Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

LUẬN VĂN: Đánh giá thực trạng tài chính của công ty VIRASIMEX pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.22 MB, 89 trang )












LUẬN VĂN:

Đánh giá thực trạng tài chính của
công ty VIRASIMEX







Lời mở đầu
* * * * * * * *

Xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế đã mở ra cho nhân loại cánh cửa giao
lưu đầy triển vọng. Lịch sử đã chứng minh rằng không một quốc gia nào có thể phát
triển trong sự tách biệt với thế giới bên ngoài, các nước xích lại gần nhau thông qua
chiếc cầu nối thương maị quốc tế. Vượt qua không gian và thời gian những luồng
dịch chuyển hàng hoá và tiền tệ đã tạo ra sự gắn kết vững bền giữa cung và cầu ở
những trình độ kinh tế khác nhau và ngày càng trở nên phong phú, đa dạng kéo theo


sự phức tạp ngày càng lớn trong mặt xích cuối cùng của quá trình hội nhập quốc tế.
Chính vì vậy, hội nhập không chỉ còn là vấn đề lý thuyết mà là vấn đề được mọi
quốc gia quan tâm. Tiến trình quốc tế hoá mở ra cho các quốc gia những cơ hội để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội nhưng ngược lại chính nó lại tạo ra
không ít những thách thức lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội nếu họ không biết
tận dụng những cơ hội trong tiến trình này.
Sau những biến động trong và ngoài nước vừa qua đã có không ít các doanh
nghiệp bị “văng” ra khỏi “vòng xoáy” của “cơn lốc” thị trường, thậm chí nhiều doanh
nghiệp đã phải tự nguyện rút lui nhưng cũng có rất nhiều DN đã khẳng định được vị
thế và khả năng phát triển tiềm tàng của mình.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, cùng với xu hướng
toàn cầu hoá, mà cụ thể là đến năm 2006 Việt Nam chính thức trở thành thành viên
của AFTA, và hiện nay đang trong quá trình xin ra nhập WTO, đã mở ra những cơ
hội cùng những thách thức mới cho các doanh nghiệp. Do đó để có thể tồn tại và phát
triển trong môi trường rộng lớn, giàu tiềm năng nhưng cũng đầy rủi ro mạo hiểm
này, các doanh nghiệp luôn phải nắm bắt được những biến động trên thị trường và có
kế sách ứng phó kịp thời. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào mà một doanh nghiệp có thể
giải quyết được vấn đề trên, trong khi đó phải tiếp tục duy trì các hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả. Nhờ có phân tích tình hình tài chính của
doanh nghiệp, chúng ta sẽ có cái nhìn chung nhất về thực trạng tài chính của doanh
nghiệp đó, giúp các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp xác định được trong điểm
trong công tác quản lý tài chính, tìm ra những giải pháp tài chính hợp lý nhằm nâng

cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa có rất nhiều
chủ thể kinh tế khác cũng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dưới
nhiều góc độ tuỳ theo mục đích của mỗi chủ thể. Vì vậy, phân tích tài chính doanh
nghiệp đóng vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình tồn tại và phát triển của các
doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
Là một sinh viên tài chính với những kiến thức đã tiếp thu được ở trường, em
cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính doanh

nghiệp. Sau một thời gian thực tập tại công ty VIRASIMEX em đã chọn đề tài
“Đánh giá thực trạng tài chính của công ty VIRASIMEX” làm đề tài chính thức
cho chuyên đề thực tập của mình.

Chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
Chương 2: Phân tích tình hình tài chính của công ty VIRASIMEX.
Chương 3: Các giải pháp tài chính và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của công ty.


Chương I: Cơ sở lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp

1.1. Sự cần thiết phải phân tích tài chính doanh nghiệp:
1.1.1. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp:
Phân tích tài chính doanh nghiệp là tổng thể các phương pháp và công cụ cho
phép thu thập, xử lý các thông tin khác nhau trong quản lý doanh nghiệp, nhằm đánh
giá tình hình tài chính, khả năng và triển vọng của doanh nghiệp, giúp người sử
dụng thông tin đưa ra các quyết định phù hợp.

1.1.2. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp:
Trong quá trình quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, các nhà quản lý phải
đưa ra rất nhiều các quyết định khác nhau như: quyết định đầu tư, quyết định về
mặt hàng, về trang thiết bị, về nhân sự, về chi phí, về giá bán, về tổ chức huy động
và sử dụng vốn Các quyết định của các nhà quản lý có ý nghĩa rất quan trọng, liên
quan đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của cả toàn bộ nền
kinh tế nói chung. Đặc biệt là các quyết định quản trị tài chính doanh nghiệp, hầu
hết các quyết định khác đều dựa trên kết quả rút ra từ những đánh giá về mặt tài
chính trong quản trị tài chính doanh nghiệp. Nói một cách khác, tất cả các hoạt động
sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, và

ngược lại tình hình tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu sẽ có tác động thúc đẩy
hoặc kìm hãm các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Thông qua phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, chúng ta sẽ có được
cái nhìn chung nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp, đánh giá tốt hay xấu,
xác định được nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Nhờ có những thông tin thu thập được, các đối tượng sử
dụng thông tin sẽ có căn cứ khoa học làm cơ sở cho việc đưa ra các quyết định đúng
đắn, phù hợp với mục tiêu của mình. Cùng với sự đa dạng của các mối quan hệ
trong và ngoài doanh nghiệp, mỗi một chủ thể sẽ có nhu cầu sử dụng thông tin khác
nhau, cụ thể:

