Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

TIỂU LUẬN:Thực trạng của công đoạn gia công hoàn thiện sách.Lời nói đầu Ngành in ở nước ta được sự quan tâm thường xuyên và toàn diện của Đảng và Chính phủ, nó đã gắn bó với Đảng ta từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến và từ đó đến nay ngành in vươn doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.78 KB, 62 trang )





TIỂU LUẬN:

Thực trạng của công đoạn gia
công hoàn thiện sách










Lời nói đầu
Ngành in ở nước ta được sự quan tâm thường xuyên và toàn diện của Đảng và
Chính phủ, nó đã gắn bó với Đảng ta từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến và
từ đó đến nay ngành in vươn lên và phát triển không ngừng. Là một ngành luôn giữ
vững vai trò quan trọng trong hệ thống các công cụ tuyên truyền, giáo dục tư
tưởng, nâng cao dân trí, khơi dậy ý thức trách nhiệm của mỗi người dân.
Trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước đã đề ra
những mục tiêu nhằm đưa nền công nghiệp của chúng ta tiến tới công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nước để theo kịp trình độ khoa học kỹ thuật của các nước trong
khu vực. Trong đó ngành in đóng vai trò quan trọng trong quá trình tiến lên của đất
nước, phục vụ kịp thời nhu cầu văn hoá, chính trị, xã hội của nhân dân.
Hoạt động của ngành in đã thích nghi dần và đứng vững trước thử thách của
cơ chế thị trường. Hội nghị liên ngành in toàn quốc 1992 đã tập trung trí tuệ đánh


giá những ưu điểm, đồng thời phê phán những sai lệch, chỉ ra những yếu kém và
nêu những biện pháp đồng bộ đưa ngành in phát triển đúng hướng. Trong từng đơn
vị, cơ sở cũng đã có bước đổi mới về công tác tổ chức, quản lý cũng như về trang
thiết bị để đáp ứng nhu cầu văn hoá, thông tin ngày càng tăng của xã hội, nhất là
đang trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, thị hiếu đòi hỏi ngày càng cao.
Điều đó đã góp phần thúc đẩy cho công cuộc đổi mới đất nước. Nền kinh tế
được chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường tạo nên sự tăng trưởng
về mọi mặt, đời sống của nhân dân đã được cải thiện vì thế văn hoá tinh thần cũng
dần được nâng cao hơn. Do vậy công tác tuyên truyền văn hoá như: xuất bản, in,
phát hành còn phải có những bước phát triển mạnh, các cơ sở in đã hoàn thành
nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước góp phần tích cực đưa những tiến bộ của khoa học
thế giới vào nền văn hoá của nước ta. Thông qua những ấn phẩm như sách, báo,
tạp chí, v.v nhằm nâng cao dân trí ở mọi miền.
Trong đó nhà máy in Quân Đội đã góp phần quan trọng vào những thành tựu
kể trên. Cơ sở in này ra đời từ những năm đầu của cuộc kháng chiến đã mang tiếng
nói của cách mạng, ngôn luận của Đảng đi suốt những chặng đường lịch sử. Nó đã
góp phần đánh dấu những mốc son huy hoàng của quân và dân ta. Ngày nay nhiệm
vụ chủ yếu của cơ sở in này là in biểu mẫu, tạp chí, sách phục vụ chính trị, kinh tế,
xã hội, đưa đường lối và chủ trương của Đảng đến khắp mọi miền đất nước, cũng
như đến với các nước trong khối ASEAN.
Để đáp ứng tốt nhiệm vụ trên, các ấn phẩm in cần phải nhanh, chất lượng cao
thì song song với việc đầu tư trang thiết bị mới, việc thiết lập một mô hình tổ chức
và điều hành sản xuất hợp lý cũng được các cấp lãnh đạo công ty quan tâm để đưa
công ty lên một tầm cao như ở các nước đang phát triển.
Đồ án của tôi được bố cục như sau:
Phần thứ nhất: Tổng quan đề tài.
Phần thứ hai : Cơ sở lý thuyết chung.
Phần thứ ba : Thực trạng của công đoạn gia công hoàn thiện sách.
Phần thứ tư : Một số giải pháp đầu tư.
Phần thứ năm : Kết luận chung.




Phần thứ nhất
Tổng quan
I. Sự phát triển của ngành in trong sự phát triển chung của toàn xã hội.
I.1.1. Ngành in Việt Nam trước công cuộc đổi mới.
Hơn nửa thế kỷ qua, trong từng giai đoạn lịch sử của dân tộc, đội ngũ công
nhân ngành in Việt Nam đã có những đóng góp quý báu cho sự nghiệp cách mạng
bằng chính những sản phẩm của mình.
Mỗi chặng đường lịch sử ngành in luôn gắn bó với Đảng, Nhà nước, phục vụ
đáp ứng những tài liệu về chính trị, văn hoá, kinh tế trong điều kiện trang thiết bị
vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ công nhân còn bị hạn chế cả về trình độ văn
hoá và kỹ thuật chuyên môn. Do vậy chưa đáp ứng được đầy đủ với nhu cầu của xã
hội về tất cả các mặt: Số lượng, chủng loại, chất lượng, kỹ thuật và mỹ thuật, có một
khoảng cách rất xa so với các nước trong vùng cũng như trên thế giới. Đó là một
thực trạng làm bận tâm các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước, là nỗi băn khoăn lớn
nhất của những người có trách nhiệm lãnh đạo và quản lý ngành in. Về cơ sở vật
chất kỹ thuật, khâu chế tạo khuôn in là công đoạn đầu tiên trong quá trình sản xuất
in, nó có ý nghĩa quyết định đến chất lượng sản phẩm, nhưng vào những năm đầu
của thập kỷ 90 khâu này lại là khâu lạc hậu nhất và chậm được cải tiến nhất. Tuyệt
đại bộ phận là sắp chữ thủ công, chiếm 80-90%. Có một số máy sắp chữ Linôtíp,
Mônôtíp ở một vài nhà máy lớn thì đã bị hư hỏng hoặc hoạt động với công suất
thấp. Đồng mô (khuôn chữ mẫu) cho các máy sắp chữ, đúc chữ vô cùng thiếu thốn,
phải sử dụng lâu năm nên bị cùn, mòn, chất lượng sắp chữ rất kém. Các kiểu chữ
nghèo nàn, thiếu đồng bộ và phần lớn vẫn phải sử dụng các bộ chữ đã được sử dụng
cách đây 20-30 năm. Cũng có những cơ sở sản xuất chữ in nhưng chỉ bảo đảm được
50% nhu cầu hàng năm do thiếu nguyên vật liệu, chất lượng chữ lại kém và không
đảm bảo hàm lượng thành phần hợp kim.
Công nghệ chế bản lạc hậu, được thực hiện chủ yếu bằng thủ công, các máy

