Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.36 KB, 86 trang )

PHẦN MỘT LỜI NÓI ĐẦU
ừ sau đại hội Đảng VI đến nayđến nay, nền kinh tế nước ta đang từng
bước chuyển mạnh sang công nghiệp hoá, xây dựng một nền kinh tế
mở, hội nhập khu vực và thế giới.Việc cam kết thực hiện
CEPT/AFTA với tư cách là một thành viên của ASEAN, trở thành thành viên chính
thức của APEC tháng 11/1998 cũng như việc sẽ là thành viên của WTO trong tương
lai và việc ký kết đàm phán hiệp định thương mại Việt- Mỹ sắp tới. Mối quan hệ
thương mại này, bao giờ cũng mang tính cạnh tranh gay gắt, vừa là cơ hội vừa là
thách thức. Đó là khả năng sản xuất hàng hoá, dịch vụ đáp ứng đủ nhu cầu trước sức
ép cạnh tranh của các nước có nền công nghiệp tiên tiến trong khu vực và trên thế
giới.
T
Xét trên góc độ Ngành Dệt May Việt Nam, với sự nỗ lực cố gắng của các
doanh nghiệp, ước tính năm nay, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt-May có thể đạt tới
mức kỷ lục mới là 1,7 tỷ USD, đạt ngôi á quân về kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên
sau nhiều năm phấn đấu mới chỉ đạt 30%, mà theo đánh giá của Bộ Công Nghiệp,
nếu có thị trường xuất khẩu có thể đạt tới 2,5 - 2,7 tỷ $. Đành rằng về phương diện
công nghệ và thiết bị có tới 2/3 doanh nghiệp Dệt -May Việt Nam có thể sánh ngang
với các nước trong khu vực. Do đó Ngành Dệt May nói chung cũng như Công Ty
Dệt Hải Phòng nói riêng thực hiện thành công chiến lược thị trường, có đủ sức cạnh
tranh với hàng hoá nước ngoài cùng loại.
Lộ trình Việt Nam tham gia vào AFTA, APEC và WTO, là một cơ hội cũng
như thách thức lớn mang tính sống còn của mỗi doanh nghiệp tham gia xuất nhập
khẩu trong đó có Công Ty Dệt Hải Phòng . nước. Một trong những lĩnh vực không
thể thiếu giúp cho nền kinh tế có được một tốc độ phát triển nhanh và ổn định đó là
phát triển ngành sản xuất công nghiệp. Việt Nam với nền tảng phát triển là một nền
nông nghiệp lạc hậu, cơ sở hạ rong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, đã
buộc chúng ta phải đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất tầng thấp
kém, cộng thêm áp lực dân số thì những ngành có hàn lượng khoa học kỹ thuật thấp
Trang 1
như ngành công nghiệp nhẹ trong công nghiệp chế biến mà đặc biệt là công nghiệp


dệt may.
Thực tế trong những năm vừa qua, đã khảng định vị thế của ngành Dệt may
Việt Nam, là một trong những ngành xuất khẩu mang lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu
cho quá trình công nghiệp hoá đất nước. Ngành dệt may cũng là một trong những
ngành đạt chỉ tiêu tổng kim ngạch trên một tỷ USD của Việt Nam là ngành đứng thứ
hai về tổng kim ngạch xuất khẩu trong những năm qua. Tuy nhiêm, cùng với sự phát
triển đi lên của ngành dệt may thì những doanh nghiệp trong nước tham gia vào hoạt
động xuất khẩu trong đó có công ty Dệt Hải Phòng cũng bộc lộ không ít những
khuyết điểm mà trong thời gian tới cần có biện pháp khác phục.
Trong quá trình thực tập, tìm hiểu hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá tại
Công Ty Dệt Hải Phòng với sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo, các phòng ban trong
Công ty, cùng với sự nghiên cứu nghiệp vụ có chọn lọc cũng như ý muốn đóng góp
một phần nhỏ kiến thức của mình vào giải quết những khó khăn trong công ty, tôi đã
chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xuất khẩu
tại Công Ty Dệt Hải Phòng ” với kết cấu của luận văn bao gồm các phần:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
Chương II : Thực trạng xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng .
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu tại Công Ty Dệt
Hải Phòng .


Trang 2
Trang 3
PHẦN HAI PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
I. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU .
1. VỊ TRÍ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG DOANH NGHIỆP.
uất khẩu là việc cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài
trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt

động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá (Bao
gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Như vậy, Xuất khẩu là
hoạt động tiêu thụ hàng hoá nhưng nó vượt qua khỏi biên giới quốc gia.
X
Đứng trên góc độ của quá trình sản xuất kinh doanh thì xuất khẩu là một
khâu quan trọng và là mục tiêu của sản xuất kinh doanh. Xuất khẩu làm tăng hiệu
quả của sản xuất kinh doanh, nếu tổ chức tốt sẽ kích thích sản xuất góp phần làm
phát triển doanh nghiệp. Trong quá trình vận động của vốn (tiền) xuất khẩu cũng
như tiêu thụ vừa là giai đoạn cuối cùng vừa là giai đoạn kết thúc của quá trình tái
sản xuất này để tiếp tục vận động sang một quá trình sản xuất khác trong vòng tuần
hoàn vốn.