 Phân tích tài chính cung cấp cho chủ doanh nghiệp, các nhà quản trị doanh
nghiệp, các cổ đông, người lao động những thông tin giúp cho việc đánh giá chính
xác tình hình tài chính và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó đưa ra các
dự báo tài chính và các quyết định tài chính thích hợp, cũng như việc xác định quyền
và nghĩa vụ của các bên đối với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Mặt khác thông qua phân tích tình hình tài chính giúp cho người quản lý có
thể kiểm soát được kịp thời các mặt hoạt động của doanh nghiệp và đề ra các biện
pháp cụ thể nhằm khắc phục những tồn tại, vướng mắc, đồng thời khai thác các tiềm
năng thế mạnh của doanh nghiệp.
 Đối với các nhà đầu tư (các chủ nợ): Thông qua phân tích tình hình tài
chính của doanh nghiệp có thể đánh giá được khả năng thanh toán, hiệu quả kinh
doanh và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư muốn biết rằng đồng
vốn của mình bỏ ra có sinh lời được hay không, doanh nghiệp sử dụng số vốn đó
như thế nào và khả rủi ro của đồng vốn của mình đã bỏ ra có cao hay không, để từ
đó các nhà đầu tư có những quyết định thích hợp về vấn đề cho vay vốn, thu hồi nợ
và đầu tư vào doanh nghiệp.
 Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước: Thông qua phân tích tình hình tài
chính của doanh nghiệp nhằm mục đích kiểm tra giám sát tình hình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp xem có thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước hay

không. Đồng thời thông qua việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp còn
giúp cho các cơ quan này hoạch định chính sách, cơ chế tài chính phù hợp, tạo hành
lang pháp lý lành mạnh cho các doanh nghiệp, hướng dẫn và trợ giúp các doanh
nghiệp phát huy những lợi thế, hạn chế những điểm yếu, tăng tích luỹ cho nền kinh
tế quốc dân, giải quyết các vấn đề xã hội
Như vậy, xuất phát từ mục đích sử dụng thông tin của các đối tượng trên cùng
với vai trò quan trọng của các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp đối
với việc ra quyết định tài chính, phân tích và đánh giá tình hình tài chính của doanh
nghiệp là một yêu cầu tất yếu và cần thiết trong nền kinh tế thị trường. Xu hướng hội
nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là sắp tới Việt Nam chính thức gia nhập khu vực mậu
dịch tự do Đông Nam á (AFTA) và chuẩn bị tham gia vào WTO (năm 2005), cùng
với sự cạnh tranh mạnh mẽ và những biến động của nền kinh tế thị trường, sẽ là

những tác nhân thúc đẩy việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp ngày
càng trở nên quan trọng.

1.1.3. Mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp:
Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp nhằm cung cấp thông tin có tác
dụng hữu ích trong việc tạo ra các quyết định kinh doanh. Vì vậy, phân tích hoạt
động tài chính phải đạt được các mục tiêu chủ yếu sau:
 Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp được đầy đủ các thông tin hữu
ích cho các nhà đầu tư và người sử dụng thông tin tài chính khác để giúp cho họ có
quyết định đúng đắn khi có các quyết định đầu tư, quyết định cho vay, quyết định thu
hồi nợ Ngoài ra còn giúp họ có những thông tin để đánh giá khả năng và tính chắc
chắn của dòng tiền vào, ra và tình hình sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả hay
không, cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
 Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp phải cung cấp thông tin về
nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản vay nợ và tình hình biến động của chúng. Hơn nữa,
phân tích tình hình tài chính cung cấp thông tin về việc thực hiện chức năng quản lý
của người quản lý đối với doanh nghiệp. Người quản lý không chỉ có trách nhiệm về

việc quản lý và bảo toàn vốn của doanh nghiệp, mà còn có trách nhiệm về việc sử
dụng chúng sao cho có hiệu quả.

1.2. Quy trình phân tích, khái quát nội dung phân tích, cơ sở số liệu và phương
pháp phân tích:
1.2.1. Quy trình phân tích:
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp thường được tiến hành qua các giai
đoạn sau:
 Lập kế hoạch phân tích: Đây là khâu đầu tiên trong quá trình phân tích.
Lập kế hoạch phân tích bao gồm việc xác định mục tiêu, xây dựng chương trình phân
tích. Kế hoạch phân tích phải xác định rõ nội dung phân tích, phạm vi phân tích, thời
gian tiến hành, những thông tin cần thu thập, tìm hiểu.

 Tiến hành phân tích: Đây là giai đoạn triển khai, thực hiện các công việc
đã ghi trong kế hoạch. Tiến hành phân tích bao gồm các công việc sau:
- Sưu tầm tài liệu, xử lý số liệu.
- Tính toán các chỉ tiêu phân tích.
- Xác định nguyên nhân và tính toán cụ thể mức độ ảnh hưởng của
các nhân tố đến các chỉ tiêu phân tích.
- Xác định và dự toán những nhân tố kinh tế- xã hội tác động đến tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tổng hợp kết quả, rút ra nhận xét, kết luận về tình hình tài chính
của doanh nghiệp.
 Kết thúc phân tích: Trong giai đoạn này cần tiến hành những công việc cụ
thể sau:
- Viết báo cáo phân tích.
- Hoàn chỉnh hồ sơ phân tích.

1.2.2. Khái quát nội dung phân tích:
Để có thể đánh giá xác thực, sâu sắc tình hình tài chính của doanh nghiệp, khi

tiến hành phân tích ta phải đảm bảo các nội dung phân tích cơ bản sau:
- Phân tích đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Phân tích các hệ số tài chính đặc trưng.
- Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn.