chụp thuộc thế hệ cũ, các khâu mài bản, phơi bản, sửa bản làm bằng tay nên năng
suất thấp, do vậy không đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật, đặc biệt là các bản in
màu.
Đại đa số các máy in ở khâu in thuộc thế hệ cũ, đặt tay hoặc nửa tự động,
khuôn khổ nhỏ, công suất thấp, chủng loại máy lại đa dạng do nhiều nước sản xuất
và thế hệ máy khác biệt nhau hàng trăm năm. Tình trạng máy cũ, rơ rão, thiếu phụ
tùng thay thế, độ chính xác kém, chất lượng in xấu. Hầu hết các máy đều đã sử dụng
lâu năm, có những máy quá lâu. Do thiếu phụ tùng thay thế nên hàng năm có
khoảng 1/3 số máy in không sử dụng được, tỉ lệ đó mỗi năm một tăng lên. Việc mấy
năm gần đây một số nhà máy lớn đã nhập được một số máy in tương đối hiện đại
nhưng vẫn không làm thay đổi hiện trạng ngành in ngày càng xuống cấp.
Qua bảng số liệu trên ta thấy rằng công nghệ in Typô được coi là lạc hậu thì ở
nước ta máy in Typô đã hầu như không còn nữa, chỉ còn xuất hiện ở những nhà in
có nhu cầu sử dụng loại máy này. Máy in OFFSET chiếm số lượng lớn trong đó
máy cỡ lớn có năng suất cao chiếm khá nhiều
Khâu đóng sách hầu hết làm bằng thủ công, nhất là ở các nhà in địa phương,
không có vật liệu làm bìa sách nên bìa thường xấu, không bảo đảm độ bền và mỹ
thuật, đóng thép sách chống rỉ, hồ dán lại bằng bột gạo, bột sắn do vậy không bảo
đảm độ dính, không chống được ẩm, gián và chuột.
Giấy và mực là vật tư chủ yếu của ngành in. Nhưng lại không đủ giấy để in, số
lượng giấy do Nhà nước cấp không đủ, chỉ từ 15-17 ngàn tấn hàng năm, bằng 40%
số giấy sử dụng cho sách báo và văn hoá phẩm, phần còn lại do các địa phương, các
ngành tự cân đối bằng nguồn giấy tự sản xuất hoặc nhập khẩu theo đường riêng, tự
kiếm bằng các nguồn khác nhau, kể cả tự sản xuất giấy. Chất lượng giấy nói chung
là xấu, do vậy ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm in.
Đầu những năm 90 mực in hàng năm được sử dụng từ 400-500 tấn. Mực chủ
yếu được nhập từ nước ngoài, nhưng do khó khăn về ngoại tệ nên chỉ nhập một số
mực màu, còn chủ yếu là nhập bột đen về gia công trong nước, chất lượng mực sản
xuất trong nước thấp, số lượng không đủ cho nhu cầu in. Các loại vật tư chuyên
dùng khác như phim kỹ thuật, cao su bọc ống, bản in, lưỡi dao xén, lô in v.v phải

nhập ngoại hoàn toàn. Tình trạng khan hiếm và thiếu thốn vật tư kỹ thuật chính là
nguyên nhân chủ yếu làm hạn chế năng lực sản xuất và ảnh hưởng đến chất lượng
sản phẩm của ngành công nghiệp in nước ta nhiều năm nay.
Lực lượng lao động của ngành có khoảng 21.000 người được phân bổ trong
các xí nghiệp thuộc Bộ VH-TT, các xí nghiệp Trung ương và địa phương. Cấp bậc
thợ bình quân giữa các khối khác biệt nhau rất xa. Khối trực thuộc Bộ VH-TT có
1.650 công nhân trực tiếp sản xuất trong đó có 25% bậc 5-7, 60% bậc 3-4 và 15%
bậc 2. Ngược lại các xí nghiệp in địa phương, nhất là các địa phương phía Nam có
bình quân cấp bậc thợ rất thấp do mới được đào tạo tuyển chọn.
Vào những năm cuối của thập kỷ 80 và những năm đầu của thập kỷ 90 tổng số
cán bộ có trình độ đại học là 250 người, trong đó có 120 kỹ sư công nghệ, 70 kỹ sư
kinh tế, 20 kỹ sư cơ khí, 40 kỹ sư hoá và đại học khác. Cán bộ trung cấp có trên 500
người. Phó tiến sĩ có 3 người nhưng chỉ còn một người đang công tác trong ngành.
Nhìn chung lực lượng lao động của ngành tương đối đông đảo nhưng chất lượng
chưa cao do phần lớn là lao động thủ công, ít được đào tạo cơ bản, số thợ bậc cao
lại giảm xuống do nghỉ hưu, lực lượng công nhân trẻ đào tạo chậm, tay nghề non
yếu, do vậy bố trí sản xuất khó khăn. Do điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, thời
gian thành thạo tay nghề lâu nên những công nhân sắp chữ, chế bản, vận hành máy
in mỗi khi cần bổ sung rất khó khăn. Đội ngũ kỹ sư còn bị phân tán, việc sử dụng
còn chưa hợp lý, không có điều kiện nâng trình độ. Các xí nghiệp in địa phương
thiếu kỹ sư công nghệ, đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý kinh tế còn mỏng và yếu.
Lực lượng lao động của ngành đang gặp phải những khó khăn. Vấn đề cấp
bách cần đặt ra là phải nhanh chóng có phương hướng đào tạo, bồi dưỡng trong
nước và ngoài nước bằng mọi biện pháp đổi mới về chất lượng của lực lượng lao
động này để có đủ khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, tiên tiến cũng như phương pháp
quản lý mới.
Với hiện trạng kinh tế - kỹ thuật của ngành in như đã nói ở trên cộng thêm việc
thiếu vật tư chuyên dùng, việc quản lý lỏng lẻo và phân tán đã làm ảnh hưởng đến
sự phát triển của ngành in, làm cho ngành in ngày càng tụt hậu.
Đầu những năm 90 tuy năng lực sản xuất vốn đã nhỏ bé, lạc hậu. Máy in cũ kỹ

rơ rão, nhưng cũng đã khai thác gần hết công suất. Sản lượng trang in đạt xấp xỉ 60
tỉ trang/năm, không thoả mãn nhu cầu của xã hội. Bình quân đầu người, chỉ tiêu
mức hưởng thụ văn hoá của nước ta thuộc loại thấp nhất thế giới, chỉ mới đạt : sách
0,7 bản/năm, báo 4 bản/năm và văn hoá phẩm 0,32 bản/năm, mức hưởng thụ đó chỉ
bằng 1/15 đến 1/10 so với các nước anh em. Cả nước có 15 triệu người đi học,
nhưng sách giáo khoa chỉ đảm bảo được 2 bản/đầu người. Các loại sách báo và văn
hoá phẩm khác không đáp ứng được nhu cầu của toàn xã hội.
Truyền thống cách mạng quang vinh của ngành in Việt Nam, mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước, nhu cầu hưởng thụ văn hoá của một xã
hội văn minh trong tương lai không cho phép chúng ta kéo dài tình trạng trên.
Ngành công nghiệp in Việt Nam phải tự tìm cho mình con đường đi lên, con đường
phát triển toàn diện, làm ngắn lại khoảng cách với trình độ tiên tiến của nền công
nghiệp in thế giới. Từ đó công nghệ in OFFSET được phát triển thay thế cho công
nghệ in Typô cũ kỹ và lạc hậu. Đó chính là một sự chuyển đổi đúng đắn, mau chóng
và có hiệu quả. Một cuộc cách mạng về công nghệ in, đã làm cho ngành in Việt
Nam tiến bộ lên rất nhiều.
I.1.2. Ngành in Việt Nam trong những năm đổi mới.
Đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI (1986) khởi xướng như một luồng gió
ấm áp, khơi dậy năng lực sáng tạo mạnh mẽ, tạo nên mức tăng trưởng đáng khích lệ
của nền kinh tế và sự khởi sắc của mọi lĩnh vực hoạt động của đất nước, trong đó có
ngành in.
Vượt qua muôn vàn thử thách cay nghiệt của những năm cuối thập kỷ 80,
ngành in đã thích nghi dần và trụ vững trước những thử thách của cơ chế thị trường,
đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Trong những năm 1991-1998 ngành đã
có bước phát triển cả về số lượng và về chất lượng. Từng đơn vị cơ sở đều có sự đổi
mới và mức tăng trưởng khá, công tác quản lý có tiến bộ. Một sinh khí mới đang
được tạo ra trong ngành in và sự đóng góp của ngành ngày càng tốt hơn cho công
cuộc đổi mới, cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tại kỳ họp thứ
8 Quốc hội khoá IX, Thủ tướng Chính phủ đã đánh giá : " Ngành in là một trong
những ngành đã bỏ qua một số bước đi để phát triển thẳng vào giai đoạn hiện

