ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Mạng máy tính và tường lửa
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
1
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
LỜI NÓI ĐẦU
Chúng ta đang sống trong một thời đại mới, thời đại phát triển rực rỡ của
công nghệ thông tin, đặc biệt là công nghệ máy vi tính và mạng máy tính với
sự bùng nổ của hàng ngàn cuộc cách mạng lớn nhỏ.
Sự ra đời của các mạng máy tính và những dịch vụ của nó đã mang lại cho
con người rất nhiều những lợi ích to lớn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát
triển mạnh mẽ, đơn giản hóa những thủ tục lưu trữ, xử lý, trao chuyển thông
tin phức tạp, liên lạc và kết nối giữa những vị trí, khoảng cách rất lớn một
cách nhanh chóng, hiệu quả … Và mạng máy tính đã trở thành yếu tố không
thể thiếu đối với sự phát triển của nền kinh tế, chính trị cũng như văn hóa, tư
tưởng của bất kỳ quốc gia hay châu lục nào. Con người đã không còn bị giới
hạn bởi những khoảng cách về địa lý, có đầy đủ quyền năng hơn để sáng tạo
những giá trị mới vô giá về vật chất và tinh thần, thỏa mãn những khát vọng
lớn lao của chính họ và của toàn nhân loại. Cũng chính vì vậy, nếu không có
mạng máy tính, hoặc mạng máy tính không thể hoạt động như ý muốn thì hậu
quả sẽ rất nghiêm trọng. Và vấn đề an toàn cho mạng máy tính cũng phải
được đặt lên hàng đầu khi thiết kế, lắp đặt và đưa vào sử dụng một hệ thống
mạng máy tính dù là đơn giản nhất.
Bên cạnh đó, thông tin giữ một vai trò hết sức quan trọng bởi vì nếu như
thiếu thông tin, con người sẽ trở nên lạc hậu dẫn tới những hậu quả nghiêm
trọng, nền kinh tế chậm phát triển. Vì lý do đó, việc lưu giữ, trao đổi và quản
lý tốt nguồn tài nguyên thông tin để sử dụng đúng mục đích, không bị thất
thoát đã là mục tiêu hướng tới của không chỉ một ngành, một quốc gia mà của
toàn thế giới.
Vì vậy em muốn tìm hiểu về đề tài mạng máy tính và tường lửa. Do vốn
kiến thức của bản than còn chưa rộng, thời gian, điều kiện tiếp xúc thực tiễn
và nghiên cứu còn hạn chế nên em chưa thể tìm hiểu và trình bày thật sự tốt
và kỹ lưỡng về vấn đề nghiên cứu. Trên đây là những kiến thức em đã tìm
hiểu và nắm được trong quá trình thực tập, nghiên cứu và qua sự hướng dẫn,
chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn NGUYỄN VĂN TÙNG. Em rất cám
ơn và mong nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo hơn nữa của thầy NGUYỄN VĂN
TÙNG và của các thầy, các cô để có thể trang bị thêm cho mình những kiến
thức cần thiết về đề tài em đã nêu trên. Những kiến thức đó và những kiến
thức đã được trang bị trong quá trình học tập, nghiên cứu tại trường cũng là
cái gốc để từ đó em có cơ sở nghiên cứu, phát huy tiếp về đề tài này.
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
2
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Em xin chân thành cám ơn!
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ MẠNG MÁY TÍNH
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ MÁY TÍNH
1.1. Lịch sử máy tính
Trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay, máy tính điện tử đóng một vai
trò hết sức quan trọng và là yếu tố không thể thiếu đối với hầu hết các ngành
nghề, các dịch vụ cũng như đối với đời sống sinh hoạt của con người. Để trở
thành những công cụ hữu ích, công nghệ cao như hiện nay, máy tính điện tử
đã trải qua rất nhiều thời kì phát triển, đáp ứng những đòi hỏi ngày một cao
của con người.
