nên chiến thắng lịch sử Điện

Biên Phủ chấn động địa cầu. Hiệp định Giơnevơ được kí kết, hồ bình được lập lại, một trang
sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Tháng 10-1954, các cơ
quan của Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Miền Bắc bước
vào thời kì xây dựng đất nước. Cuộc sống thay đổi có tính chất bước ngoặt, từ chiến tranh sang
hồ bình, từ núi rừng về thành thị. Biết bao lưu luyến ân tình với những nơi đã từng đồng cam
cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi. Nhân sự kiện có tính thời sự và lịch sử ấy, Tố Hữu đã sáng tác bài
thơ “Việt Bắc” vào tháng 10-1954. Hơn nữa, trong hồn cảnh ấy, người ta chó nhu cầu muốn
nhìn lại chặng đường lịch sử đã đi qua, lí giải chiến tháng và xác định con đường đi tiếp. Hoàn
cảnh ấy đã chi phối đến cảm hứng sáng tác và nội dung của bài thơ.
1.2. Kết cấu bài thơ:
- Nhà thơ đã chọn hình thức thể hiện là lối đối đáp của ca dao dân ca nhưng nếu trong
ca dao, dân ca là đối đáp giữa đơi lứa u nhau thì bài thơ là lời đối đáp giữa người đi là
những người cán bộ cách mạng miền xuôi với người ở là người dân Việt Bắc. Hình thức
đối đáp làm cho bài thơ mang âm hưởng của những bài hát giao duyên vừa đằm thắm,
thiết tha vừa sâu nặng nghĩa tình.
- Thực ra, bên ngồi là đối đáp, cịn bên trong là lời độc thoại, là biểu hiện tâm tư tình cảm
của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.
1.3. Đề tài:
- Đề tài của bài thơ là đề tài chia li, tiễn biệt là một đề tài quen thuộc trong thơ ca xưa nay.
Thế giới văn học tuyệt vời đã lưu giữ cho ta bao cuộc chia ly bất tử. Nhớ cuộc chia ly Lý Bạch
với Mạnh Hạo nhiên trên lầu Hoàng Hạc. Cuộc từ biệt Thúc Sinh của Thúy Kiều sau những
ngày mặn nồng, thắm thiết. Cuộc chia li chói ngời sắc đỏ trong thơ Nguyễn Mĩ …Và đến "Việt
21


Bắc" của Tố Hữu người đọc không thể quên cuộc chia tay lịch sử giữa những người cách mạng
miền xuôi với người Việt Bắc.
- Thơ ca về chia li, tiễn biệt thường chất chứa buồn đau, sầu muộn:
"Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
“Cùng trông lại lại cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai”
(Chinh phụ ngâm)
Nhưng trong "Việt Bắc" Tố Hữu đã thể hiện những sắc điệu mới bởi bài thơ được
sáng tác trong ngày chiến thắng, chia tay để rồi gặp lại, cả người đi người ở đều hướng
đến một viễn cảnh tươi đẹp của đất nước. Điều này cũng cho thấy Tố Hữu luôn là nhà thơ
của lẽ sống lớn, niềm vui lớn, tình cảm lớn. Thơ ơng khơng đi vào những tình cảm cá
nhân riêng tư mà chỉ hướng đến những cảm xúc lịch sử của lòng người, của thời đại.
Khúc ca về cuộc chia tay của nhân dân VB với cán bộ về xi đã minh chứng cho điều
Xn Diệu nói: “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”