đại ". Đó chính là cách đi để rút ngắn khoảng cách tụt hậu của ngành.
Từ sau Hội nghị ngành in năm 1992 đến nay phần lớn các cơ sở in đã vượt qua
cơn sốc khi thay đổi cơ chế quản lý, thích nghi tương đối nhanh với hoạt động thị
trường, kinh doanh có lãi, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước và cải thiện đời sống
CBCNV. Từ chỗ thu nhập bình quân của các xí nghiệp in từ 100 đến 200 ngàn
đồng/người/tháng vào năm 1991, đến năm 1995 đã tăng lên từ 200 đến 300 ngàn
đồng/người/tháng, từ năm 1998-2000 nhiều xí nghiệp in trên toàn quốc đã đạt thu
nhập bình quân trên 1 triệu đồng/người/tháng.
Có được kết quả như trên là do các xí nghiệp đã mạnh dạn áp dụng nhiều biện
pháp đồng bộ trong tổ chức sản xuất và quản lý, đầu tư đổi mới trang thiết bị và
công nghệ. Từ đó đã đáp ứng được việc đa dạng hoá sản phẩm tạo ra thế mạnh riêng
của từng xí nghiệp.
Về cơ sở vật chất, kỹ thuật và công nghệ của toàn ngành in đã có những bước
tiến bộ đáng kể. Bằng những nỗ lực phấn đấu cho sự tồn tại của cơ sở mình, để có
chỗ đứng vững trong cơ chế thị trường, thu hút nguồn hàng, làm tròn trách nhiệm
với Đảng, Nhà nước, những người lãnh đạo ở các cơ sở in trong ngành đã mạnh dạn
đầu tư công nghệ, trang thiết bị tương đối đồng bộ để phục vụ cho sản xuất, không
nằm ngoài mục đích là đa dạng hoá sản phẩm, phục vụ, đáp ứng yêu cầu của xã hội
đồng thời mang lại thu nhập, ổn định đời sống CBCNV và đem lại lợi nhuận cao
cho đơn vị, cơ sở mình.
Đến năm 1995 cả nước đã có 1250 máy các loại, trong số đó có nhiều máy in
hiện đại có hệ thống tự động kiểm tra chất lượng. Hiện nay so với năm 1995 hầu
như máy in Typô đã bị loại ra khỏi dây chuyền công nghệ, bù vào đó là máy in
OFFSET có công suất lớn. Chất lượng sản phẩm cao hơn chính nhờ có sự đổi mới
công nghệ từ Typô sang OFFSET trên quy mô cả nước với tốc độ khá cao và bước
đi thích hợp, nên sản lượng sản phẩm của ngành đã tăng với nhịp độ hai chữ số
hàng năm, đồng thời tạo ra bộ mặt đẹp đẽ cho sách, báo và các loại sản phẩm khác.
Giai đoạn chế tạo khuôn in cũng có những bước tiến quan trọng cả về chất
lượng và số lượng. Từ chỗ thụ động phân màu theo bản mẫu của khách hàng, nay
với những thành tựu của kỹ thuật tin học, cộng với yêu cầu chất lượng ngày càng

tăng, một số xí nghiệp đã tạo ra những bản mẫu theo đơn đặt hàng với chất lượng
ngày càng cao. Sự xuất hiện của hệ thống liên hoàn tạo mẫu chế bản ở nước ta gần
đây đã làm cho chất lượng ấn phẩm được nâng cao rõ rệt, theo kịp và đáp ứng với
đòi hỏi không ngừng tăng lên của người tiêu dùng, đồng thời mở ra khả năng hoà
nhập với thị trường in của khu vực và thế giới, rút ngắn được quá trình sản xuất
trước khi in.
Khâu sắp chữ được vi tính hoá trên diện rộng đã góp phần nhanh chóng cải
thiện chất lượng, rút ngắn chu kỳ sản xuất của nhiều xí nghiệp in, đặc biệt nhất là
đối với các nhà in địa phương.
Quá trình gia công sau in được coi trọng hơn trước, bên cạnh đầu tư các thiết
bị truyền thống như máy dao xén giấy, máy đóng thép, máy gấp, máy khâu chỉ v.v
Một số nhà in đã trang bị dây chuyền đóng sách bằng keo dán tổng hợp. Tuy so với
thế giới là quá chậm và không có gì mới, song việc khai thác có hiệu quả công nghệ
mới này cho thấy với điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng, ẩm như ở nước ta vẫn có thể
áp dụng được công nghệ đóng sách bằng keo dán tổng hợp và đã cho ra những sản
phẩm đẹp.
Từ những đổi mới công nghệ như vậy mà bộ mặt của sản phẩm in nói chung
đã phong phú hơn trước và đã được nhiều người tiêu dùng chấp nhận. Các loại sách
báo, tạp chí in đẹp, đặc biệt là các loại sách giáo khoa lâu nay hầu như chỉ in một
màu đen trắng thì gần đây với công nghệ hiện đại đã in được những loại sách,
truyện tranh nhiều màu sinh động, phù hợp với mọi lứa tuổi.
Một số loại sản phẩm khác của ngành in như nhãn hàng, bao bì cũng có những
tiến bộ đáng phấn khởi. Từ những bao bì cứng như cactông các loại, đến những bao
bì mềm như giấy và màng PE,PP đều được in đẹp hơn trước, góp phần vào việc
nâng cao văn minh thương nghiệp.
Song song với việc đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị, các xí nghiệp
cũng đã chú ý đến việc cải tạo và xây dựng nhà xưởng, trang thiết bị bảo vệ môi
trường và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Bằng những phấn đấu
vươn lên của từng cơ sở trong việc sản xuất kinh doanh mà nguồn vốn, phần lớn các
xí nghiệp đã sử dụng vốn vay hoặc vốn tự có của đơn vị, cơ sở mình. Một số cơ sở