Với sự ra đời và thành công của máy ENIAC, năm 1946 được xem như
năm mở đầu cho kỷ nguyên máy tính điện tử, kết thúc sự nỗ lực nghiên cứu
của các nhà khoa học đã kéo dài trong nhiểu năm trước đó, và mở ra một thời
kỳ phát triển mạnh mẽ của công nghệ phần cứng cơ sở chế tạo ra những máy
tính điện tử với tính năng ngày càng cao, được sử dụng rộng rãi trong rất
nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Lịch sử phát triển của máy tính có thể chia
thành 4 giai đoạn như sau:
1.1.1. Giai đoạn 1: Từ 1945 đến 1958, với máy tính thế hệ thứ nhất sử
dụng công nghệ đèn chân không.
Máy tính ENIAC (Electronic Numerical Integrator And Computer), do
John Mauchly và John Presper Eckert (đại học Pensylvania, Mỹ) thiết kế và
chế tạo, là chiếc máy số hoá điện tử đa năng đầu tiên trên thế giới.
- Nguồn gốc: Dự án chế tạo máy ENIAC được bắt đầu vào năm 1943.
Đây là một nỗ lực nhằm đáp ứng yêu cầu thời chiến của BRL (Ballistics
Research Laboratory – Phòng nghiên cứu đạn đạo quân đội Mỹ) trong việc
tính toán chính xác và nhanh chóng các bảng số liệu đạn đạo cho từng loại vũ
khí mới.
- Số liệu kỹ thuật: ENIAC là một chiếc máy khổng lồ với hơn 17000
bóng đèn chân không, nặng hơn 30 tấn, tiêu thụ một lượng điện năng vào
khoảng 140kW và chiếm một diện tích xấp xỉ 1393 m2. Mặc dù vậy, nó làm
việc nhanh hơn nhiều so với các loại máy tính điện cơ cùng thời với khả năng
thực hiện 100000 tao tác trong một giây đồng hồ.
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
3
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Điểm khác biệt giữa ENIAC & các máy tính khác: ENIAC sử dụng hệ đếm
thập phân chứ không phải nhị phân như ở tất cả các máy tính khác.
- Hoạt động thực tế: Máy ENIAC bắt đầu hoạt động vào tháng 11/1945
với nhiệm vụ đầu tiên không phải là tính toán đạn đạo (vì chiến tranh thế giới
lần thứ hai đã kết thúc) mà để thực hiện các tính toán phức tạp dùng trong việc
xác định tính khả thi của bom H. Việc có thể sử dụng máy vào mục đích khác
với mục đích chế tạo ban đầu cho thấy tính đa năng của ENIAC. Máy tiếp tục
hoạt động dưới sự quản lý của BRL cho đến khi được tháo rời ra vào năm
1955.
Máy tính Von Neumann
Như đã đề cập ở trên, việc lập trình trên máy ENIAC là một công việc
rất tẻ nhạt và tốn kém nhiều thời gian. Công việc này có lẻ sẽ đơn giản hơn
nếu chương trình có thể được biểu diễn dưới dạng thích hợp cho việc lưu trữ
trong bộ nhớ cùng với dữ liệu cần xử lý. Khi đó máy tính chỉ cần lấy chỉ thị
bằng cách đọc từ bộ nhớ, ngoài ra chương trình có thể được thiết lập hay thay
đổi thông qua sự chỉnh sửa các giá trị lưu trong một phần nào đó của bộ nhớ.
Ý tưởng này, được biết đến với tên gọi “khái niệm chương trình được
lưu trữ”, do nhà toán học John von Neumann, một cố vấn của dự án ENIAC,
đưa ra ngày 8/11/1945, trong một bản đề xuất về một loại máy tính mới có tên
gọi EDVAC (Electronic Discrete Variable Computer). Máy tính này cho phép
nhiều thuật toán khác nhau có thể được tiến hành trong máy tính mà không
cần phải nối dây lại như máy ENIAC.
Máy IAS
Tiếp tục với ý tưởng của mình, vào năm 1946, von Neuman cùng các đồng
nghiệp bắt tay vào thiết kế một máy tính mới có chương trình được lưu trữ với
tên gọi IAS (Institute for Advanced Studies) tại học viện nghiên cứu cao cấp
Princeton, Mỹ. Mặc dù mãi đến năm 1952 máy IAS mới được hoàn tất, nó vẫn
là mô hình cho tất cả các máy tính đa năng sau này.
1.1.2. Giai đoạn 2: Từ 1958 đến 1964, với máy tính thế hệ thứ hai sử dụng
công nghệ chất bán dẫn.