Tư liệu lao động
Quá trình sản xuất Quá trình tiêu thụ (xuất khẩu )

Trong đó T: Tiền
H: Hàng
Ở tầm vĩ mô : Để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc
đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước còn tạo điều kiện môi trường pháp lý thuận lợi cho
Trang 4
(T-H) Đối tượng lao
đđộng
(T-H)
Đối
các doanh nghiệp hoạt động bằng các chính sách khuyến khích như: chính sách đầu
tư, chính sách ưu đãi, các hàng rào thuế quan, phi thuế quan ...thông qua đó để điều
tiết các ngành kinh tế mũi nhọn góp phần vào công cuộc Hiện đại hoá đất nước.
2. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU
- Xuất khẩu là một khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội và có các chức
năng chủ yếu sau:

+ Tạo vốn cho quá trình đầu tư trong nước bởi xuất khẩu tạo ra nguồn thu
ngoại tệ chủ yếu cho quốc gia.
+ Chuyển hoá giá trị sử dụng, làm thay đổi cơ cấu vật chất giá trị sử dụng
của tổng sản phẩm xã hội.
+ Góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng việc tạo môi trường
thuận lợi cho sản xuất kinh doanh .
- Xuất khẩu thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá từ trong nước sang các
nước khác và có nhiệm vụvai trò chủ yếu sau:
+ Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy quá trình Công nghiệp hoá đất
nước. Trong nền kinh tế mở, xuất khẩu còn được sử dụng như một công cụ thúc đẩy
quá trình liên kết kinh tế ở trong nước và nước ngoài, thúc đẩy sự tăng trưởng của
nền kinh tế nội bộ trong nước thông qua các hoạt động xuất khẩu .
+ Góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội quan trọng của đất
nước: vốn, việc làm, sử dụng tài nguyên có hiệu quả. Ở nước ta hiện nay, nền kinh
tế còn lạc hậu việc xuất khẩu chủ yếu là tài nguyên thô hoặc qua sơ chế và các sản
phẩm nông, lâm, thuỷ sản, tỷ trọng hàng công nghiệp chưa cao.Trong đó chủ yếu là
các mặt hàng mang tính lao động thuần tuý như các sản phẩm dệt may, thủ công mỹ
nghệ...
+ Đảm bảo sự thống nhất giữa nền kinh tế và chính trị trong hoạt động xuất
khẩu. Nền kinh tế quốc tế cũng như nền kinh tế ở mỗi nước vận động theo nhiều xu
Trang 5
hướng chung và cũng có nhiều lợi ích giống nhau, song cũng có những tiềm năng và
những xu hướng bất ổn, cho nên sức mạnh của một nền kinh tế nền tảng phải là sự
độc lập chủ quyền an ninh quốc gia. Đối với nước ta cần phát huy hết lợi thế có sẵn
và tạo ra những chỗ đứng mới trên những thị trường ổn định.
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG XUẤT
KHẨU
Công tác xuất khẩu liên quan đến nhu cầu thị trường, tập quán tiêu dùng
trong và ngoài nước cũng như các chính sách thuế quan, phi thuế quan của nhà nước
ở các mức độ khác nhau trong đó gồm:

1.CÁC NHÂN TỐ KHÁCH QUAN
1.1 Yếu tố cung cầu của thị trường .
CĂN CỨ VÀO TỪNG CHỦ THỂ THAM GIA NHẤT ĐỊNH MÀ CÓ THỂ
CHIA THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI THÀNH: THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ KHU VỰC,
THỊ TRƯỜNG TRONG TỪNG TỔ CHỨC KINH TẾ QUỐC TẾ (THỊ TRƯỜNG
EU, THỊ TRƯỜNG CÁC NƯỚC ASEAN...). MỞ mỗi thị trường nhu cầu sản phẩm
lại thường rất khác nhau về chất lượng, quy cách cũng như mẫu mã. Do đó đòi hỏi
mỗi doanh nghiệp khi muốn thâm nhập vào thị trường nào cần phải nghiên cứu kỹ
đặc điểm tiêu dùng của thị trường đó.
Vi dụ: Nhật Bản được coi là một trong những nước trên thế giới đòi hỏi chất
lượng sản phẩm cao nhất, gồm cả độ bền và khả năng hoạt động. Thị hiếu của người
tiêu dùng bắt chủ yếu bắt nguồn từ truyền thống và điều kiện của Nhật Bản,. Đây là
trở thành yếu tố quan trọng trong việc quyết định tiêu dùng sản phẩm hàng hoá. Do
khủng hoảng kinh tế gần đây nên người tiêu dùng Nhật Bản thích mua hàng hoá có
giá trị hợp lý. nhưngTuy nhiên xét về mặt chất lượng hàng hoá tiêu dùng thì người
Nhật Bản có đòi hỏi cao nhất trên thế giới....
Sau khi nắm vững các thói quen, tập quán tiêu dùng ở mỗi thị trường doanh
nghiệp phải có chiến lược cạnh tranh một cách hoàn hảo. Thị trường ở mỗi nước có
Trang 6
thể biến động tuỳ theo thu nhập của người dân, tập quán, thị hiếu tiêu dùng cũng
như những biến động ở từng thời kỳ.
1.2 Yếu tố về hàng rào thuế quan, phi thuế quan.
Thuế quan là loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá khi qua cửa khẩu của một
nước.Trên thực tế khi đánh thuế có hai mục đích: có thể là mục đích tài chính và
cũng có thể là mục đích bảo hộ,. cCả hai mục đích này đều có ảnh hưởng to lớn đến
việc xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp vào một nước khác.
Thuế quan tài chính thông thường đánh vào những hàng hoá xuất khẩu có lợi
nhuận cao hay những hàng hoá không được khuyến khích .
Thuế quan bảo hộ chủ yếu đánh vào những hàng hoá nhập khẩu, làm tăng
giá của hàng nhập để hàng hoá trong nước có ưu thế hơn về giá cả của so với đối