1.2.3. Cơ sở số liệu:
Để thực hiện phân tích tài chính của doanh nghiệp cần sử dụng các tài liệu
sau:
- Báo cáo 01 doanh nghiệp (B01- DN): Bảng cân đối kế toán.
- Báo cáo 02 doanh nghiệp (B02- DN): Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh.
- Báo cáo 03 doanh nghiệp (B03- DN): Báo cáo ngân quỹ.
- Báo cáo 09 doanh nghiệp (B09- DN): Thuyết minh báo cáo tài
chính.

- Báo cáo tình hình công nợ, các khoản vay và các tài liệu liên quan.
Tuy chỉ có một số chỉ tiêu phân tích ta không thể sử dụng được ngay các số
liệu trong các báo cáo mà cần thiết có sự điều chỉnh và xử lý số liệu. Căn cứ vào ý
nghĩa của từng chỉ tiêu, có thể phải xử lý các số liệu để có được ý nghĩa của từng chỉ
tiêu đó.

1.2.4. Phương pháp phân tích:
Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp bao gồm một hệ thống các
công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận và nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối
quan hệ bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài
chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chỉ tiêu nhằm đánh giá tình hình tài chính
doanh nghiệp.
Thông thường người ta sử dụng 2 phương pháp sau:
1.2.4.1. Phương pháp so sánh:
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong phân tích kinh tế

nói chung và phân tích tài chính nói riên, được áp dụng từ khâu đầu đến khâu cuối
của quá trình phân tích: từ khi sưu tầm tài liệu đến khi kết thúc phân tích. Khi sử
dụng phương pháp so sánh cần chú ý đến điều kiện so sánh, tiêu thức so sánh và kỹ
thuật so sánh:
 Về điều kiện so sánh:
- Thứ nhất: Phải tồn tại ít nhất hai đại lượng hoặc hai chỉ tiêu
- Thứ hai: Các đại lượng, các chỉ tiêu phải thống nhất về nội dung và
phương pháp tính toánh, thống nhất về thời gian và đơn vị đo lường.
 Về tiêu thức so sánh: Tuỳ thuộc vào mục đích của cuộc phân tích, người ta
có thể lựa chọn một trong số các tiêu thức sau đây:
- Để đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu đặt ra: Tiến hành so sánh
tài liệu thực tế đạt được với các tài liệu kế hoạch, dự toán hoặc
định mức.
- Để xác định xu hướng cũng như tốc độ phát triển: Tiến hành so
sánh giữa số liệu kỳ thực tế này với số liệu thực tế kỳ trước.

- Để xác định vị trí cũng như sức mạnh của công ty: Tiến hành so
sánh giữa số liệu của công ty với các doanh nghiệp khác cùng loại
hình kinh doanh hoặc giá trị trung bình của ngành kinh doanh.
Số liệu của kỳ được chọn làm căn cứ so sánh gọi là gốc so sánh.
 Về kỹ thuật so sánh:
- So sánh về số liệu tuyệt đối: Là việc xác định chênh lệch giữa trị số
chỉ tiêu kỳ phân tích với trị số của chỉ tiêu kỳ gốc. Kết quả so sánh
cho thấy sự biến động về số tuyệt đối của hiện tượng kinh tế đang
nghiên cứu.
- So sánh về số tương đối: Là việc xác định số % tăng giảm giữa thực
tế so với kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích.
Khi phân tích các báo cáo tài chính có thể sử dụng phương pháp phân
tích theo chiều dọc hoặc phân tích theo chiều ngang.
+ Phân tích theo chiều ngang: Là việc so sánh cả về số tuyệt đối

và số tương đối trên cùng một hàng (cùng một chỉ tiêu) trên các báo
cáo tài chình. Qua đó thấy được sự biến động của từng chỉ tiêu.
+ Phân tích theo chiều dọc: Là việc xem xét, xác định tỷ trọng
của từng chỉ tiêu trong tổng thể, quy mô chung. Qua đó thấy được mức
độ quan trọng của từng chỉ tiêu trong tổng thể.

1.2.4.2. Phương pháp tỷ lệ:
Phương pháp này được dựa trên ý nghĩa, chuẩn mực của các tỷ lệ đại lượng tài
chính trong các mối quan hệ tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu
phải xác định được các ngưỡng (định mức) để nhận xét, đánh giá tình hình tài chính
dựa trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với giá trị lỷ lệ tham chiếu.
Như vậy, để đưa ra nhận xét, đánh giá một cách chính xác về tình hình tài
chính thì phải phân tích với việc kết hợp hài hoà hai phương pháp trên. Sự kết hợp
hai phương pháp này cho phép người phân tích đi sâu xem xét các kía cạnh khác
nhau, thấy rõ được thực chất hoạt động tài chính cũng như xu hướng biến động của
từng chỉ tiêu tài chính trong doanh nghiệp qua các giai đoạn khác nhau, đồng thời
vẫn đảm bảo tính đồng nhất trong khi tính toán.


1.3. Nội dung phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp:
Nội dung của phân tích tình hình tài chính bao gồm:
 Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp:
- Qua bảng cân đối kế toán (Bảng CĐKT) để phân tích cơ cấu và diễn
biến nguồn vốn, sử dụng vốn của doanh nghiệp.
- Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động của doanh
nghiệp.
- Qua báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (Báo cáo
KQHĐSXKD) để phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuố
cùng của doanh nghiệp.
 Phân tích các hệ số tài chính đặc trưng của doanh nghiệp:

- Hệ số về khả năng thanh toán của doanh nghiệp
- Hệ số về rủi ro tài chính của doanh nghiệp.
- Hệ số phản ánh cơ cấu nguồn vốn và tỷ suất tự tài trợ của doanh
nghiệp
- Hệ số về tình hình hoạt động của doanh nghiệp
- Hệ số phản ánh khả năng sinh lời của doanh nghiệp