Sự thay đổi đầu tiên trong lĩnh vực máy tính điện tử xuất hiện khi có sự
thay thế đèn chân không bằng đèn bán dẫn. Đèn bán dẫn nhỏ hơn, rẻ hơn,
tỏa nhiệt ít hơn trong khi vẫn có thể được sử dụng theo cùng cách thức của
đèn chân không để tạo nên máy tính. Không như đèn chân không vốn đòi
hỏi phải có dây, có bảng kim loại, có bao thủy tinh và chân không, đèn bán
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
4
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
dẫn là một thiết bị ở trạng thái rắn được chế tạo từ silicon có nhiều trong
cát có trong tự nhiên.
Đèn bán dẫn là phát minh lớn của phòng thí nghiệm Bell Labs trong
năm 1947. Nó đã tạo ra một cuộc cách mạng điện tử trong những năm 50
của thế kỷ 20. Dù vậy, mãi đến cuối những năm 50, các máy tính bán dẫn
hóa hoàn toàn mới bắt đầu xuất hiện trên thị trường máy tính. Việc sử dụng
đèn bán dẫn trong chế tạo máy tính đã xác định thế hệ máy tính thứ hai,
với đại diện tiêu biểu là máy PDP–1 của công ty DEC (Digital EquIPment
Corporation) và IBM 7094 của IBM. DEC được thành lập vào năm 1957
và cũng trong năm đó cho ra đời sản phẩm đầu tiên của mình là máy PDP–
1 như đã đề cập ở trên. Đây là chiếc máy mở đầu cho dòng máy tính mini
của DEC, vốn rất phổ biến trong các máy tính thế hệ thứ ba.
1.1.3. Giai đoạn 3: Từ 1964 đến 1974, với máy tính thế hệ thứ ba sử dụng
công nghệ mạch tích hợp.
Một đèn bán dẫn tự chứa, đơn lẻ thường được gọi là một thành phần rời
rạc. Trong suốt những năm 50 và đầu những năm 60 của thế kỷ 20, các thiết bị
điện tử phần lớn được kết hợp từ những thành phần rời rạc – đèn bán dẫn,
điện trở, tụ điện, v.v Các thành phần rời rạc được sản xuất riêng biệt, đóng
gói trong các bộ chứa riêng, sau đó được dùng để nối lại với nhau trên những
bảng mạch. Các bảng này lại được gắn vào trong máy tính, máy kiểm tra dao
động, và các thiết bị điện tử khác nữa. Bất cứ khi nào một thiết bị điện tử cần
đến một đèn bán dẫn, một ống kim loại nhỏ chứa một mẫu silicon sẽ phải
được hàn vào một bảng mạch. Toàn bộ quá trình sản xuất, đi từ đèn bán dẫn
đến bảng mạch, là một quá trình tốn kém và không hiệu quả. Những vấn đề
như vậy đã làm nền tảng cho việc dẫn đến các bài toán mới trong công nghiệp
máy tính. Các máy tính thế hệ thứ hai ban đầu chứa khoảng 10000 đèn bán
dẫn. Con số này sau đó đã tăng lên nhanh chóng đến hàng trăm ngàn, làm cho
việc sản xuất các máy mạnh hơn, mới hơn gặp rất nhiều khó khăn.
Sự phát minh ra mạch tích hợp vào năm 1958 đã cách mạng hóa điện tử và
bắt đầu cho kỷ nguyên vi điện tử với nhiều thành tựu rực rỡ. Mạch tích hợp
chính là yếu tố xác định thế hệ thứ ba của máy tính. Trong mục tiếp sau đây
chúng ta sẽ tìm hiểu một cách ngắn gọn về công nghệ mạch tích hợp. Sau đó,
hai thành viên quan trọng nhất trong các máy tính thế hệ thứ ba, máy IBM
System/360 và máy DEC PDP–8, sẽ được giới thiệu cùng với các tính năng
nổi bật của chúng.
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
5
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
1.1.4. Giai đoạn 4: Từ 1974 đến nay, với máy tính thế hệ thứ tư sử dụng
công nghệ mạch tích hợp vô cùng lớn/siêu lớn (VLSI/ULSI).