thủ cạnh tranh., tThuế quan bảo hộ là công cụ sắc bén tạo điều kiện thuận lợi cho
các doanh nghiệp trong nước tăng nhanh sản xuất.
Khi nhà nước tăng thuế nhập khẩu, thông thườương sẽ làm cho khối lượng
hàng hoá nhập khẩu giảm do giá hàng tăng hạn chế tiêu dùng. Nhưng trong một số
trường hợp sẽ làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tăng lên mà số lượng hàng
nhập khẩu lại không giảm, và ngược lại.
Khi thuế suất xuất khẩu tăng sẽ hạn chế xuất khẩu do giá bán hàng hoá ra thị
trường cao không đủ sức cạnh tranh với hàng nước khác., bBiện pháp này nhà nước
thường áp dụng với những hàng hoá không khuyến khích xuất khẩu. vVà ngược lại.
Trên thực tế, thuế quan bảo hộ không phải bao giờ cũng có tác dụng hạn chế
nhập khẩu, c. Cho nên ngoài biện pháp đó nhà nước còn dùng các biện pháp phi
thuế quan khác để hạn chế nhập khẩu, chúng gồm:
+ Quản lý hàng nhập khẩu bằng hạn ngạch: Biện pháp này nhằm chống lại
những nhà sản xuất lớn có khả năng cạnh tranh cao, mục đích nhằm ngăn chặn hàng
nhập khẩu từ nước ngoài vào để bảo vệ thị trường trong nước hoặc nhằm cân bằng
cán cân thanh toán, hoặc làm công cụ mặc cả trong các cuộc thương lượng, cũng có
Trang 7
thể dùng để hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng mang tính chiến lược của nền kinh
tế xã hội. Ví dụ: như gạo ở Việt Nam hiện nay.
+ Giấy phép nhập khẩu: Tính chất kín đáo và bí mật của giấy phép cũng như
thủ tục cấp giấy phép của chính quyền nhà nước cũng tạo khả năng hạn chế nhập
khẩu nhằm bảo hộ hàng trong nước.
+ Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu khác: Bên cạnh những biện pháp hạn
chế nhập khẩu trực tiếp, Nhà nước còn dùng một số biện pháp gián tiếp nhằm ngăn
cản việc nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài như: Biện pháp về vệ sinh thú y, vệ sinh
thực phẩm, hoặc các tiêu chuẩn về kỹ thuật như tiêu chuẩn về kích thước, bao bì,
những tiêu chuẩn về môi trường sinh thái.
Các yếu tố về thuế quan, phi thuế quan có ảnh hưởng rất lớn đến việc xuất
khẩu của một doanh nghiệp vào một thị trường nước ngoài, cho nên trước khi thâm
nhập hàng hoá vào một thị trường nào doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ chính

sách thuế quan, phi thuế quan của nước đó.
1.3 Tín dụng xuất khẩu .
Tín dụng xuất khẩu tức là nhà nước dành cho người nước ngoài những khoản
tín dụng để mua hàng nước mình. Nhà nước không chỉ trực tiếp can thiệp vào thị
trường tín dụng mà còn tạo điều kiện tín dụng xuất khẩu ưu đãi hơn so với điều kiện
tín dụng trong nước. Điều đó làm khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp trong
nước tăng lên. Ngoài ra, Nhà nước đảm bảo gánh vác mọi rủi ro đối với khoản tín
dụng mà doanh nghiệp xuất khẩu nước mình dành cho nhà nhập khẩu nước ngoài.
Đây là phương tiện quan trọng đẩy mạnh việc tiêu dùng hàng hoá ở thị trường nước
ngoài. Nó làm cho nhà xuất khẩu yên tâm và mở rộng xuất khẩu ra thị trường nước
ngoài mà không sợ gặp sự rủi ro.
1.4 Yếu tố về tỷ gía hối đoái.
Trong tình hình nền kinh tế mở rộng cửa, các mối quan hệ kinh tế ngày càng
rộng thì việc thanh toán không chỉ là đơn vị tiền tệ trong nước mà còn phải sử dụng
Trang 8
nhiều loại ngoại tệ khác nhau, từ đó phát sinh nhu cầu tất yếu phải so sánh giá trị, so
sánh sức mạnh đồng tiền trong nước và đồng ngoại tệ, đó là tỷ giá hối đoái. Như
vậy, tỷ giá hối đoái dùng để biểu hiện và so sánh những quan hệ về giá cả giữa các
đồng tiền một nước được biểu hiện qua đơn vị tiền tệ của nước khác. Do đó hoạt
động xuất khẩu chịu ảnh hưởng rất lớn của tỷ giá hối đoái. Ví dụ như khi tỷ giá hối
đoái tăng nghĩa là giá trị đồng nội tệ giảm so với đồng ngoại tệ sẽ hạn chế khuyến
khích xuất khẩu và tăng hạn chế nhập khẩu và ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm thì
sẽ hạn chếtăng nhập khẩu và tănghạn chế xuất khẩu.
Có hai loại tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái thực tế và Tỷ giá hối đoái danh
nghĩa.
Tỷ giá hối đoái thực tế có mục đích điều chỉnh mức lạm phát và để phản ánh
những biến đổi thực tế trong khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của một
quốc gia.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá được thông báo trên các phương tiện
thông tin đại chúng hay do ngân hàng công bố.