khó khăn, các cơ sở đơn vị ở vùng sâu, vùng xa thì được sự hỗ trợ của ngân sách
Trung ương và địa phương.
Bên cạnh những tiến bộ về tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới công nghệ, đa
dạng hoá sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm, nhiều cơ sở in đã tổ chức lại
sản xuất, cải tiến phương thức quản lý và điều hành, thích ứng với cơ chế mới, tự
khẳng định và phát triển bằng nhiều biện pháp khác nhau.
Trong những năm qua, các xí nghiệp in đã phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị, công
tác tư tưởng góp phần tích cực vào việc phát triển văn hoá, kinh tế và nâng cao dân
trí thông qua món ăn tinh thần là các sản phẩm như sách, báo, tạp chí và các loại
văn hoá phẩm khác.
Gắn liền với các cơ sở in của ngành thì các cơ sở sản xuất kinh doanh thiết bị
vật tư ngành in hàng năm cũng đã khai thác và cung cấp khoảng 25 ngàn tấn giấy
các loại kể cả sản xuất trong nước và nhập ngoài nước. Lượng giấy sản xuất trong
nước là 15 ngàn tấn còn 10 ngàn tấn nhập ngoại, cung ứng hàng trăm tấn mực in các
loại và gần 500.000 bản in, hàng trăm máy in và nhiều loại vật tư kỹ thuật chuyên
dùng khác. Để phù hợp với cơ chế thị trường, các Công ty kinh doanh vật tư kỹ
thuật ngành in đã chủ động khai thác nguồn hàng, cung ứng tại chỗ cho những cơ sở
cần tiêu thụ, tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng.
Lúc đầu một số cơ sở sản xuất vật liệu in, sửa chữa cơ khí in còn gặp nhiều
khó khăn, lúng túng trong kinh doanh, nhưng đén nay với những hướng đi khác
nhau, nên đã có nguồn thu ngày một tăng, đời sống người lao động được cải thiện.
Một số xí nghiệp do nắm bắt được nhu cầu đổi mới của các cơ sở in đã mạnh dạn
mở rộng hoạt động kinh doanh, sản xuất ra nhiều thiết bị phụ trợ góp phần vào sự
phát triển chung của ngành in Việt Nam.
Trong những năm gần đây hoạt động sản xuất kinh doanh của một số xí nghiệp
còn gặp những khó khăn trong bối cảnh chung của nền kinh tế tuy đã ra khỏi cuộc
khủng hoảng nhưng vẫn còn một số mặt chưa vững chắc. Mặc dù vậy tổng sản
lượng trang in của toàn ngành vẫn tiếp tục tăng 10%, đạt xấp xỉ 185 tỉ trang in khổ
13x19 cm năm 1996. Năm 1997 đạt 187 tỉ và năm 1998 đạt 198 tỉ trang in trong đó
chưa tính đến sản lượng của các cơ sở in tư nhân và in bao bì trên các loại vật liệu

không phải là giấy. Cơ cấu sản phẩm tiếp tục dịch chuyển theo hướng tăng tỉ trọng
các mặt hàng tem nhãn, bao bì, báo chí, trong đó yếu tố tăng trang in màu chiếm tỷ
trọng cao.
Sự chuyển dịch cơ cấu sản phẩm trên là đúng hướng, nó phản ánh sự tăng
trưởng kinh tế đi đôi với đòi hỏi ngày càng cao của xã hội về chất lượng ấn phẩm
trong đó có nhu cầu của người tiêu dùng.
Bên cạnh những tiến bộ đã đạt được của ngành in Việt Nam trong những năm
đổi mới, hoạt động của các cơ sở in từ sau Hội nghị toàn quốc cũng còn gặp những
khó khăn:
- Nhiều xí nghiệp in còn hiện tượng thiếu việc làm, không ổn định đời sống
CBCNV nhất là những ngày, tháng đầu năm. Thời gian khai thác thiết bị thấp, một
số nơi chỉ đạt 50-60% công suất.
- Năng lực công nghệ cũng bộc lộ những mâu thuẫn và yếu kém nhất là ở 2
khâu trước in và sau in còn yếu, không đáp ứng được chất lượng của sản phẩm.
- Quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh nhiều nơi còn lúng túng, chậm đổi
mới công nghệ, thiết bị. Có nơi thì đầu tư tràn lan, thiếu chọn lọc dẫn đến hiệu quả
kém gây ra nợ nần và lãng phí. Hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, chưa vận
dụng các nguồn lực, các thế mạnh hiện có.
Nhìn chung từ sau Hội nghị ngành in năm 1992, toàn ngành ta đã trải qua một
chặng đường đầy thử thách, nhưng đã mở ra những triển vọng và những cơ hội phát
triển mới. Cơ sở vật chất, năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm đã có những
tiến bộ đáng kể, đội ngũ công nhân ngày càng trưởng thành và có thêm kinh
nghiệm, con đường đổi mới và phát triển của ngành in Việt Nam đã được khẳng
định và có nhiều hứa hẹn.
Đảng và Nhà nước ta luôn giành cho ngành xuất bản, trong đó có ngành in sự
quan tâm thường xuyên và toàn diện trong thời gian 5 năm trở lại đây. Nhiều chỉ
thị, nghị quyết đã được ban hành nhằm tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt
động và tạo điều kiện cho ngành in phát triển đúng hướng, giữ vững vai trò mắt
xích quan trọng trong hệ thống các công cụ tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, nâng
cao dân trí, phát triển kinh tế và văn hoá của đất nước.

Biểu tổng hợp năng lực ngành in năm 1991-1999
Diễn giải 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Tổng sản
phẩm trang
in 13x19
(triệu trang)

75.00
0
90.00
0
115.00
0
145.00
0
165.00
0
185.00
0
187.00
0
198.00
0
205(ư
ớc
tính)
Nhịp độ
phát triển
liên hoàn
(%)

100,0
0
120,0
0
127,77

126,09

113,79

112,12

101,08

105,88

103,53

Nhịp độ
phát triển
so với định
gốc (%)
100,0
0
120,0
0
153,33

193,33


220,00

246,66

249,33

264,00

273,33


I.2.Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với ngành in.
Từ trước tới nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng ngành in là một trong
những phương tiện trọng yếu thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chiến lược của
Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Như đồng chí Trường Chinh đã nói : " Máy
in là một phương tiện và nhà máy in là một cơ sở của cách mạng tư tưởng và văn
hoá dưới chế độ ta, đồng thời là công cụ chuyên chính vô sản ".
Thật vậy, từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ ngành in đã thầm lặng
cùng toàn dân tham gia chiến đấu và ghi những chiến công oanh liệt gắn liền với
lịch sử dân tộc. Nhiệm vụ của ngành in trong giai đoạn này chủ yếu là góp phần
tuyên truyền, giáo dục chủ trương, đường lối chính sách đúng đắn của Đảngvà Nhà
nước ta tới các tầng lớp nhân dân. Đồng thời cũng giúp cho bạn bè khắp năm châu
hiểu thêm về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, để đồng tình ủng hộ
chúng ta chống lại kẻ thù tàn bạo. Từ năm 1949, Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh thành
lập nhà in Quốc gia trực thuộc Nha tuyên truyền để in nhiều tài liệu, sách, báo phục
vụ cho cách mạng. Mặc dù lúc bấy giờ kỹ thuật công nghệ in còn rất thô sơ, chỉ
bằng các phương pháp như in đá, in rô-nê-ô, in Typô Đảng ta luôn luôn xác định
ngành in là công cụ của chuyên chính vô sản, là vũ khí sắc bén trên mặt trận chính
trị, tư tưởng, văn hoá; là phương tiện để tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, phổ
biến các chủ trương, chính sách của Đảng tới mọi tầng lớp quần chúng nhân dân.