Với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ, mức độ cho ra đời các
sản phẩm mới ở mức cao, cũng như tầm quan trọng của phần mềm, của truyền
thông và phần cứng, việc phân loại máy tính theo thế hệ trở nên kém rõ ràng
và ít có ý nghĩa như trước đây.
Bộ nhớ bán dẫn
Vào khoảng những năm 50 đến 60 của thế kỷ này, hầu hết bộ nhớ máy tính
đều được chế tạo từ những vòng nhỏ làm bằng vật liệu sắt từ, mỗi vòng có
đường kính khoảng 1/16 inch. Các vòng này được treo trên các lưới ở trên
những màn nhỏ bên trong máy tính. Khi được từ hóa theo một chiều, một
vòng (gọi là một lõi) biểu thị giá trị 1, còn khi được từ hóa theo chiều ngược
lại, lõi sẽ đại diện cho giá trị 0. Bộ nhớ lõi từ kiểu này làm việc khá nhanh. Nó
chỉ cần một phần triệu giây để đọc một bit lưu trong bộ nhớ. Nhưng nó rất đắt
tiền, cồng kềnh, và sử dụng cơ chế hoạt động loại trừ: một thao tác đơn giản
như đọc một lõi sẽ xóa dữ liệu lưu trong lõi đó. Do vậy cần phải cài đặt các
mạch phục hồi dữ liệu ngay khi nó được lấy ra ngoài.
Năm 1970, Fairchild chế tạo ra bộ nhớ bán dẫn có dung lượng tương đối
đầu tiên. ChIP này có kích thước bằng một lõi đơn, có thể lưu 256 bit nhớ,
hoạt động không theo cơ chế loại trừ và nhanh hơn bộ nhớ lõi từ. Nó chỉ cần
70 phần tỉ giây để đọc ra một bit dữ liệu trong bộ nhớ. Tuy nhiên giá thành
cho mỗi bit cao hơn so với lõi từ.
Kể từ năm 1970, bộ nhớ bán dẫn đã đi qua tám thế hệ: 1K, 4K, 16K, 64K,
256K, 1M, 4M, và giờ đây là 16M bit trên một chIP đơn (1K = 210, 1M =
220). Mỗi thế hệ cung cấp khả năng lưu trữ nhiều gấp bốn lần so với thế hệ
trước, cùng với sự giảm thiểu giá thành trên mỗi bit và thời gian truy cập.
Bộ vi xử lý
Vào năm 1971, hãng Intel cho ra đời chIP 4004, chIP đầu tiên có chứa tất
cả mọi thành phần của một CPU trên một chIP đơn. Kỷ nguyên bộ vi xử lý đã
được khai sinh từ đó. ChIP 4004 có thể cộng hai số 4 bit và nhân bằng cách
lập lại phép cộng. Theo tiêu chuẩn ngày nay, chIP 4004 rõ ràng quá đơn giản,
nhưng nó đã đánh dấu sự bắt đầu của một quá trình tiến hóa liên tục về dung
lượng và sức mạnh của các bộ vi xử lý. Bước chuyển biến kế tiếp trong quá
trình tiến hóa nói trên là sự giới thiệu chIP Intel 8008 vào năm 1972. Đây là
bộ vi xử lý 8 bit đầu tiên và có độ phức tạp gấp đôi chIP 4004.
Đến năm 1974, Intel đưa ra chIP 8080, bộ vi xử lý đa dụng đầu tiên được
thiết kế để trở thành CPU của một máy vi tính đa dụng. So với chIP 8008,
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
6
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
chIP 8080 nhanh hơn, có tập chỉ thị phong phú hơn và có khả năng định địa
chỉ lớn hơn.
Cũng trong cùng thời gian đó, các bộ vi xử lý 16 bit đã bắt đầu được phát
triển. Mặc dù vậy, mãi đến cuối những năm 70, các bộ vi xử lý 16 bit đa dụng
mới xuất hiện trên thị trường. Sau đó đến năm 1981, cả Bell Lab và Hewlett–
packard đều đã phát triển các bộ vi xử lý đơn chIP 32 bit. Trong khi đó, Intel
giới thiệu bộ vi xử lý 32 bit của riêng mình là chIP 80386 vào năm 1985.
1.2. Cấu trúc và chức năng của máy tính
1.2.1. Cấu trúc tổng quát của máy tính
Máy tính là một hệ thống phức tạp với hàng triệu thành phần điện tử cơ sở.