Để khuyến khích xuất khẩu nhà nước có thể dùng chính sách phá giá hối đoái
làm cho giá bán ở thị trường nước ngoài có thể thấp hơn giá của đối thủ cạnh tranh,
do vậy mà đẩy mạnh xuất khẩu, và nhà xuất khẩu sẽ thu được lợi nhuận ngoài ngạch
cao hơn.
Trang 9
2- CÁC NHÂNYẾU TỐ CHỦ QUAN
2.1 Năng lực tổ chức và trình độ cán bộ làm xuất khẩu:
Đây là một yếu tố rất quan trọng có tính quyết định rất lớn trong quá trình
nâng cao doanh thu bán hàng cũng như tìm kiếm lợi nhuận, nó bao gồm các khâu tổ
chức tiêu thụ sản phẩm, tiếp thị, chính sách bán hàng.
Trình độ của cán bộ làm công tác xuất khẩu sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm
các rủi ro trong quá trình thực hiện các công tác đàm phán ký kết hợp đồng, cũng
như việc tác nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thực tế hiện nay trong một
số doanh nghiệp đội ngũ cán bộ làm công tác tác nghiệp vừa yếu cả về chuyên môn
lẫn ngoại ngữ, nên điều dễ hiểu là nhiều hợp đồng xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp Việt Nam ký với nước ngoài bị rất nhiều sơ hở, yếu kém làm thua thiệt cho
phía Việt Nam. Chính vì vậy, việc tổ chức và nâng cao trình độ của cán bộ làm công
tác xuất khẩu rất cần thiết cho các doanh nghiệp.
2.2./ Công nghệ và thiết bị công nghệ.
Công nghệ bao gồm cả công tác công nghệ và phương tiện kỹ thuật được ký
kết với nhau theo hình thức thích hợp, trong đó máy móc thiết bị kỹ thuật là phương
tiện kỹ thuật để thực hiện phương pháp công nghệ.
Dây chuyền công nghệ và máy móc thiết bị ảnh hưởng rất lớn tới cơ cấu của
sản xuất, đồng thời nó quyết định tới chất lượng sản phẩm và việc thay đổi cải tiến
sản phẩm. Ngoài ra nó còn thúc đẩy việc tăng năng suất lao động. Khi máy móc
thiết bị của doanh nghiệp hiện đại, phù hợp với năng lực hiện có của mình thì sẽ làm
cho hàng hoá có chất lượng cao, mẫu mã đẹp... và ngược lại với trường hợp máy
móc thiết bị lạc hậu hoặc quá hiện đại không thể áp dụng sẽ làm cho hàng hoá sản
xuất ra không tiêu thụ được,. Như vậy có thể kết luận là trình độ và khả năng công
nghệ là một loại vũ khi sắc bén để thành công trong cạnh tranh với các sản phẩm

cùng loại trên thị trường. Một dây chuyền công nghệ và máy móc thiết bị lạc hậu
Trang 10
không thể sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, có nhiều tính năng đáp
ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường.
2.3./ Trình độ lành nghề và bậc thợ của công nhân.
Trình độ tay nghề của công nhân phản ánh tính chất chuyên môn hoá, trình
độ thành thạo nghề nghiệp. Nếu trình độ người làm công tác xuất khẩu kém sẽ làm
cho doanh nghiệp thua thiệt trong đàm phán ký kết hợp đồng cũng như thực hiện
hợp đồng xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp.. Không những thế nếu trình độ
nghề nghiệp của công nhân cao hơn mức yêu cầu của công việc được bố trí sẽ gây
lãng phí trong việc sử dụng lao động, và ngược lại sẽ ảnh hưởng đến năng suất lao
động và chất lượng sản phẩm. Cho nên vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải
bố trí được một cơ cấu lao động tối ưu nhằm sử dụng có hiệu qua nguồn lao động
đồng thời phải thường xuyên tổ chức công tác đào tạo tay nghề cho cán bộ công
nhân viên, và luôn luôn coi đó là nhiệm vụ thường xuyên của mọi doanh nghiệp.
2.4./ Giá sản phẩm.
Giá sản phẩm là biểu hiện tổng hợp của nhiều mối quan hệ kinh tế trên thị
trường (Vấn đề cung cầu, lưu thông tiền tệ), c. Chính vì vậy mà giá thành sản phẩm
ảnh hưởng rất lớn tới khối lượng hàng hoá xuất khẩu và lợi nhuận của các doanh
nghiệp. Muốn có một sản phẩm có giá trị cạnh tranh tốt đồng thời có lợi nhuận phù
hợp thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một giá bán thích hợp với thị trường. Muốn
xác định giá bán này doanh nghiệp phải căn cứ vào giá bình quân của giá thị trường,
giá đó được tính như sau:

Trang 11
Sản lượng bình quân
SẢN LƯỢNG
Giá bình quân
cCung
cCầu

GIÁ
GIÁ CẦU CUNG
GIÁ BÌNH QUÂN


Sản lượng bình quân Sản lượng
Nếu giá bán giá cao hơn giá bình quân của thị trường thì sản phẩm - hàng hoá
có thể bán được với số lượng ít thậm chí không bán được một sản phẩm nào.
Nếu bán với giá thấp hơn giá thị trườngbình quân thì lợi nhuận của doanh
nghiệp có thể bị giảm xuống hoặc không có lợi nhuận ( lỗ vốn).
Từ đó ta thấy muốn bán giá thấp hơn mà không ảnh hưởng tới lợi nhuận,
doanh nghiệp phải tăng doanh số bán hàng, ngoài ra phải phấn đấu giảm chi phí các
yếu tố đầu vào như tiết kiệm vật tư, tăng năng suất lao động, hạn chế phế phẩm,
hoàn thiện bộ máy quản lý, thay đổi quy trình công nghệ.
- Chất lượng hàng hoá và mẫu mã sản phẩm được người tiêu dùng rất quan
tâm tuỳ thuộc vào thị trường mỗi nước, mà. Các loại mẫu mã và chất lượng sản
phẩm lại tuỳ thuộc vào tập quán người tiêu dùng cũng như phù hợp cho từng
lứatheo lứa tuổi.
Do mức thu nhập bình quân ở mỗi nước là rất khác nhau nên thông thường ở
các nước càng phát triển thì sự đòi hỏi về mẫu mã, chất lượng càng cao và càng khắt
khe.
2.5./ Các biện pháp về hỗ trợ xuất khẩu.
Biện pháp hỗ trợ xuất khẩu bao gồm các hoạt động quảng cáo khuyết trương,
tiếp thị thông qua phương tiện thông tin đại chúng, hội chợ triển lãm. Đây thực sự là
một hoạt động rất cần thiết để mở rộng thị trường xuất khẩu. Thực chất của hoạt
Trang 12
động này là tạo ra và sắp xếp các mối quan hệ trong kinh doanh vào một hệ thống
đồng thời giải quyết các mối quan hệ đó, kích thích động viên người tiêu dùng mua
hàng. Làm tốt công việc này doanh nghiệp sẽ đem lại :
+ Thế lực trong kinh doanh, tạo nhu cầu mới, tạo uy tín cho sản phẩm đối với