1.3.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp:
1.3.1.1. Phân tích cơ cấu của nguồn vốn và sử dụng vốn:
Để phân tích kết cấu nguồn vốn, sử dụng vốn cũng như diễn biến của nó
chúng ta phải dựa vào Bảng CĐKT.
 Khái quát Bảng CĐKT: là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một
cách tổng quát toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp theo hai cách đánh giá là tài
sản và nguồn hình thành tài sản tại thời điểm lập báo cáo.
Các chỉ tiêu của bảng CĐKT được phản ánh dưới hình thức giá trị và tuân
theo nguyên tắc cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn.
 Mẫu bảng CĐKT:

*Phần tài sản: Phản ánh giá trị hiện có tính tới thời điểm lập báo cáo.
- Xét về mặt kinh tế: Các chỉ tiêu thuộc phần tài sản phản ánh dưới
hình thái giá trị quy mô, kết cấu các loại tài sản như: vốn bằng tiền,
hàng tồn kho, các khoản phải thu, tài sản cố định mà doanh nghiệp
hiện có.
- Xét về mặt pháp lý: Số liệu ở phần tài sản phản ánh số tài sản thuộc
quyền quản lý, sử dụng của doanh nghiệp.
*Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của doanh
nghiệp hiện có.
- xét về mặt kinh tế: Các chỉ tiêu ở phần nguồn vốn phản ánh quy
mô, kết cấu của các nguồn vốn đã được doanh nghiệp huy động vào

sản xuất kinh doanh.
- Xét về mặt pháp lý: Đây là các chỉ tiêu thể hiện trách nhiệm pháp
lý về mặt vật chất của doanh nghiệp đối với các đối tượng cấp vốn
cho doanh nghiệp.
 Phương pháp phân tích:
*Sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu tình hình biến động cả về số
tương đối lẫn số tuyệt đối của từng chỉ tiêu trên bảng CĐKT. Phép so sánh ngang
này cho phép đánh giá được quy mô vốn và khả năng huy động vốn mà doanh
nghiệp sử dụng trong kỳ. Tuy nhiên, sự so sánh này chưa thể hiện được đầy đủ tình
hình tài chính của doanh nghiệp bởi vì nó còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
khác nhau.
*So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng loại trong tổng số.
Qua đó chỉ ra ý nghĩa tương đối của các loại, các mục, các khoản mục.
* Ngoài ra có thể so sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ
trước, từ đó thấy được xu hướng biến động về tài chính doanh nghiệp là tốt hay xấu,
đề ra các biện pháp khắc phục trong kỳ tới. Hoặc có thể so sánh số thực hiện với số
kế hoạch để thấy được mức độ phấn đấu của doanh nghiệp.
 Kết luận đánh giá: Chỉ ra sự biến động về tài sản và nguồn vốn hình thành
tài sản một cách khách quan tại thời điểm phân tích, từ đó đưa ra những nhận định về
khả năng thay đổi trong tương lai.

Tuy nhiên, thông qua bảng CĐKT chúng ta mới chỉ biết được một cách khái
quát về cơ cấu vốn và nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp. để tìm hiểu một cách
sâu sắc hơn chúng ta đi phân tích, đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh
nghiệp thông qua Báo cáo KQKD.

1.3.1.2. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn:
Để lập được bảng kê diễn biến nguồn vốn và tình hình sử dụng vốn của doanh
nghiệp, ta phải thực hiện theo các quy trình sau:
 Tổng hợp sự thay đổi của các khoản mục trên Bảng CĐKT giữa hai thời

điểm là đầu kỳ và cuối kỳ.
 Dựa vào kết quả vừa tìm được sẽ sắp xếp kết quả của từng khoản mục vào
hai cột diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn theo nguyên tắc:
- Việc tăng các khoản nợ phải trả, tăng vốn chủ sở hữu, giảm tài sản
của doanh nghiệp được xếp vào cột diễn biến nguồn vốn.
- Tăng tài sản, giảm các khoản nợ phải trả và VCSH được xếp chung
vào cột sử dụng vốn.
Từ kết quả vừa tìm được, chúng ta tính toán tỷ trọng của từng khoản mục để
đánh giá sự thay đổi theo xu hướng nào của tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp
trong một kỳ vừa qua.

1.3.1.3. Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian và cuối cùng:
Mục tiêu của phương pháp này là xác định, phân tích mối liên hệ và đặc điểm
các chỉ tiêu trong Báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD), đồng thời so sánh chúng
qua một số niên độ kế toán liên tiếp và với số trung bình ngành (nếu có) để đánh giá
xu hướng thay đổi từng chỉ tiêu và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp so với các
doanh nghiệp khác.
 Khái niệm BCKQKD: là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát
tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước trong
một kỳ kế toán.

* Phần 1: Lãi lỗ- phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
sau một kỳ là lãi hoặc lỗ. Các chỉ tiêu trong phần này được theo dõi chi tiết theo số
quý trước, số quý này và số luỹ kế từ đầu năm.
* Phần2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước, bao gồm các chỉ
tiêu liên quan đến các loại thuế phải nộp và được theo dõi chi tiêt thành số còn phải
nộp kỳ trước, số phải nộp kỳ này, số đã nộp trong kỳ và số còn phải nộp đến cuối kỳ
này.
* Phần 3: Thuế GTGT (VAT) được khấu trừ, VAT được hoàn lại, VAT
được giảm, VAT hàng bán nội địa.