Như chúng ta đã biết rằng lúc bấy giờ phương tiện truyền thông đại chúng chủ yếu
là sách, báo nhưng không phải là dồi dào như hiện nay. Ngành in nước ta được xác
định như một ngành do Nhà nước độc quyền quản lý vì thế các nhà in tư nhân đều
được cải tạo thành các nhà in do Nhà nước quản lý và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của
Bộ Văn hoá-Thông tin. Từ những năm đầu của chính quyền cách mạng, Đảng ta đã
chủ trương xây dựng các cơ sở in ở khắp các tỉnh, thành trong toàn quốc mà sau này
là những nhà máy in chủ chốt của các tỉnh thành với đội ngũ cán bộ nòng cốt vững
chắc cho ngành.
Thời kỳ đất nước đi vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngành in lại
càng có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Đảng ta đã đặt vị trí ngành in đúng với
vai trò và tầm vóc của nó. Nhất là trong thời kỳ đổi mới Nhà nước ta đã có những
định hướng đúng đắn cho ngành. Từ trước tới nay Đảng ta vẵn luôn coi trọng ngành
in không phải là một ngành công nghiệp thuần tuý, chỉ chạy theo lợi nhuận kinh tế
trước mắt mà bị thương mại hoá. Ngành in nước ta luôn lấy lợi ích chính trị làm
mục tiêu hàng đầu, góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,
đáp ứng những nhu cầu ngày càng cao của xã hội, xây dựng một đời sống văn hoá
tinh thần lành mạnh, phong phú. Điều đó càng khẳng định rõ bản chất tốt đẹp của
chế độ xã hội chủ nghĩa là coi trọng tính nhân văn của con người. Gần đây Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 2 khoá VIII đã có Nghị quyết chuyên đề về công nghệ và
phát triển giáo dục đào tạo. Ngành in đang đứng trước một nhiệm vụ nặng nề, yêu
cầu phải tự đổi mới cả về số lượng lẫn chất lượng, đồng thời phải đẩy nhanh tiến độ
xây dựng các cơ sở in mới đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc của xã hội. Trước
những yêu cầu của nhiệm vụ, về khách quan mà nói ngành in đang có những bước
chuyển biến mạnh mẽ, nhất là những năm gần đây. Nhìn chung, ngành in nước ta đã
tiếp thu được những công nghệ in tiên tiến trên thế giới, thể hiện rõ nét qua tốc độ
OFFSET hoá các nhà in trên toàn quốc. Sự phát triển nhảy vọt này mang tính cách
mạng, đã làm thay đổi toàn bộ diện mạo ngành in nước ta.
Tóm lại : Đảng và Nhà nước ta đã chăm lo xây dựng ngành in để nó luôn tồn
tại và không ngừng phát triển đi lên vững chắc, góp phần quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhất định ngành in sẽ cùng toàn Đảng, toàn

dân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
II.Nhà máy in Quân Đội những chặng đường phát triển.
Nhà máy in Quân Đội được thành lập trong kháng chiến chống Pháp với nhiệm
vụ chủ yếu là in các tài liệu phục vụ cho quân đội. Trải qua 55 năm xây dựng và
trưởng thành(nhà máy in Quân Đội được thành lập vào 17-12-1946), nhà máy đã
phát triển không ngừng, đứng vững trước mọi khó khăn thử thách. Khi mới thành
lập, nhà máy chỉ có mấy chiếc máy in Typô cũ. Năm 1960, nhà máy từ an toàn khu
Định Hoá chuyển về xã Phú Diễn-Từ Liêm-Hà Nội, cơ sở vật chất được xây dựng
mới và được trang bị tương đối hiện đại và đồng bộ. Từ năm 1986 đến nay, có thể
coi là một thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của nhà máy. Được sự quan tâm chỉ đạo
sát sao của cấp trên cùng với sự nỗ lực của ban giám đốc cũng như toàn thể công
nhân, nhà máy đã đứng vững trước mọi khó khăn thử thách của nền kinh tế. Nhà
máy đã mạnh dạn đầu tư kỹ thuật, hoàn thiện cơ cấu quản lý và tổ chức lại sản xuất,
thiết lập dây chuyền in OFFSET (loại bỏ công nghệ in Typô), đào tạo lại đội ngũ
cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, tích cực khai thác nguồn việc đẩy mạnh sản
xuất. Đặc biệt về cơ cấu sản phẩm và chất lượng in đã phong phú hơn, đa dạng hơn
và có những bước tiến vượt bậc. Những sản phẩm của nhà máy đã chinh phục được
những khách hàng khó tính nhất. Phát huy sự sáng tạo trong quản lý xí nghiệp,
trong tổ chức sản xuất, kinh doanh, tạo điều kiện cho cán bộ công nhân chủ động tự
giác lao động có chất lượng, hiệu quả, gắn bó với nhà in. Đồng thời nhà máy cũng
thường xuyên chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần cũng như môi trường làm
việc của CBCNV. Ngoài ra đội ngũ lãnh đạo của nhà máy cũng đang được trẻ hoá.
Nhà máy luôn mở rộng quan hệ, mở rộng thị trường. Đội ngũ Marketting của nhà
máy đã và đang khai thác tốt thị trường, thu hút được nhiều khách hàng mới và giữ
vững được mối quan hệ với khách hàng cũ. Cùng với đội ngũ công nhân có tay
nghề cao, nhiệt tình, có tinh thần làm chủ cao đối với các máy móc, thiết bị hiện đại
thì việc in những sản phẩm cao cấp và có uy tín trên thị trường không là điều khó
khăn và trở ngại. Đây là vấn đề mà ban giám đốc cũng như toàn thể công nhân của
nhà máy luôn hướng tới.
Về thiết bị, mặc dù dây chuyền công nghệ in OFFSET của nhà máy chưa thuộc

vào diện hiện đại song tính đồng bộ của dây chuyền được phát huy tối đa đảm bảo
sản phẩm của nhà máy có uy tín, chất lượng. Nhà máy có hướng đầu tư nâng cấp
trang thiết bị như máy in OFFSET, máy gấp sách, máy đóng sách, máy xén mới để
nâng cao chất lượng sản phẩm in tốt hơn.
Với những thay đổi cơ bản trên, nhà máy luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ in
tài liệu phục vụ cho quân đội và một số tạp chí định kỳ quan trọng khác như: Quốc
phòng toàn dân, Văn nghệ quân đội, Tạp chí giao thông vận tải
Bên cạnh những thế mạnh, thuận lợi, nhà máy còn gặp nhiều khó khăn. Trong
cơ chế thị trường hiện nay, để có việc làm ổn định cho gần 200 công nhân là một
việc hết sức khó khăn và cấp bách của ban lãnh đạo nhà máy.

Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý của nhà máy in Quân Đội









Giám đốc nhà
máy

Phòng tổ
chức hành
chính

Phòng tài
chính


T
ổ c
ơ đi
ện

T
ổ bảo vệ

Phó giám đốc kế
hoạch sản xuất-
kinh doanh

Phòng kế hoạch-
s
ản xuất

Phân xư
ởng chế bản

Phân xư
ởng in

Phân xư
ởng sách

Phân xư
ởng PS



phần thứ hai
Cơ sở lý thuyết công nghệ in
Muốn tạo ra một sản phẩm in chúng ta phải trải qua 3 giai đoạn đó là:
- Trước in: Khâu chế bản.
- In: Khâu in.
- Sau in: Khâu gia công và hoàn thiện ấn phẩm.
I. Khâu chế bản
Chế bản là công đoạn đầu tiên trong quá trình in offset để có được sản phẩm
tốt đạt chất lượng cao thì phụ thuộc rất nhiều ở khâu này. Do đó trong khâu này
phải thực hiện theo đúng yêu cầu của phiếu sản xuất và phải có độ chính xác cao.
Sơ đồ quy trình công nghệ chế tạo ra khuôn in offset














1. Yêu cầu kỹ thuật về bản mẫu
Đối với ảnh và chữ:
- Bài mẫu phải đủ tất cả màu sắc và tông màu mang trên giấy và phim.
- Vật mang thông tin của bài mẫu là phản xạ hoặc phải trong suốt tuỳ thuộc
vào màu sắc bài mẫu đen trắng hoặc bài mẫu màu.

Nguyên mẫu
Soạn thảo trên máy
tính in lên gi
ấy can
để nhận đư
ợc bản chữ
dương

Quét hình ảnh đen
trắng màu, sau đó
phân màu trên máy
tách màu đi
ện tử
đ

ảnh

Ch


Phơi b
ản

Bình bản để nhận
được khuôn ảnh,
khuôn phim

Hi
ện rửa
- Độ đen của bài mẫu phải được tiêu chuẩn hoá từ 1,4  0,2dpi nếu bản mẫu có

mật độ thấp hơn thì sẽ không đảm bảo chất lượng hình ảnh thiếu chi tiết và tầng thứ.
2. Sắp chữ điện tử soạn thảo trên máy vi tính
Quá trình sắp chữ điện tử trên máy vi tính sau đó từ máy in đã được kết nối với
máy tính in ra giấy can, bản mẫu chữ được nhập vào máy tính thông qua các phần
mềm soạn thảo bằng ngôn ngữ tiếng việt như Win Word, Excel, Vietstas, Bked,
VNI, Ventura Trong khi soạn thảo văn bản ta tiến hành đặt số trang bằng các phần
mềm chế bản. Như Ventura, Corel, Pagemaker, Quarkxpress. Đặt trang in là qúa
trình sắp xếp trình bày trang chữ của ấn phẩm in sao cho phù hợp với nội dung cách
bố trí cân xứng hình ảnh minh họa hài hoà, đẹp đảm bảo được cả về mặt kỹ thuật và
hình thức cho trang chữ in.
3. Quét hình và phân màu trên máy tách màu
Phương pháp in offset là tất cả những phần tử in và không in nằm gần như trên
một mặt phẳng, khi in bằng các khuôn in này tầng thứ được phân chia bằng sự thay
đổi lượng mực ít nhiều. Để thực hiện việc truyền tầng thứ người ta phải phân chia ra
những điểm mà trong ngành in gọi là điểm t’ram. Các phần tử của mẫu có mật độ
quang học khác nhau được truyền lên tờ in bằng các điểm có diện tích khác nhau.
Nếu phần tử in càng lớn thì phần tử trắng càng nhỏ tức là phần tối của mẫu có
mật độ lớn còn phần sáng có mật độ nhỏ được truyền bằng những điểm có diện tích
nhỏ.
- Chụp ảnh phục chế là quá trình từ mẫu chế ra phim bằng phương pháp chụp
ảnh. Có 2 phương pháp chụp ảnh phục chế đó là phương pháp quang cơ và phương
pháp phân tách màu điện tử.
* Quy trình công nghệ chụp ảnh đen trắng
Khi cần chụp một mẫu nào đó ta phải biết trước được tỷ lệ thu phóng của ảnh
cần chụp từ đó tìm ra khoảng cách từ vật tới ống kính và từ phim tới ống kính. Khi
chụp điều quan trọng nhất là kích thước thu phóng của ảnh phải đúng, các chi tiết
của ảnh phải nét, lượng ánh sáng đập vào bản mẫu qua thấu kính tác dụng lên phim
phải phù hợp với từng loại mẫu và từng loại phim.
Tiến hành chụp ảnh: Mắc mẫu lên giá, bật đèn chiếu cho ảnh hiện lên kính mờ,
phải điều chỉnh cho khuôn khổ của ảnh đúng với yêu cầu của mẫu. Khi đã đạt được

yêu cầu về kích thước và độ nét giữ nguyên vị trí của ống kính và tắt đèn, lắp phim
lên giá (chú ý khuôn khổ của phim không quá lớn nhằm tiết kiệm phim và hoá chất
khác). Sau đó bật đèn trở lại chọn thời gian chụp cho diapham mở ra để ánh sáng
tác động lên lớp nhũ tương trên phim- giai đoạn này gọi là lộ sáng.
Tiếp đến là công đoạn hiện hình: Đây là quá trình ảnh ẩn chuyển sang nhìn
thấy được. Thực chất đây là phản ứng ôxy hoá khử với chất khử trong dung dịch
hiện.
Sau khi hiện hình xong tiến hành định hình: Mục đích nhằm tẩy sạch phần tử
AgBr ở những chỗ không bị ánh sáng tác dụng.
Quá trình làm phim có thể xảy ra sai sót, làm cho hình ảnh không đủ độ đen
hoặc có độ đen quá lớn. Vì vậy người ta phải tiến hành sửa lại cho đúng với mật độ
của mẫu. Quá trình sửa phim thực chất là quá trình “làm mỏng”- “tra dày” làm tăng
hoặc giảm hạt Ag đã hoàn nguyên (tăng độ đen). Quá trình tra dày hoặc làm mỏng
có thể làm trên toàn bộ phim hoặc cục bộ chỗ nào thấy cần thiết.
Việc sửa phim có thể làm thủ công căn cứ vào bản mẫu màu và mẫu đen của
từng phim âm bản để quy định tăng hoặc giảm phim âm bản.
Sau khi có âm bản hoàn chỉnh tiến hành công tắc ra dương. Nếu là phim nửa
tông phải công tắc qua phim t’ram.
* Quy trình công nghệ chụp ảnh phục chế mẫu màu
Các phần có màu sắc khác nhau không thể phục chế trên giấy bằng màu mực
in, vì vậy để tái tạo mẫu nhiều mầu đòi hỏi nhiều mực in khác nhau, mỗi màu mực
in cần phải có một khuôn in riêng biệt, trên khuôn in đó có những phần tử in sẽ là
những phần của ảnh tương ứng với mực được tách ra, còn những phần của ảnh được
truyền bằng các mực khác nhau thì trên khuôn in này sẽ là những phần tử không in.
Khuôn in mà trên đó những phần tử tách ra của ảnh tương ứng với một màu mực in
gọi là khuôn in phân màu.
Để chế được khuôn in đó cần phải sơ bộ chế âm bản phân màu, sau đó dương
bản phân màu. Như vậy trên khuôn in phân màu, tức là trên âm bản phân màu phải
chế ra hình ảnh tương ứng với mầu mực cần tách ra.
Thực chất phân màu bằng phương pháp quang cơ là chế ra một bộ âm bản