người tiêu dùng.
+ Tăng doanh số bán hàng, giảm lượng hàng hoá tồn kho, ứ đọng không cần
thiết.
+ Hỗ trợ công tác bán hàng xuất khẩu .
+ Kích thích nhu cầu tiêu dùng.
Trang 13
III. NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1./ TÌM HIỂU NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG .
Trong kinh doanh nói chung không thể tách sản xuất với lưu thông vì hai
khâu này gắn liền với nhau, thúc đẩy nhau phát triển, một khâu trong quá trình kinh
doanh bị ách tắc sẽ gây cản trở đối với các khâu khác trong cả một hệ thống. Một
trong những nguyên nhân làm cho sản phẩm hàng hoá bị ứ đọng là do giá thành cao,
chất lượng kém, giá cả không được người mua chấp nhận. Theo nhiều nhà kinh
doanh có kinh nghiện thì ngay trong quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất sản phẩm
thì cũng đồng nghĩa với việc tiến hành nghiên cứu thị trường để khi hàng hoá được
sản xuất ra tiêu thụ một cách thuận lợi. Như vậy không những phải tìm hiểu thị
trường trong nước mà còn phải mở rộng ra nghiên cứu thị trường nước ngoài.
1.1./ Các phương pháp nghiên cứu thị trường nước ngoài.
Khi nghiên cứu thị trường cần phải sử dụng những phương pháp thích hợp
cũng như những cán bộ có năng lực và thích hợp với chuyên ngành của họ. Có thể
sử dụng nhiều phương pháp khác nhau nhưng có hai phương pháp chủ yếu đó là
phương pháp nghiên cứu thị trường nước ngoài thông qua nghiên cứu tại bàn làm
việc và phương pháp nghiên cứu trực tiếp trên thị trường nước ngoài.
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn làm việc là việc nghiên cứu thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng như sử dụng các loại báo chí, tạp chí, các loại ấn
phẩm thường là các tạp chí kinh tế xuất bản định kỳ hoặc không định kỳ, các loại
sách chuyên khảo, các bản thống kê, các thông báo của các công ty môi giới.
Phương pháp này có ưu thế là chi phí thấp, tiết kiệm thời gian nhưng thông tin
không cập nhập, dễ làm mất cơ hội trong kinh doanh.
- Nghiên cứu trực tiếp ở thị trường nước ngoài là cách nghiên cứu ngay tại

thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây là phương pháp nghiên cứu rất phức tạp và tốn
kém nhưng nó lại là phương pháp mang lại hiệu quả thiết thực nhất, mang lại thông
tin cập nhập, giúp cho doanh nghiệp có thể chớp cơ hội để thành công trong cạnh
Trang 14
tranh. Bởi nghiên cứu tiếp xúc trực tiếp với thị trường có thể tạo được các quan hệ
trực tiếp với người mua hàng, bán hàng tìm hiểu và mua các mẫu hàng về để nghiên
cứu sản xuất, xuất khẩu.
Ngoài ra các doanh nghiệp còn sử dụng các phương thức bán thử để tìm hiểu
tình hình thị trường hàng hoá, qua đó người xuất khẩu có điều kiện nghiên cứu toàn
diện. Phương pháp này sẽ tạo thuận lợi lâu dài nếu tìm được thị trường. Sau khi bán
thử, thu thập thông tin về hàng của mình, cải tiến để xuất khẩu lớn hơn, phù hợp
hơn .
1.2./ Các hình thức tổ chức nghiên cứu thị trường nước ngoài .
Trong công cuộc đổi mới cơ chế quản lý ở nước ta, việc đổi mới cơ chế xuất
nhập khẩu là một hướng đi đúng đắn và quan trọng, việc nghiên cứu thị trường thế
giới thể hiện sự hiểu biết về quy luật vận động của nó. Quy luật này thể hiện qua
những biến đổi về nhu cầu, cung ứng giá cả hàng hoá cụ thể trên thị trường. Việc
hiểu biết về quy luật của thị trường hàng hoá là để giải quyết những vấn đề liên
quan như thái độ tiếp thu của người tiêu dùng, yêu cầu của thị trường đối với những
hàng hoá mới sẽ được tiêu thụ, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, những biện
pháp và hình thức thâm nhập, chiếm lĩnh thị trường.
Trong việc thực hiện chiến lược xuất khẩu sản phẩm hàng hoá cần phải xác
định thị trường nào là thị trường trọng điểm, tiêu thụ nhiều sản phẩm hàng hoá của
doanh nghiệp mình, và thị trường đó có cơ hội và những điều kiện thuận lợi để tăng
khối lượng hàng xuất khẩu, thu được lợi nhuận cao hơn hay không?. Ngoài ra, việc
nghiên cứu thị trường nước ngoài còn phải thu thập những thông tin về các chế độ
kiểm tra chất lượng sản phẩm hàng hoá theo từng bước, t. Trong việc giao dịch
thương mại với các nước còn phải tìm hiểu rõ các chính sách về thuế quan và nhập
khẩu của họ.
Sự cạnh tranh trên thị trường nói chung ngày càng gay gắt. Việc nghiên cứu