 Như vậy, thông qua việc phân tích Báo cáo KQHĐKD để:
* Kiểm tra, phân tích và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, dự toán chi
phí sản xuất, giá vốn, doanh thu tiêu thụ, tình hình chi phí, thu nhập của
hoạt động khác và kết quả của doanh nghiệp sau một kỳ kế toán.
* Kiểm tra tình hình thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của doanh nghiệp về
các khoản thuế và các khoản phải nộp khác.
* Đánh giá xu hướng phát triển của doanh nghiệp qua các kỳ khác nhau.
Nội dung của báo cáo KQHKD có thể thay đổi theo từng thời kỳ, tuỳ theo yêu
cầu quản lý, nhưng phải đảm bảo được 5 nội dung cơ bản là:
- Doanh thu thuần từ hoạt động kinh doanh.
- Giá vốn hàng bán
- Chi phí bán hàng
- Chi phí quản lý doanh nghiệp
- Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh.
Giữa các chỉ tiêu này có mối quan hệ với nhau, thể hiện:






Lợi
nhuận
thuần
từ hoạt
đ
ộng
Doanh
thu
thuần

từ
ho
ạt

Giá
vốn
hàng
bán


Chi
phí
bán
hàng
Chi
phí
quản

doanh

Lợi nhuận là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, nó chịu tác động của rất nhiều
nhân tố ảnh hưởng. Để phân tích ảnh hưởng của các nhân tố chủ yếu đến lợi nhuận,
ta sử dụng các chỉ tiêu sau:

Tỷ suất giá vốn
hàng bán trên
doanh thu thuần

=
Giá vốn hàng bán


Doanh thu thuần

x 100%

Tỷ suất này cho ta biết để có được một doanh thu thuần, doanh nghiệp đã phải
bỏ ra bao nhiêu đồng giá vốn hàng bán, tỷ suất này càng thấp thì càng tốt vì nó chứng
tỏ việc quản lý các khoản chi phí trong giá vốn hàng bán càng tốt và ngược lại.

Tỷ suất chi phí
bán hàng trên
doanh thu thuần

=
Chi phí bán hàng

Doanh thu thuần

x 100%


Tỷ suất chi phí
quản lý DN trên
doanh thu thuần

=
Chi phí quản lý DN

Doanh thu thuần


x 100%

Hai chỉ tiêu này phản ánh để có 1đ doanh thu thuần, doanh nghiệp đã phản chi
ra bao nhiêu đồng chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Các tỷ suất này
càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng tiết kiệm chi phí bán hàngv và chi phí
quản lý doanh nghiệp và ngược lại.
 Phương pháp phân tích:
Thông qua phương pháp so sánh, ta so sánh giữa kỳ này với kỳ trước, đưa ra
những nhận định ban đầu về sự biến động kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Như vậy, việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp thông qua 2
bảng trên mới chỉ là bước phân tích khái quát, giúp chúng ta có được cái nhìn tổng

quan về doanh nghiệp. Để có những đánh giá chi tiết và cụ thể hơn về tình hình tài
chính của doanh nghiệp, chúng ta sẽ đi vào phân tích, đánh giá các hệ số tài chính
đặc trưng sau:

1.3.1.4. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh:
Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có tài sản bao gồm
TSLĐ và đầu tư ngắn hạn, TSCĐ và đầu tư dài hạn. Để hình thành 2 lại này phải có
các nguồn vốn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn.
Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong khoảng
thời gian dưới một năm cho hoạt động SXKD bao gồm các nợ ngắn hạn, nợ quá hạn
nợ nhà cung cấp và nợ phải trả ngắn hạn khác. Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn
doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt động kinh doanh, bao gồm nguồn VCSH,
nguồn vốn vay nợ trung, dài hạn…
Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành TSCĐ, phần dư của
nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được đầu tư hình thành TSLĐ. Chênh lệch
giữa nguồn vốn dài hạn với TSCĐ hay giữa TSLĐ với nguồn vốn ngắn hạn được gọi
là VLĐ thường xuyên.




Mức độ an toàn của tài sản ngắn hạn phụ thuộc vào mức độ của VLĐ thường
xuyên. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, ta cần tính
toán và so sánh giữa nguồn vốn với tài sản.
* Khi nguồn vốn dài hạn < TSCĐ hoặc TSLĐ < nguồn vốn ngắn hạn.
Có nghĩa là nguồn vốn thường xuyên < 0. Nguồn vốn dài hạn không đủ đầu
tư cho TSCĐ. Doanh nghiệp phải đầu tư vào TSCĐ một phần nguồn vốn ngắn hạn,
TSLĐ không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của
doanh nghiệp mất thăng bằng, doanh nghiệp phải dùng 1 phần TSCĐ để thanh toán
nợ ngắn hạn đến hạn trả. Trong trường hợp như vạy giải pháp của doanh nghiệp là
tăng cường huy động vốn ngắn hạn hợp pháp hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn hoặc
thực hiện đồng thời các 2 giải pháp đó.
VLĐ
thường
xuyên

Nguồn
vốn dài
h
ạn

TSLĐ

TSC
Đ
Nguồn
vốn ngắn
h

ạn


* Khi nguồn vốn dài hạn > TSCĐ hoặc TSLĐ > nguồn vốn ngắn hạn
Tức là VLĐ thường xuyên > 0, nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào
TSCĐ, phần dư thừa đó đầu tư vào TSLĐ. Đồng thời TSLĐ > nguồn vốn ngắn hạn
do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt. Vốn thường xuyên = 0 có nghĩa là
nguồn vốn dài hạn tài trợ đủ cho TSCĐ và TSLĐ đủ để trả các khoản nợ ngắn hạn,
tình hình tài chính như vậy là lành mạnh.
VLĐ thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình
hình tài chính của doanh nghiệp, chỉ tiêu này cho biết 2 điều cốt yếu:
Một là: Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
không?
Hai là: TSCĐ của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng vốn
dài hạn hay không?
Ngoài khái niệm VLĐ thường xuyên được phân tích trên đây; nghiên cứu tình
hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh, người ta còn sử dụng chỉ tiêu nhu cầu
VLĐ thường xuyên để phân tích.
Nhu cầu VLĐ thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ
cho 1 phần TSLĐ, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu (TSLĐ không phải là
tiền).