2. Phân tích đoạn thơ
2.1. Khái quát
- Kết cấu đối đáp được thể hiện rất rõ ngay từ tám câu thơ đầu tiên của bài thơ. Người ta đã
có lý khi nói thơ Tố Hữu là thứ thơ "đốt cháy trái tim để trở thành trí tuệ", với ý tưởng trữ tình
hố sự kiện chính trị cũng như đời sống chính trị của đất nước, viết "Việt Bắc", Tố Hữu đã sáng
tạo nên một cấu tứ rất độc đáo-khúc hát đối đáp trong cuộc chia tay giữa người ở và người về
xuôi để khơi gợi những kỉ niệm gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang.
- Cặp từ mình – ta: Mình - ta vốn là cách xưng hơ quen thuộc trong đời sống hàng ngày, là
cách xưng hô của vợ chồng hoặc giữa những người có mối quan hệ thân thiết, gắn bó.
- Trong ca dao, dân ca cặp từ mình - ta thường xuất hiện trong các bài ca dao giao dun
như:
Mình nói với ta mình hãy cịn son
Ta đi qua ngõ thấy con mình bị
Con mình những trấu cùng tro
Ta đi lấy nước tắm cho con mình
Hay:

Mình về có nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Hoặc:
Mình về ta chẳng cho về
22


Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ
- Cách xưng hơ mình - ta gần gũi thân thương được Tố Hữu vay mượn trong ca dao, dân ca.
Sáng tạo của nhà thơ là ở chỗ nếu trong ca dao, dân ca mình - ta là đơi lứa u nhau với một
nam một nữ thì trong bài thơ mình - ta là người đi (người cán bộ miền xuôi) và kẻ ở (nhân
dân Việt Bắc). Sáng tạo hơn nữa là trong bài thơ mình - ta có sự chuyển hóa, hịa quyện
thành sự đồng vọng diễn tả chung tâm tư của cả người đi, kẻ ở. Cả mình và ta đều chung những
kỉ niệm gắn bó, chung một nỗi niềm tâm trạng, nay phải chia tay biết bao lưu luyến, bịn rịn. Bài
thơ đã vượt ra khỏi những cảm xúc riêng tư để chuyển tải một vấn đề rất lớn của đời sống
cách mạng – đó là vấn đề ân nghĩa thủy chung của cách mạng với nhân dân.
2.2. Bốn câu thơ:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười năm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ khơng
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn?”
Lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại
- Bốn câu thơ đầu của bài thơ là lời ướm hỏi ngọt ngào của người ở lại. Trong cuộc chia tay
nhà thơ đã để cho người ở lại là người lên tiếng trước bởi trong cuộc chia tay những người ở lại
thường là người nhạy cảm hơn. Đoạn thơ có hai câu hỏi tu từ "Mình về mình có nhớ ta" và
Mình về mình có nhớ khơng", hỏi không phải để được trả lời mà hỏi để nhắn nhủ, nhắc nhở
người đi, ra về hãy nhớ. Con người đang đứng trước cuộc biệt li nên hình thức câu thơ cũng
nhuốm màu li biệt. Tác giả đã đặt hai từ mình - ta ở vị trí đầu và cuối câu tạo cảm giác xa xơi,
cách biệt. Cịn ở giữa là cụm từ "mình có nhớ" thể hiện tâm trạng băn khoăn, nhớ thương của
người ở lại.

- Cụm từ "mình có nhớ" được lặp lại 2 lần, riêng từ nhớ được lặp lại 4 lần trong thể hiện nỗi
nhớ da diết, khôn nguôi của người ở lại. Họ lo sợ mai này bạn mình về nơi phồn hoa đơ hội đầy
cám dỗ sẽ khơng giữ được tình cảm son sắt, thủy chung. "Việt Bắc" là bài ca tình nghĩa. Câu
hỏi vang lên dồn dập như nhắc nhở, như khắc sâu những tình cảm tốt đẹp của quân dân,
của cách mạng và kháng chiến, của mình với ta. Nỗi niềm, tình cảm ấy của người ở lại cịn
được nhà thơ Tố Hữu nhắc đến trong đoạn thơ sau của bài thơ:
Mình về thành thị xa xơi
Nhà cao cịn nhớ núi đồi nữa chăng
Phố đơng có nhớ bản làng
Sáng đèn cịn nhớ mảnh trăng giữa rừng
- Lời người ở lại khơi gợi lại thời gian gắn bó trong suốt 15 năm. Câu thơ phảng phất âm
hưởng của một câu Kiều về 15 năm tình nghĩa sâu nặng, thủy chung của Thúy Kiều và Kim
Trọng:
Những là dày ước mai ao
Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình
Mười lăm năm ấy là mười lăm năm gắn bó giữa những người cách mạng miền xuôi với
nhân dân Việt Bắc trên chiến khu cách mạng. Mười lăm năm ấy được tính từ khởi nghĩa Bắc
23