thị trường còn phải xác định đầy đủ vị trí và sự hoạt động của đối thủ cạnh tranh,
tức là đánh giá được khả năng kinh tế, khoa học kỹ thuật của các đối thủ cạnh tranh,
Trang 15
đánh giá, xem xét các chiến lược thị trường, việc tổ chức, phục vụ khách hàng,
chiến lược quảng cáo, cố vấn kỹ thuật, điều kiện bán hàng trên cùng thị trường của
đối thủ cạnh tranh. Từ đó doanh nghiệp có thể xây dựng chiến lược xâm nhập thị
trường thích hợp.
Việc nghiên cứu thị trường nước ngoài được vận dụng để xác định chiến
lược kinh doanh nói chung và chiến thuật của người xuất khẩu hàng hoá trong hoạt
động kinh tế đối ngoại nói riêng. Khi đã dự đoán được xu hướng phát triển của thị
trường nước ngoài mà trước hết là xu hướng biến động về giá cả hàng hoá, người
xuất khẩu cần xác định chiến lược kinh doanh như: Nếu giá cả hàng hoá có xu
hướng tăng thì ta sẽ không bán ra vội vàng hoặc không bán hàng hoá với khối lượng
lớn mà để cho mức tăng của giá cả đến một mức nhất định mới bán hàng thì như
vậy doanh nghiệp mới thu được lợi nhuận cao trong những lúc giá cả hàng hoá có
xu hướng tăng. Còn ngược lại, khi giá cả có xu hướng giảm thì phải nhanh chóng
bán hàng để tránh tình trạng thua lỗ, và nhiều khi cần áp dụng những phương thức
khác như bán hạ giá để bán với khối lượng lớn khi giá chưa kịp hạ.
Trong quá trình nghiên cứu thị trường nước ngoài, việc cần nắm vững những
vấn đề quan trọng như: Làm cách nào để thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng quá
trình tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá đã có sẵn trên thị trường truyền thống của
doanh nghiệp. Nghiên cứu hàng hoá và dịch vụ để đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng
hoá mới, hoặc hàng hoá được đổi mới trên thị trường truyền thống và đẩy mạnh quá
trình tiêu thụ hàng hoá có sẵn trên thị trường mới và nghiên cứu quá trình sản xuất
có sản phẩm hàng hoá mới đưa ra tiêu thụ trên thị trường mới.
Việc nghiên cứu thị trường và công tác Marketing ngày nay đang giữ vị trí
quan trọng trong điều kiện cạnh tranh giành thị trường gay gắt. Marketing trên thị
trường nước ngoài thường hay được các công ty lớn quan tâm, họ coi đây là điều
kiện tiên quyết trong việc giành thắng lợi trong cuộc chạy đua giành thị trường. Đối
với đơn vị kinh doanh đối ngoại do rủi ro trên thị trường nước ngoài cao cho nên

việc nghiên cứu thị trường nước ngoài có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Trang 16
2- CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU.
Chính sách giá cả cũng như tổ chức phương án xuất khẩu của doanh nghiệp
có hai mục đích chính là tăng khối lượng hàng hoá bán ra và lợi nhuận thu về. Tuỳ
theo từng thị trường, từng sản phẩm cụ thể, doanh nghiệp cần có những phương án
bán hàng cũng như phương án xuất khẩu phù hợp với từng thị trường, từng nhóm
khách hàng sao cho vừa linh hoạt vừa hiệu quả.
Việc lên phương án phân phối các kênh tiêu thụ về mặt lý luận cũng như
thực tiễn cần phải có một phương án hợp lý mới mang lại hiệu quả kinh doanh to
lớn trong công tác xuất khẩu. Không phải lúc nào doanh nghiệp cũng phải trực tiếp
xuất khẩu mới mang lại hiệu quả kinh tế cao, mà theo kinh nghiệm ở một số nước
phát triển cho thấy muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá các doanh nghiệp sản xuất
phải phối hợp chặt chẽ với các công ty môi giới bán hàng, các đại lý uỷ thác. Tuy
nhiên tuỳ thuộc vào mô hình quản lý, trình độ nghiệp vụ cũng như khả năng xúc tiến
bán hàng mà mỗi doanh nghiệp có thể đồng thời tổ chức nhiều phương thức xuất
khẩu khác nhau .
2.1./ Xuất khẩu trực tiếp kh ô ng th ô ng qua trung gian .
Phương thức này thích hợp với những doanh nghiệp có mô hình sản xuất lớn.
Ở đây, doanh nghiệp tự tổ chức xuất khẩu với khách hàng nước ngoài không thông
qua môi giới trung gian. Phương thức này có ưu điểm là doanh nghiệp có điều kiện
tiếp xúc trực tiếp với thị trường, với khách hàng. Do đó hiểu biết rõ nhu cầu về mẫu
mã, chất lượng sản phẩm, các đòi hỏi về sự phù hợp giá cả, từ đó doanh nghiệp có
những chính sách thay đổi một cách kịp thời về sản phẩm, về giá thành sao cho đáp
ứng một cách kịp thời đầy đủ các đòi hỏi của người tiêu dùng vào từng thời điểm
khác nhau trên những thị trường cụ thể. áp dụng phương thức này doanh nghiệp có
thể tiết kiệm được chi phí bởi không phải mất chi phí trung gian do đó thu được lợi
nhuận cao hơn. Tuy nhiên nó có nhược điểm là mạng lưới tiêu thụ hẹp, không độc
quyền được thị trường, chịu rủi ro lớn.
Trang 17