Nhu cầu VLĐ
thường xuyên
Tồn kho và các
khoản phải thu


Thực tế có thể xảy ra những trường hợp sau đây:
* Nhu cầu VLĐ thường xuyên > 0 tức là tồn kho và các khoản phải thu > nợ

ngắn hạn. Tại đây các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn
ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn
dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch.
Giải pháp trong trường hợp này là nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho và
giảm các khoản phải thu ở khách hàng.
Nợ ngắn
h
ạn


* Nhu cầu VLĐ thường xuyên < 0 có nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh
doanh.
Mối liên hệ giữa VLĐ thường xuyên với nhu cầu VLĐ thường xuyên:

Vốn bằng tiền = VLĐ thường xuyên - Nhu cầu VLĐ thường xuyên

Nguồn vốn dài hạn > TSCĐ => VLĐ thường xuyên > 0 và ngược lại
TSLĐ > Nguồn vốn ngắn hạn => Nhu cầu VLĐ thường xuyên > 0
và ngược lại.
Dựa vào các chỉ tiêu trong BCĐKT ta thấy các mối liên hệ trên được biểu hiểu
nhu sau:
- Nếu hàng tồn kho và khoản phải thu > nợ ngắn hạn, nghĩa là sử
dụng ngắn hạn > nợ ngắn hạn mà doanh nghiệp huy động được => nhu cầu VLĐ
thường xuyên dương. Để tài trợ phần chênh lệch này doanh nghiệp cần tới VLĐ
thường xuyên. Nếu VLĐ thường xuyên > nhu cầu VLĐ thường xuyên => vốn bằng
tiền dương và ngược lại.
- Nếu tồn kho và các khoản phải thu < nợ ngắn hạn, có nghĩa là
VLĐ từ bên ngoài thừa trang trải các sử dụng ngắn hạn; nhu cầu VLĐ thường xuyên
< 0; nếu VLĐ thường xuyên dương => vốn bằng tiền dương lớn hơn; nếu VLĐ

thường xuyên < 0 và nhỏ hơn cả nhu cầu VLĐ thường xuyên => vốn bằng tiền âm.
Xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn (Vốn ngắn hạn
nhiều, vốn dài hạn ít) hoặc mất cân đối trong đầu tư dài hạn (đầu tư dài quá nhiều).
-
Giải pháp là:
 Tăng cường vay vốn dài hạn
 Giải phóng hàng tồn kho: tăng thu từ khách hàng để tài trợ ngắn
hạn
 Giảm đầu tư dài hạn.

Như vậy, để đảm bảo nguồn vốn và sử dụng vốn kinh doanh, đảm bảo sự lành
mạnh về tài chính doanh nghiệp, trước tiên phải có VLĐ thường xuyên

0 nghĩa là
đảm bảo tài trợ TSCĐ bằng nguồn vốn dài hạn. Nếu nhu cầu VLĐ thường xuyên > 0
=> phải tìm cách giảm hàng tồn kho, tăng thu từ các khoản phải thu ở khách hàng;
nếu nhu cầu VLĐ thường xuyên < 0 => hạn chế vay ngắn hạn từ bên ngoài.

1.3.2. Phân tích các hệ số tài chính đặc trưng:
 Phương pháp phân tích: Thường so sánh giữa số kỳ này với kỳ trước,
giữa doanh nghiệp với các chuẩn mực của ngành để đi đến kết luận đánh
giá về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
 Cơ sở số liệu: Chủ yếu sử dụng Bảng CĐKT và Báo cáo KQHĐKD của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, một số loại số liệu cần có sự điều chỉnh để tính
toán xác thực hơn.
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là một trong các yếu tố để đánh giá
tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh hay không. Nó là yếu tố được các
đối tượng sử dụng thông tin quan tâm. Do vậy, chúng ta sẽ đi vào phân tích khả năng
thanh toán của doanh nghiệp đầu tiên.


1.3.2.1. Các hệ số về khả năng thanh toán:
Đối với các đối tượng sử dụng thông tin, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư, thì
vấn đề được họ quan tâm nhiều nhất là khoản lợi nhuận từ hoạt động đầu tư đem lại
và khả năng rủi ro của các khoản đầu tư đó là cao hay thấp. Họ luôn đặt ra câu hỏi
liệu doanh nghiệp mà họ đầu tư có đủ khả năng trả các khoản nợ tới hạn hay không?
Việc phân tích một số chỉ tiêu dưới đây sẽ giúp họ trả lời được câu hỏi này:
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát:
 Hệ số khả năng thanh toán tổng quát phản ánh mối quan hệ giữa tổng tài
sản mà hiện doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng với tổng số nợ phải trả (bao gồm
nợ ngắn hạn và nợ dài hạn).

Hệ số khả năng
thanh toán tổng

=
Tổng tài sản


quát Nợ ngắn hạn và dài hạn

*ý nghĩa: Hệ số này đánh giá khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán các
khoản nợ tại một thời điểm nhất định của doanh nghiệp.Nhìn chung hệ số này càng
lớn hơn 1 thì càng tốt.
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời:
*Hệ số khả năng thanh toán hiện thời phản ánh mức độ đảm bảo cảu tài
sản lưu động và các khoản đầu tư ngắn hạn (TSLĐ và ĐTNH) với nợ ngắn hạn.