Ở mức đơn giản nhất, máy tính có thể được xem như một thực thể tương tác
theo một cách thức nào đó với môi trường bên ngoài. Một cách tổng quát, các
mối quan hệ của nó với môi trường bên ngoài có thể phân loại thành các thiết
bị ngoại vi hay đường liên lạc.
Hình 1: Cấu trúc tổng quát của máy tính
Thành phần chính, quan trọng nhất của máy tính là Đơn vị xử lý trung
tâm (CPU – Central Processing Unit): Điều khiển hoạt động của máy tính và
thực hiện các chức năng xử lý dữ liệu.
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
7
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Hình 2: Bộ xử lý trung tâm của máy tính (CPU)
CPU thường được đề cập đến với tên gọi bộ xử lý. Máy tính có thể có một
hoặc nhiều thành phần nói trên, Ví Dụ như một hoặc nhiều CPU. Trước đây
đa phần các máy tính chỉ có một CPU, nhưng gần đây có sự gia tăng sử dụng
nhiều CPU trong một hệ thống máy đơn. CPU luôn luôn là đối tượng quan
trọng vì đây là thành phần phức tạp nhất của hệ thống. Cấu trúc của CPU gồm
các thành phần chính:
- Đơn vị điều khiển: Điều khiển hoạt động của CPU và do đó điều khiển
hoạt động của máy tính.
- Đơn vị luận lý và số học (ALU – Arithmetic and Logic Unit): Thực
hiện các chức năng xử lý dữ liệu của máy tính.
- Tập thanh ghi: Cung cấp nơi lưu trữ bên trong CPU.
- Thành phần nối kết nội CPU: Cơ chế cung cấp khả năng liên lạc giữa
đơn vị điều khiển, ALU và tập thanh ghi.
Trong các thành phần con nói trên của CPU, đơn vị điều khiển lại giữ vai
trò quan trọng nhất. Sự cài đặt đơn vị này dẫn đến một khái niệm nền tảng
trong chế tạo bộ vi xử lý máy tính. Đó là khái niệm vi lập trình. Hình dưới đây
mô tả tổ chức bên trong một đơn vị điều khiển với ba thành phần chính gồm:
- Bộ lập dãy logic
- Bộ giải mã và tập các thanh ghi điều khiển
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
8
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
- Bộ nhớ điều khiển
Hình 3: Đơn vị điều khiển của CPU
Các thành phần khác của máy tính:
Bộ nhớ chính: Dùng để lưu trữ dữ liệu.
Các thành phần nhập xuất: Dùng để di chuyển dữ liệu giữa máy tính và
môi trường bên ngoài.
Các thành phần nối kết hệ thống: Cung cấp cơ chế liên lạc giữa CPU,
bộ nhớ chính và các thành phần nhập xuất.
1.2.2. Chức năng của máy tính
Một cách tổng quát, một máy tính có thể thực hiện bốn chức năng cơ bản
sau:
- Di chuyển dữ liệu
- Điều khiển
- Lưu trữ dữ liệu
- Xử lý dữ liệu
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
9
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Hình 4: Các chức năng cơ bản của máy tính
Xử lý dữ liệu: Máy tính phải có khả năng xử lý dữ liệu. Dữ liệu có thể
có rất nhiều dạng và phạm vi yêu cầu xử lý cũng rất rộng. Tuy nhiên chỉ có
một số phương pháp cơ bản trong xử lý dữ liệu.
Lưu trữ dữ liệu: Máy tính cũng cần phải có khả năng lưu trữ dữ liệu.
Ngay cả khi máy tính đang xử lý dữ liệu, nó vẫn phải lưu trữ tạm thời tại mỗi
thời điểm phần dữ liệu đang được xử lý. Do vậy cần thiết phải có chức năng
lưu trữ ngắn hạn. Tuy nhiên, chức năng lưu trữ dài hạn cũng có tầm quan
trọng tương đãng đối với dữ liệu cần được lưu trữ trên máy cho những lần cập
nhật và tìm kiếm kế tiếp.