Sơn năm 1940, từ khi Hồ Chí Minh về nước bắt tay vào xây dựng khu căn cứ địa cách mạng
tại chiến khu Việt Bắc để làm thủ đô kháng chiến của dân tộc:
Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ
Cán bộ cách mạng và nhân dân Việt Bắc đã cùng ăn, cùng ở, cùng chiến đấu gắn bó khăng
khít và làm nên chiến thắng lẫy lừng của dân tộc “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” và
rồi là một cuộc chia tay lịch sử, người cán bộ cách mạng rời Việt Bắc về xi. Mười lăm
năm "Mình đây ta có đắng cay ngọt bùi", mười lăm năm "bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp

cùng", ...làm sao kể xiết biết bao ân tình. Bốn từ "thiết tha mặn nồng" cho thấy tình cảm
giữa Việt Bắc và cán bộ thật thủy chung sâu nặng, keo sơn bền chặt. Hỏi không chỉ để
nhắn nhủ người đi mà đây cũng là cách để người ở lại bày tỏ tình cảm của mình. Khơng
biết ra về mình có nhớ khơng, cịn ta khơng thể nào qn những ngày tháng ấy.
- Lời người ở lại còn gợi nhớ cả khơng gian Việt Bắc qua các hình ảnh chỉ thiên nhiên
như cây, núi, sông, nguồn. Ra về rồi, thấy cây hãy nhớ đến núi rừng chiến khu, nhìn sông
hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Cách gợi nhắc như lời dặn dị kín đáo mà chân thành.
Việt Bắc là cội nguồn cách mạng, "Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa", là trung
tâm đầu não của cuộc kháng chiến. Câu thơ này là sự vận dụng linh hoạt và tài tình của
nhà thơ Tố Hữu với câu tục ngữ "Uống nước nhớ nguồn". Phải chăng người ở muốn khẳng
định có những ngày tháng gian khổ ở Việt Bắc mới có ngày chiến thắng về ta, để hơm nay
mình được về thủ đơ Hà Nội. Nên dù có đi đâu, về đâu hãy nhớ đến mảnh đất Việt Bắc, cái
nôi của cách mạng làm nên chiến thắng, là cội nguồn của dân tộc. Đó là đạo lý làm người, là
truyền thống văn hóa của người Việt Nam. Qua đó nhà thơ cũng nhắc nhớ các thế hệ con
cháu phải biết hướng về gốc gác, về nơi bén rễ, về cái nơi cho ta hình hài.
=> Bốn câu thơ như một bài ca dao đầy chất trữ tình thể hiện những băn khoăn, trăn trở của
người ở lại, của Việt Bắc thuỷ chung với cách mạng. Tố Hữu đã chọn được cách nói để khơi
nguồn cho cảm xúc, mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế tuôn chảy suốt bài thơ.
2.3. Bốn câu thơ: Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay...
Tiếng lòng của người ra đi
*Hai câu đầu:
- Trước những lời tha thiết của người ở lại, người ra đi không trực tiếp trả lời những
câu hỏi của người ở lại mà lắng nghe, rồi như tự nói với chính mình như một lời độc
thoại nội tâm trữ tình đầy sâu lắng. Đại từ "ai" tuy phiếm chỉ nhưng rất cụ thể, gần gũi,
thân thương và chỉ người ở lại. Cồn là hình ảnh gợi khơng gian núi rừng Việt Bắc. Trong
câu thơ hình ảnh người Việt Bắc hiện lên giữa không gian thiên nhiên quen thuộc cất lên
những lời tha thiết, nhớ thương. Người ra cũng cảm được nỗi lòng của người ở lại nên