Hệ số khả năng
thanh toán hiện
thời


=
TSLĐ & ĐTNH

Tổng nợ ngắn hạn

*ý nghĩa: Nếu hệ số này có xu hướng giảm đi thì điều đó đồng nghĩa với
sự rủi ro về mặt tài chính của doanh nghiệp là tăng lên và ngược lại. Nhưng nếu hệ
số này quá cao nó có thể biểu hiện năng lực quản trị VLĐ của doanh nghiệp chưa tốt
bởi vì đây thường là hiện tượng mà doanh nghiệp để tiền mặt tồn trữ quá nhiều, hàng
tồn kho l ớn, các khoản phải thu cũng cao.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh:
*Hệ số này phản ánh khả năng thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp tại một thời điểm của TSLĐ và các khoản tương đương tiền, mà không
dựa vào việc bán các loại vật tư hàng hoá.

Hệ số khả n
ăng
thanh toán
nhanh
TSLĐ & Đầu tư ngắn hạn - Vốn vật tư hàng hoá
=
Tổng nợ ngắn hạn



*ý nghĩa:
- Nếu hệ số này quá nhỏ thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong công
việc thanh toán công nợ vì vào lúc cần phải thanh toán gấp, doanh


nghiệp có thể phải sử dụng các biện pháp bất lợi như bán các tài sản
với giá thấp để trả nợ.
- Nhìn chung, hệ số này càng cao thì càng tốt, nhưng nếu quá cao thì
doanh nghiệp cần phải xem xét lại vì có thể trong TSLĐ thì bộ phận
tài sản không có khả năng sinh lợi thấp đang chiếm một tỷ trọng khá
lớn.
Như vậy, thông qua việc phân tích các hệ số trên, các đối tượng có liên quan
sẽ phần nào đánh giá được khả năng thanh toán của doanh nghiệp và xu hướng biến
động của nó trong tương lai, từ đó đưa ra những quyết định phù hợp với mục đích
của mình.
Các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp luôn thay đổi tỷ trọng các loại vốn
nhằm tiến tới kết cấu vốn tối ưu để đạt được mục tiêu chi phí sử dụng vốn là thấp
nhất. Tuy nhiên, do những thay đổi trong kỳ kinh doanh, trong hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp làm cho kết cấu này luôn bị phá vỡ. Phân tích cơ cấu nguồn vốn là tình
hình tự tài trợ dưới đây sẽ giúp chúng ta đánh giá cơ cấu nguồn vốn và tình hình tự
tài trợ của công ty có hợp lý hay không?

Các hệ số phản ánh cơ cấu nguồn vốn và tỷ suất tự tài trợ:
Cơ cấu nguồn vốn:
*Cơ cấu nguồn vốn phản ánh bình quân trong một đồng vốn kinh doanh hiện
nay của doanh nghiệp đang sử dụng có mấy đồng vay nợ hoặc mấy đồng từ vốn chủ
sở hữu.
*Hệ số nợ và hệ số vốn chủ sở hữu (VCSH) là hai tỷ số quan trọng nhất phản
ánh cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp.

Nợ phải trả
Hệ số nợ = = 1 - Hệ số vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn

Hệ số này phản ánh trong 1đ vốn kinh doanh có bao nhiêu được hình thành từ

vay nợ bên ngoài, và có xác định nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với các chủ nợ. Hệ

số này cao thì doanh nghiệp có thể sử dụng đòn bẩy tài chính là công cụ để gia tăng
lợi nhuận ròng vốn chủ sở hữu vì họ được sử dụng một lượng tài sản lớn trong khi
chỉ phải đầu tư một lượng vốn nhỏ. Nhưng nếu hệ số này quá cao cũng đồng nghĩa
với rủi ro tài chính lớn vì doanh nghiệp dễ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán.

VCSH
Hệ số vốn chủ sở hữu =
Tổng nguồn vốn

Hệ số này cho thấy sự đóng góp của chủ sở hữu trong một đồng vốn kinh
doanh hiện nay là bao nhiêu. Nếu hệ số này càng lớn thì tính độc lập và tự chủ của
doanh nghiệp càng cao, vì vậy doanh nghiệp ít phải chịu ràng buộc và sức ép của các
chủ nợ.
Mỗi hệ số có ý nghĩa riêng, nhưng thông thường thì bản thân các chủ nợ lại
thích những doanh nghiệp có hệ số VCSH càng cao thì càng tốt. Bởi vì họ dựa vào hệ
số này để thấy được sự bảo đảm cho các khoản đầu tư của mình vào doanh nghiệp.
Tỷ suất tự tài trợ tài sản cố định (TSCĐ):
VCSH
Tỷ suất tự tài trợ TSCĐ =
TSCĐ & ĐTDH
*ý nghĩa: Tỷ suất này phản ánh khả năng tự tài trợ của chủ doanh nghiệp đối
với các hoạt động đầu tư về TSCĐ & ĐTDH khác. Nó cho phép chúng ta đánh giá
tính độc lập và tự chủ về tài chính của doanh nghiệp trong hoạt động dài hạn.

1.3.2.2. Các hệ số về khả năng hoạt động:
Các hệ số này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của doanh
nghiệp bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các tài sản

khác nhau. Bao gồm:
Số vòng quay hàng tồn kho:

 Khái niệm: Số vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình
quân luân chuyển trong kỳ.


Số vòng quay hàng tồn kho =
Giá vốn hàng bàn

Hàng tồn kho bình quân

Trong đó hàng tốn kho bình quân là số dư hàng tồn kho tình bình quân ở các
thời điểm trong kỳ. Kỳ phân tích có thể là tháng, quý, năm. Thông thường là năm.