phân màu, bao nhiêu âm bản tương đương với bấy nhiêu mầu mực cần tách ra. Từ
một mẫu nhiều màu chế ra một bộ âm bản phân màu, rồi từ âm bản phân màu chế ra
dương bản phân màu.
Nguyên lý phục chế mẫu bằng 3 mực in dựa trên sự phối hợp tỷ lệ giữa 3 mầu
ta có thể thu được bất kỳ màu nào.
* Phục chế theo phương pháp phân màu.
Để cho âm bản phân màu các phần màu cơ bản được tách ra phải trong suốt có
mật độ tương ứng với tầng thứ của mực này trên mẫu, thì quá trình chế ra âm bản
này sao cho tất cả các tia sáng được phản xạ lên từ phần mực được tách ra không
được tác động lên lớp thuốc nhạy sáng của phim mà chỉ tác động lên phim những
tia sáng phản xạ từ các phần còn lại của mẫu.
Phương pháp đơn giản nhất là đặt trước phim một kính lọc sắc có thể hấp thụ
những tia sáng phản xạ từ mực được tách ra và cho qua các tia còn lại như là lọc
ánh sáng phản xạ lên từ mẫu.
Như ta đã biết khi in chồng ba màu mực cơ bản của tổng hợp màu trừ: Vàng +
đỏ xen + xanh da trời = đen.
Nhưng trong thực tế sản xuất chỉ ra khi in ba màu mực cơ bản này chồng lên
nhau không thể phục chế hết các tông màu tối của mẫu do vậy ta phải in thêm màu
mực thứ tư đó là màu đen vì những lý do sau:
- Tăng độ bao hàm theo các gam màu tối.
Tăng độ nét các chi tiết ảnh, ảnh sẽ có độ sâu.
giữ được thế cân bằng các tông xám.
Sau khi có dương bản phân màu ta chế ra bộ khuôn in, sau đó in từng màu mực
chồng khít vào nhau trên một tờ in ta được nhiều màu phục chế.
Qúa trình phân chia ảnh ra các phần có diện tích khác nhau gọi là t’ram hoá.
Qúa trình t’ram hoá có thể thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp. Tức là có thể
xảy ra đồng thời với quá trình phân màu trực tiếp hoặc từ âm bản nửa tông phân
màu (gián tiếp).
* Nguyên lý phục chế mẫu nhiều màu bằng ba màu mực in.
Trong ngành in việc phục chế mẫu màu thực hiện theo phương pháp tổng hợp

trừ. Tức là kết qủa của việc chồng lần lượt ba lớp mực màu liên tiếp lên nhau.
Ba lớp mực đó là ba màu cơ bản của tổng hợp màu trừ.
Đỏ xen: Magenta (M)
Xanh da trời: Cyan (C)
Vàng:Yellow (Y)
Mỗi màu mới thu được cho kết quả của việc hấp thụ liên tiếp bức xạ thông
lượng ánh sáng, phần còn lại sẽ phản xạ đập vào mắt người, ta nhận biết được các
loại tông màu khác nhau.
Như vậy mỗi loại mực có tác dụng như một kính lọc sắc 2 vùng: Hấp thụ bức
xạ một vùng và cho xuyên qua 2 vùng kia của quang phổ. Chính độ dày lớp mực sẽ
điều chỉnh lượng hấp thụ.
Góc độ t’ram
Điểm chính của phục chế ảnh màu trong ngành in là chồng ảnh của từng loại
mực lên nhau, 4 ảnh đều là ảnh t’ram nên để tránh hiện tượng more ảnh thì mỗi màu
phải xoay đi một góc độ nhất định.
Phim dương Góc nghiêng t’ram
Vàng
Đỏ
Xanh
Đen
0
o

75
o

15
o

45

o
Phục chế ảnh bằng máy phân màu điện tử
. Ngày nay việc phục chế ảnh màu hầu như được thực hiện trên máy phân màu
điện tử (hay còn gọi là máy quét Scanner).
Máy phân màu điện tử chiếu tách các cấu tử màu ở bản mẫu thông qua hệ
thống vi xử lý, biến tín hiệu quang năng thành điện năng phù hợp với bước sóng của
từng màu thông qua t’ram tạo hình ảnh tác động lên vật liệu cảm quang.
4. Quy trình chế khuôn phim .
Công đoạn này giữ vai trò quan trọng trong quá trình in và gia công tờ in sau
này. Đây là quá trình dàn khuôn cho máy in trong đó các đối tượng bao gồm: chữ,
hình ảnh, hoạ tiết được ghép trên từng khuôn cụ thể để tạo thành một sản phẩm nào
đó theo yêu cầu.
Quy trình chung bao gồm các bước sau:
a.Dựng makét dàn khuôn:
Việc làm đầu tiên của khâu bình bản là quá trình biến những thông tin của
makét sản phẩm và xác định vị trí thật của các đối tượng cần bình trên một khuôn
in cụ thể, nhiệm vụ của quá trình này là:
Xác định khổ giấy in: xác định số lượng sản phẩm trên khuôn đó, xác định số
khuôn cần bình, xác định vị trí của từng loại sản phẩm trên khuôn, xác định tay kê,
xác định loại khuôn in, xác định trang chữ hình ảnh trên khuôn, xác định đối tượng
thật của đối tượng cần dán độc lập. Tất cả các thông tin trên makét dàn khuôn phải
được vẽ thuận chiều với tờ in sau này.
b. Cắt dán các đối tượng
- Chuẩn bị đế bình: Cắt đế mới theo khuôn khổ cần bình. Đối với đế cũ phải
lau sạch hai mặt. Nếu bình bằng thước định vị thì đục lỗ cùng chiều cho tất cả các
đế cần bình.
- Chuẩn bị băng dính,phim, giấy can, makét của khuôn cần bình.
- Dán makét dàn khuôn xuống vị trí trên bàn bình sao cho thuận lợi nhất.
- Tiến hành bình: Dán chặt đế trong lên makét dàn khuôn, dán các dấu chỉ dẫn,
Cắt các đối tượng phù hợp với vị trí dán, Dán các đối tượng vào vị trí đã xác định.