24


trong lịng họ cũng trào dâng bao tình cảm nhớ thương, quyến luyến... Bởi vậy, đoạn thơ
trở thành lời đồng vọng của người đi và kẻ ở.
- Tố Hữu đã thể hiện thật tinh tế tâm trạng người về xuôi bằng hai từ láy: Bâng
khuâng và bồn chồn.
+“Bâng khuâng” là nhớ thương, lưu luyến, bịn rịn.
+ “Bồn chồn” diễn tả tâm trạng hồi hộp, day dứt, nơn nao.
Trong lịng cồn lên bao nỗi nhớ thương, không nỡ chia xa nên bước chân người ra đi trở
nên ngập ngừng, dùng dằng vừa muốn đi lại vừa muốn ở. Ai đó cũng đã diễn tả thật hay
tâm trạng ấy của người ra đi "Bước đi một bước lâu lâu lại dừng". Nghệ thuật tiểu đối kết
hợp với đảo ngữ vừa tạo chất nhạc, chất thơ ngọt ngào, vừa nhấn mạnh vào tâm tư với
nhiều cảm xúc rối bời trong lòng người ra đi.
*Hai câu sau:
- Lời người gợi lên cảnh một cuộc chia tay đầy lưu luyến bịn rịn. Trong đó "áo chàm" là biện
pháp nghệ thuật hốn dụ dùng hình ảnh chiếc áo màu chàm để chỉ người Việt Bắc, là cách dùng
bộ phận để chỉ tồn thể vì người Việt Bắc thường nhuộm và mặc áo màu chàm. Màu chàm là
màu sắc của núi rừng, bền bỉ, không hề phai nhạt như tình cảm mãi khơng bao giờ nhạt
phai. Màu áo chàm thể hiện phẩm chất của người Việt Bắc giản dị, mộc mạc, chịu thương
chịu khó và ân tình, thủy chung:
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm phấn son chẳng nhịa
Cuộc chia tay có những người dân Việt Bắc đầy ân nghĩa đưa tiễn, giãi bày tình cảm
nhớ thương. Người ra đi cũng chưa đi đã nhớ nhớ tiếng ai tha thiết, nhớ áo chàm, cồn
nhỏ, nhớ cảnh nhớ người và tình cảm của người ra đi cũng thật son sắc, thủy chung.
- Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hơm nay” là câu thơ gợi nhiều cảm xúc, là hình
ảnh có giá trị biểu cảm cao cho thấy người đi kẻ ở đều chung một nỗi niềm lưu luyến bịn
rịn khiến cảnh chia tay hiện lên thật cảm động. Cả người đi và kẻ ở đều có bao nhiêu điều
muốn nói, bao nhiêu tình cảm muốn giãi bày nhưng nghẹn ngào không cất nổi thành lời.

Và có lẽ ngơn ngữ cũng khơng đủ để diễn đạt bao nỗi nhớ thương nên im lặng cũng là
cách thể hiện tình cảm. Họ cầm tay nhau mà khơng biết nói gì nhưng trong cái cầm tay ấy
hẳn có bao nhiêu xúc động, nghẹn ngào. Đôi khi chỉ cần một cái cầm tay thơi đã đủ nói
lên tất cả. Giống như những người lính trong bài thơ của Chính Hữu vì thương nhau mà
nắm lấy tay nhau:
Áo anh rách vai
Quần tơi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân khơng giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
(Đồng chí - Chính Hữu)
Cái nắm tay trong bài thơ “Đồng chí” là để xiết chặt tình đồng đội, để cùng nhau
vượt lên trên gian khổ. Còn cái cầm tay trong cuộc chia ly này là tình cảm quân dân cá
nước, là mối quan hệ chân thành, bền chặt của cách mạng và nhân dân. Ba dấu chấm lửng
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×