Số ngày vòng quay hàng tồn kho =
360

Số vòng quay hàng tồn kho

*ý nghĩa: Hai hệ số trên là những đại lượng nghịch đảo của nhau, nó cùng
phản ánh tốc độ luân chuyển của hàng tồn kho. Nếu số vòng quay nhỏ tức là số ngày
của một vòng quay lớn, nó thường là biểu hiện của tình trạng hàng tồn kho nhiều.
Vốn bị tồn động dưới dạng hàng tồn kho là lớn, sẽ làm cho hiệu quả sử dụng VLĐ
giảm, năng lực quản trị hàng tồn kho của doanh nghiệp còn yếu kém. Và ngược lại,
số vòng quay lớn đồng nghĩa với số ngày của một vòng quay là nhỏ, chứng tỏ năng
lực quản trị hàng tồn kho của doanh nghiệp là tốt vì lượng hàng tồn kho của doanh
nghiệp đã bị giảm đi.
Vòng quay các khoản phải thu:



Vòng quay của các khoản phải thu =
Doanh thu thuần

Số dư bình quân các khoản phải thu

*ý nghĩa: Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các
khoản phải thu thành tiền của doanh nghiệp. Vòng quay này càng lớn thì càng tốt vì
nó cho biết tốc độ thu hồi các khoản phải thu là nhanh, tránh được tình trạng bị chiếm

dụng vốn, điều này tác động rất tốt đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp và
ngược lại.
Kỳ thu tiền
bình quân
360
Vòng quay các
khoản phải thu
Số dư BQ các khoản phải thu
Doanh thu thuần

x 360

*ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải
thu hay nó đo lường khả năng thu hồi vốn trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải
thu và doanh thu tiêu thụ bình quân trong một ngày. Thông thường thì chỉ tiêu này
càng ngắn càng tốt. Tuy nhiên, để có thể kết luận chắc chắn còn phải xem xét đến
chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp, từ đó đánh giá công tác thu hồi nợ
trong thanh toán là tích cực, hiệu quả, hay còn hạn chế.
Vòng quay vốn lưu động (VLĐ):



Vòng quay VLĐ =
Doanh thu thuần

VLĐ bình quân

Trong đó, VLĐ bình quân = (VLĐ đầu kỳ + VLĐ cuối kỳ) / 2.
*ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ VLĐ luân chuyển được bao nhiêu
vòng, nhằm đo lường hiệu quả sử dụng VLĐ của doanh nghiệp. Vòng quay này càng
cao thì càng tốt vì với cùng một lượng VLĐ bỏ ra nếu vòng quay VLĐ nhanh hơn thì
sẽ tạo ra mức doanh thu lớn hơn, và ngược lại.


Kỳ luân chuyển VLĐ =
Số ngày trong kỳ

Vòng quay VLĐ

Chỉ tiêu này cho biết từ khi doanh nghiệp bỏ tiền ra để hình thành nên các
TSLĐ cho đến khi bán, thu tiền về thì mất bao nhiêu ngày. Nếu chỉ tiêu này càng cao

chứng tỏ có thể hàng hoá tiêu thụ chậm, tiền mặt hoặc vật tư tồn kho nhiều, số lượng
các khoản phải thu là lớn tức là VLĐ bị ứ đọng.
Nhìn chung, vòng quay VLĐ và kỳ luân chuyển VLĐ cho biết sử dụng VLĐ
của doanh nghiệp là có tiết kiệm và hợp lý không?
Hiệu suất sử dụng vốn cố định (VCĐ):




Hiệu suất sử dụng VCĐ =
Doanh thu thuần

VCĐ bình quân

Trong đó: VCĐ bình quân = (VCĐ đầu kỳ + VCĐ cuối kỳ) / 2.
*ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh 1đ VCĐ có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ, và thông thường hệ số này càng cao thì càng tốt
vì nó cho biết hiệu quả sử dụng VCĐ của doanh nghiệp. Các nhà quản lý phải tìm
hiểu cơ cấu của từng loại TSCĐ cũng như hiệu quả hoạt động của từng loại TSCĐ đó
để có thể có những chiến lược đầu tư đúng đắn nhất.
Vòng quay vốn kinh doah (VKD):



Vòng quay VKD =
Doanh thu thuần

VKD bình quân

*ý nghĩa: Vòng quay VKD cho biết trong một kỳ, VKD của doanh nghiệp
quay được bao nhiêu vòng. Qua chỉ tiêu này ta có thể biết được 1đ VKD bỏ ra thì sẽ
được bao nhiêu đồng doanh thu thuần, từ đó đánh giá việc sử dụng VKD là tiết kiệm
và hiệu quả hay không. Thông thường chỉ tiêu này càng cao càng tốt.


1.3.2.3. Các hệ số về khả năng sinh lời:
Hệ số về khả năng sinh lời đo lường khả năng sinh lời khi doanh nghiệp sử
dụng vốn vào kinh doanh. Bao gồm:
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu:



Tỷ suất lợi nhuận doanh thu =
Lợi nhuận sau thuế

Doanh thu thuần

*ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh trong 100đ doanh thu thực hiện có bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế.
Tỷ suất lợi nhuận Tài sản: (ROA)


Tỷ suất lợi nhuận Tài Sản =
Lợi nhuận sau thuế & lãi

Tổng tài sản

*ý nghĩa: Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh
lời của một đồng vốn đầu tư. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được
phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn thu trước thuế hoặc thu nhập sau
thuế để so sánh với tổng tài sản. Chỉ
Tỷ suất lợi nhuận trên VCSH: (ROE)


ROE =
Lợi nhuận sau thuế

Vốn chủ sở hữu

*ý nghĩa: Đây là chỉ tiêu được chủ sở hữu doanh nghiệp mong đợi nhiều nhất,

bởi vì chỉ tiêu này cho biết cuối cùng chủ doanh nghiệp được hưởng bao nhiêu từ kết
quả hoạt động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp, tức là cho biết mỗi đồng VCSH
doanh nghiệp đưa vào kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.

×