- Khi dán chú ý: Chữ phải ngược gương với tờ in sau này.
- Đối với sản phẩm in nhiều màu ta nên chọn màu nào có nhiều hình ảnh gần
giống với tờ in sau này nhất để bình trước.
- Thứ tự các màu không cố định, nhưng tuỳ từng sản phẩm ta chọn thứ tự bình
theo nguyên tắc: Nền của chi tiết bình trước, nền của toàn trang sản phẩm bình sau.
- Chú ý tới các dấu ốc của các khuôn chồng màu phải trùng khít lên nhau, góc
độ t’ram phải chuẩn khi ghép các khuôn màu nửa tông thì gắn các thang tầng thứ
màu vào khuôn phim.
- Do quá trình bình bản bằng thủ công nên độ chính xác chồng màu không cao,
làm giảm chất lượng của sản phẩm in nhất là đối với những sản phẩm in cao cấp.
- Vì thế xu thế tới đây quá trình bình bản sẽ được thực hiện trên máy tính
chuyên dụng: các phần chữ và hình ảnh sẽ được mã hoá bằng Scanner trên máy
tính.
- Đồng thời quá trình này còn cho phép thực hiện được nhiều kỹ sảo cắt ghép
ảnh nghệ thuật.
- Tất cả khi ghép xong được in ra trên máy in (toàn trang).
- Quá trình bình bản hoàn hảo như vậy sẽ nâng cao độ chính xác chồng màu,
làm cho quá trình phơi bản được thuận lợi cho chất lượng in cao hơn, không gặp
những khó khăn trở ngại của khâu bình bản thủ công như độ thấu quang không đạt
hay sự khác nhau của giấy can và về độ dầy mỏng của phim.
- Phơi bản
- Ngày nay hầu hết các nhà in trong cả nước loại bỏ loại bản tự tráng màng
cảm quang (bản tái sinh) mà thay vào đó là loại bản tráng sẵn gọi màng cảm quang
diazo dương.
- Bản chất của quá trình phơi bản là dùng ánh sáng giàu tia tử ngoại của đèn
phơi tác dụng lên màng nhạy sáng diazo. Tại những chỗ phần tử in trên tờ mẫu phơi
hình dáng bị giữ lại không tác dụng lên màng diazo, những chỗ phần tử trắng ánh
sáng sẽ đi qua tờ mẫu phơi tác dụng lên màng nhậy sáng điazo và gây ra phản ứng
quang hoá để biến màng điazo ban đầu thành một hợp chất dễ tan trong dung dịch
kiềm yếu.

- ánh sáng giữ vai trò quan trọng trong quá trình phơi bản, nguồn sáng phơi
bản đòi hỏi phải có cường độ cao để hạn chế thời gian chiếu, hơn nữa thời gian phải
chiếu lên màng cảm quang với diện tích lớn và lớp màng khá dầy (so với phim hoặc
giấy ảnh hay các màng cảm quang khác ) nguồn sáng nhân tạo dùng trong phơi
bản có nhiều loại khác nhau nhưng loại đèn halogen kim loại cho chất lượng chiếu
sáng tốt nhất vì có nguồn sáng hoàn toàn đáp ứng vùng nhậy cảm các loại màng
cảm quang cô cứng hay phân huỷ.
- Quá trình thực hành phơi diễn ra như sau:
- Lấy bản theo đúng khuôn khổ, loại bản đặt theo yêu cầu đặt vào khuôn phơi,
mặt thuốc của bản hướng lên trên.
- Đặt tờ mẫu phơi lên mặt thuốc của bản, đặt xuôi chiều (sao cho màng thuốc
của phim ở tờ mẫu phơi tiếp xúc trực tiếp với mặt thuốc của bản).
- Xác định nhíp kẹp phù hợp với máy in bản đó sao cho khoảng cách tay kê
đầu tới mép bản phải bằng nhau, điểm giữa của giấy in phải trùng với điểm giữa của
bản.
- Chọn chương trình phơi phù hợp: Xác định thời gian phơi sao cho thời gian
phơi phải đủ để phản ứng xảy ra hết chiều dày lớp diazo.
- Tiến hành hút chân không để khuôn phim tiếp xúc với bề mặt bản tiến hành
lộ sáng theo thời gian đã định.
a.Hiện hình:
Hiện hình là quá trình tẩy bỏ hoàn toàn lớp diazo đã bị phân huỷ bởi ánh sáng
phần tử trắng ra khỏi bề mặt bản trả lại bề mặt oxyt nhôm cho phần tử trắng. Đây là
qúa trình phản ứng hoá học giữa lớp diazo đã bị ánh sáng phân huỷ phần tử trắng
với xút trong dung dịch hiện hình để tạo thành muối tan trong nước.
Nồng độ thường dùng như sau:
- Đối với bản có độ dày 0,3 mm nồng độ NaOH từ 0,8-1%
- Đối với bản có độ dày 0,1 mm nồng độ NaOH từ 0,4- 0,6%
Ngoài NaOH ra ta có thể cho thêm vào dung dịch hiện một số chất phụ gia
nhằm ức chế những phản ứng tiêu cực xảy ra trong quá trình hiện
- Qúa trình hiện có thể bằng tay, bằng máy hoặc ngâm trong các bể chậu

khay
- Chú ý: Nồng độ và thời gian hiện phải phù hợp với từng loại bản sao cho tẩy
bỏ hết hoàn toàn lớp diazo đã bị phân huỷ ra khỏi bề mặt bản hạn chế đến mức thấp
nhất những phản ứng tiêu cực xảy ra làm giảm chất lượng bản.
b. Tút bản:
Dùng dung môi hữu cơ có thể hoà tan lớp diazo ban đầu nhằm tẩy bỏ những
phần tử in phụ trên phần tử trắng.
c.Trung hoà
Mục đích nhằm tẩy bỏ hoàn toàn lượng xút dư trên bề mặt bản mà không ảnh
hưởng gì đến tính thấm ướt của bản với nồng độ axít H
3
PO
4
5%
c. Gôm bản:
Dùng gôm arabic 10 % xoa đều lên khắp toàn bộ mặt bản nhằm tạo ra màng
bảo vệ giữ các phần tử in và phần tử trắng trên bản không bị ảnh hưởng bởi oxy
không khí và làm tăng tính bắt ẩm của phần tử trắng.
II. Kỹ thuật in offset:
Quy trình công nghệ của in offset gồm những công đoạn sau:
Nh
ận, chuẩn
bị NVL













1.Nhận và chuẩn bị nguyên vật liệu:
Công tác chuẩn bị nguyên vật liệu cho quá trình in bao gồm:
+ Chuẩn bị khuôn in
+ Chuẩn bị mực
+Chuẩn bị dung dịch làm ẩm
+Chuẩn bị giấy in
2. Chuẩn bị khuôn in
a.Kiểm tra:
Kiểm tra là một thủ tục bắt buộc khi chuẩn bị khuôn in, ta phải kiểm tra về
khuôn khổ, độ dày của khuôn,đầu nhíp, hình ảnh( nội dung)
Chất lượng của bản in là khả năng phần tử in và khả năng của phần tử không
in chúng ta kiểm tra khả năng bắt mực của phần tử in phải phụ thuộc vào màng
thuốc nếu màng thuốc nhạt đi (ánh sáng) thì bản khó bắt mực nếu màng thuốc đậm
lên( do tác dụng của hoá chất ) bản dễ bị mất nét. Sau khi kiểm tra màng thuốc
chúng ta chà mực thử. Sau khi đã kiểm tra tốt phần tử in của bản chúng ta kiểm tra
khả năng bắt nước của phần tử không in. Muốn kiểm tra được khả năng nhận nước
của phần tử không in ta phải chú ý đến bề mặt bản ( mặt bản sáng đều ) không bị
bong thì phần tử không in bắt nước tốt sau đó chà thử nước.
Điều chỉnh
máy
In sản
lượng
K
ết thúc


×