2.2./ Xuất khẩu theo phương thức uỷ thác (Phương thức mua bán qua trung
gian).
Việc xuất khẩu thông qua một đơn vị khác có điều kiện thuận lợi hơn trong
việc tiến hành xuất khẩu (Trong trường hợp này đơn vị được uỷ thác phải là đơn vị
được phép xuất nhập khẩu trực tiếp). Bán hàng qua đại lý thông thường có hai loại:
Đại lý bán buôn và đại lý bán lẻ. Việc buôn bán hàng hoá xuất khẩu mang danh
nghĩa của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải trả một tỷ lệ % cho các đại lý trên cơ sở
số hàng bán thực tế để đẩy mạnh doanh số bán hàng, thông thường có một số đại lý
có thể vừa là đại lý bán buôn vừa là đại lý bán lẻ.
Đặc điểm của phương thức xuất khẩu qua uỷ thác hay qua đại lý là đều phải
qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định. Vì vậy doanh nghiệp cần
phải lựa chọn kênh phân phối cho phù hợp với khả năng của chính mình sao cho đạt
hiệu quả cao nhất, tiết kiệm được chi phí, thu hồi vốn nhanh, doanh số bán hàng
tăng, thị trường bán hàng được mở rộng thuận lợi trong quá trình xuất khẩu của
mình.
2.3./ Tái xuất khẩu:
Tái xuất khẩu là hình thức giao dịch trong đó hàng hoá mua về được xuất
khẩu đi để kiếm lời không phải để tiêu dùng trong nước.
Mua bán theo hình thức này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất
nhập khẩu. Bởi không phải lúc nào hàng hoá cũng được xuất khẩu một cách trực
tiếp, hoặc thông qua trung gian, như trường hợp bị cấm vận, bao vây kinh tế thì chỉ
có thể sử dụng phương pháp tái xuất thì các nước mới có thể tham gia buôn bán
được với nhau. Thêm vào đó nước tái xuất có thể kiếm lời thông qua chênh lệch giá
mua và giá bán.
2.4./ Hình thức xuất khẩu thông qua gia công xuất khẩu.
Trang 18
Gia công xuất khẩu là hình thức một bên nhận nguyên liệu, bán thành phẩm,
linh kiện, phụ tùng đem về sản xuất chế biến thành dạng hoàn chỉnh hơn rồi giao lại
cho phía bên kia để hưởng một khoản tiền thù lao gọi là phí gia công.
Hình thức này mang lại cho nước gia công cũng như nước thuê gia công

nhiều lợi ích. Thứ nhất nước gia công có thể nhận được những khoản tiền thù lao,
giải quyết công ăn việc làm trong khi không có đủ điều kiện sản xuất hàng hoá xuất
khẩu cả về vốn, công nghệ, nước nhận có thể tạo uy tín với trường thế giới... Thứ
hai những nước thuê gia công có thể tận dụng được lao động của các nước nhận gia
công, có thể thâm nhập được thị trường nước nhận gia công...
2.5./ Xuất khẩu thông qua hội chợ triển lãm.
Hoạt động xuất khẩu qua hội chợ triển lãm ngày nay rất phổ biến, các doanh
nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp thương mại rất có điều kiện giới thiệu quảng
cáo và kích thích bán hàng khi tham gia vào hội chợ triển lãm. Nhiều công ty qua
hội chợ triển lãm có thể mở rộng thị trường nhiều nước mà trước đó doanh nghiệp
chưa có điều kiện bán hàng. Việc bán hàng xuất khẩu thông qua hội chợ triển lãm là
một phương thức quảng cáo mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp, giảm các chi
phí.
IV./CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
Trong cơ chế hạch toán kinh doanh hiện nay, chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh là
chỉ tiêu duy nhất có tính chất pháp lệnh để đánh giá hiệu quả trong sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp.
Lợi nhuận (Lãi, lỗ) = Doanh thu bán hàng xuất khẩu - (Giá vốn hàng hoá + Chi phí
bán hàng + Chi phí quản lý doanh nghiệp +Thuế).
Lợi nhuận = Doanh số x Tỷ suất lợi nhuận
Nội dung của hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu
bao gồm các khoản sau:
Trang 19
- Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cơ bản.
- Hiệu quả kinh doanh ngoài xuất khẩu.
- Hiệu quả kinh doanh sản xuất phụ.
Tổng các hiệu quả trên là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trang 20
1./ C HỈ TIÊU VỀ TỈ SUẤT LỢI NHUẬN.
- Việc phân tích các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận sẽ giúp doanh nghiệp nhận biết

được khả năng sinh lợi trên một số lĩnh vực kinh doanh. Từ đó mà doanh nghiệp có
biện pháp kinh doanh trong kỳ tới. Các chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận được tính bằng các
công thức sau:

T
PF
: Tỷ suất lợi nhuận của chi phí bán hàng
T
F
: Tổng chi phí bán hàng xuất khẩu
T
P
: Tổng lợi nhuận bán hàng xuất khẩu
Ý nghĩa: Cứ một đồng chi phí bán hàng thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
T
PV
: Tỷ suất doanh lợi vốn sản xuất kinh doanh.
V
L
:Vốn lưu động.
V
C
: Vốn cố định.
T
P
:Tổng chi phí bán hàng.
Ý nghĩa: Cứ một đồng vốn sản xuất kinh doanh thì có bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu:

T
P
: Tổng lợi nhuận.
T
D
: Tổng doanh thu bán hàng.
Trang 21
T
P
T
F
T
PF
=
x 100%
T
P
(V
C
+ V
L
)
T
PV
=
x 100%
T
P
T
D

T
PD
=
x100
%
Ý nghĩa: Cứ một đồng doanh thu bán hàng thì có bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Sau khi tiến hành phân tích cả ba chỉ tiêu trên giữa các kỳ với nhau hoặc giữa
các doanh nghiệp khác nhau nhưng sản xuất những sản phẩm cùng loại. Nếu các chỉ
tiêu tỷ suất này của doanh nghiệp càng lớn thì chứng tỏ khả năng sinh lời trên lĩnh
vực kinh doanh của doanh nghiệp càng cao và ngược lại nếu các chỉ tiêu trên mà
thấp thì chứng tỏ khả năng sinh lời càng thấp, sau đó phân tích các nhân tố ảnh
hưởng và đề ra những biện pháp để tăng lợi nhuận trong kỳ kinh doanh tới. Qua
phân tích ba chỉ tiêu sẽ cho ta thấy việc kinh doanh hàng hoá xuất khẩu lỗ hay lãi.
Khả năng sinh lời hoặc lỗ do các nhân tố nào tạo ra, nó có phải từ chi phí bán hàng
cao (thấp), doanh thu, thuế cao (thấp)... để từ đó có biện pháp phát huy những mặt
mạnh, hạn chế những mặt còn tồn đọng và tìm ra biện pháp thích hợp để giải quyết.
Trang 22
2./ CHẤT LƯỢNG HÀNG HOÁ XUẤT KHẨU.
Trong các doanh nghiệp sản xuất nói chung và doanh nghiệp sản xuất hàng
xuất khẩu nói riêng thông thường có hai loại chất lượng hàng hoá:
+ Hàng hoá đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
+ Hàng hoá không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu (phế phẩm).
Khi đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp xuất khẩu,
thì chỉ tiêu chất lượng hàng hoá ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh,
khi phân tích người ta sử dụng hai chỉ tiêu:
2.1./ Tỷ lệ phế phẩm (tính theo hiện vật).
Mục đích của phương pháp này là ta so sánh được hàng phế phẩm chiếm bao
nhiêu % trong hàng hoá xuất ra của doanh nghiệp.



T
F
:Tỷ lệ phế phẩm.
H
F
:Hàng phế phẩm.
H
C
: Hàng đảm bảo đủ tiêu chuẩn.
Mục đích của phương pháp này là ta so sánh được số lượng hàng phế phẩn
chiếm bao nhiêu % trong tổng số hàng hoá xuất ra của doanh nghiệp.
2.2./ Tỷ lệ phế phẩm bình quân (Tính theo giá trị ).



T
F
:Tỷ lệ phế phẩm bình quân.
Trang 23
H
F
H
C
+H
F
T
F
=
x 100 %
C

F
+C
S
C
M
+C
F
+C
S
T
F
=
x 100 %
C
F
:Chi phí thu mua hàng phế phẩm.
C
S
:Chi phí sửa chữa chế biến hàng phế phẩm.
C
M
:Giá mua hàng xuất khẩu .
Từ công thức trên ta thấy tử số là toàn bộ hàng phế phẩm tính theo giá trị,
mẫu số là toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ. Qua tính toán phân tích
chỉ tiêu này doanh nghiệp có thể thấy được toàn bộ thiệt hại do chất lượng hàng phế
phẩm gây ra so với toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra trong kỳ là bao nhiêu %.
Sau khi phân tích, so sánh giữa hai kỳ với nhau hoặc hai doanh nghiệp sản
xuất sản phẩm cùng loại sẽ cho doanh nghiệp thấy được tỷ lệ phế phẩm của doanh
nghiệp mình và nếu tỷ lệ bình quân hàng phế phẩm của doanh nghiệp càng nhỏ càng
tốt. Tỷ lệ này chứng tỏ chất lượng hàng hoá xuất khẩu cao hay thấp và nếu tỷ lệ này

càng nhỏ thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng cao.
±∆ = T
F1
- T
F0
T
F1
: Tỷ lệ phế phẩm kỳ này.
T
F0
: Tỷ lệ phế phẩm kỳ trước.
Nếu : - ∆ :Thì chất lượng hàng hoá xuất khẩu tăng lên.
+ ∆ : Thì chất lượng hàng hoá xuất khẩu giảm.
Qua phân tích ta tìm được nguyên nhân làm giảm chất lượng sản phẩm từ đó
tìm ra biện pháp khắc phục.
Trang 24
CHƯƠNG II :
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU TẠI CÔNG TY DỆT
HẢI PHÒNG
I./GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY DỆT HẢI PHÒNG .
ông Ty Dệt Hải Phòng tiền thân là xí nghiệp Hải Phòng đây là một doanh
nghiệp nhà nước, trực thuộc sự quản lý của sở Công Nghiệp Hải Phòng,
được thành lập theo quyết định số 61/QĐ/TCCQ ngày 27/01/1988, là một
trong những công ty trong ngành dệt may được trực tiếp tham gia xuất nhập khẩu.
Hiện nay, thị trường chủ yếu của công ty là thị trường nội địa và thị trường Nhật
Bản, hướng tới công ty đang có kế hoạch mở rộng sang thị trường EU và thị trường
Mỹ. Với vị thế là một doanh nghiệp vừa và nhỏ với cơ sở khi thành lập đặt tại 151B
Niệm Nghĩa, Hải Phòng, diện tích sử dụng là 9,25 nghìn m
2
và số lao động vào

khoảng 320 người năm 1999. Hiện nay, công ty mở rộng thêm cơ sở sang cơ sở II
đặt tại đường KaMen - Kiến An - Hải phòng. Cơ sở hai này sẽ chuyên sản xuất hàng
dệt kim, với diện tích sử dụng khoảng 20 nghìn m
2
, số lao động bước đầu tuyển vào
và gửi đào tạo là 500 người và ngày 13/5/2000 nhân dịp giải phóng Hải Phòng cơ sở
II đã đi vào hoạt động với các mặt hàng chủ yếu là hàng dệt kim.
C
Từ ngày thành lập đến nay, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử cũng như
nền kinh tế của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, nhiều lúc tưởng rằng
công ty không thể vượt qua, nhưng với sự cố gắng của tập thể cán bộ công nhân
viên của công ty cũng như sự trực tiếp chỉ đạo và hỗ trợ của thành phố, công ty đã
vượt qua mọi khó khăn để phát triển giải quyết cho hàng trăm công ăn việc làm cho
người lao động Thành phố.
Trang 25

×