Di chuyển dữ liệu: Máy tính phải có khả năng di chuyển dữ liệu giữa nó
và thế giới bên ngoài. Khả năng này được thể hiện thông qua việc di chuyển
dữ liệu giữa máy tính với các thiết bị nối kết trực tiếp hay từ xa đến nó. Tùy
thuộc vào kiểu kết nối và cự ly di chuyển dữ liệu, mà có tiến trình nhập xuất
dữ liệu hay truyền dữ liệu:
- Tiến trình nhập xuất dữ liệu: Thực hiện di chuyển dữ liệu trong cự ly
ngắn giữa máy tính và thiết bị nối kết trực tiếp.
- Tiến trình truyền dữ liệu: Thực hiện di chuyển dữ liệu trong cự ly xa
giữa máy tính và thiết bị nối kết từ xa.
- Điều khiển: Bên trong hệ thống máy tính, đơn vị điều khiển có nhiệm
vụ quản lý các tài nguyên máy tính và điều phối sự vận hành của các thành
phần chức năng phù hợp với yêu cầu nhận được từ người sử dụng.
Tương ứng với các chức năng tổng quát nói trên, có bốn loại hoạt động có
thể xảy ra gồm:
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
10
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Máy tính được dùng như một thiết bị di chuyển dữ liệu, có nhiệm vụ
đơn giản là chuyển dữ liệu từ bộ phận ngoại vi hay đường liên lạc này sang bộ
phận ngoại vi hay đường liên lạc khác.
Hình 5: Máy tính – Thiết bị di chuyển dữ liệu
Máy tính được dùng để lưu trữ dữ liệu, với dữ liệu được chuyển từ môi
trường ngoài vào lưu trữ trong máy (quá trình đọc dữ liệu) và ngược lại (quá
trình ghi dữ liệu). Hình 6 mô tả hoạt động làm thiết bị lưu trữ dữ liệu của máy
tính.
Hình 6: Máy tính – Thiết bị lưu trữ dữ liệu
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
Di
chuyÓ
n d÷
liÖu
§iÒu
khiÓn
L u
tr÷ d÷
liÖu
Xö lý
d÷
liÖu
11
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Máy tính được dùng để xử lý dữ liệu thông qua các thao tác trên dữ
liệu lưu trữ hoặc kết hợp giữa việc lưu trữ và liên lạc với môi trường bên
ngoài.
Hình 7: Máy tính – Thiết bị xử lý dữ liệu lưu trữ
Hình 8: Máy tính – Thiết bị xử lý/ trao đổi dữ liệu với môi trường ngoài
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
12
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
CHƯƠNG 2: MẠNG MÁY TÍNH
Mạng máy tính là một hệ thống kết nối các máy tính đơn lẻ thông qua các
đường truyền vật lý theo một kiến trúc nào đó.
Đường truyền vật lý dùng để chuyển các tín hiệu số hay tín hiệu tương tự
giữa các máy tính. Đường truyền vật lý thường là:
- Đường dây điện thoại thông thường.
- Cáp đồng trục.
- Sóng vô tuyến điện từ.
- Cáp sợi quang
2.1. Lịch sử phát triển mạng máy tính
Mạng máy tính bắt nguồn từ đề án ARPANET (Advanced Research
Project Agency Network ) khởi sự trong năm 1969 bởi bộ quốc phòng Mỹ
nhằm mục đích thiết kế một mạng WAN có khả năng tự bảo tồn chống lại sự
phá hoại một phân mạng bằng chiến tranh nguyên tử
Từ những năm 60, đã xuất hiện những mạng nối các máy tính và các
Terminal để sử dụng chung nguồn tài nguyên, giảm chi phí khi muốn thông
tin trao dổi số liệu và sử dụng trong công tác văn phòng một cách tiện lợi.
Hình 9: Mạng máy tính với bộ tiền xử lý
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
13
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Việc tăng nhanh các máy tính mini, các máy tính cá nhân làm tăng nhu cầu
truyền số liệu giữa các máy tính, các Terminal và giữa các Terminal với các
máy tính là một trong những động lực thúc đẩy sự ra đời và phát triển ngày
càng mạnh mẽ các mạng máy tính. Quá trình hình thành mạng máy tính có thể
tóm tắt qua một số thời điểm chính sau:
Những năm 60: Để tận dụng công suất của máy tính, người ta ghép nối các
Terminal vào một máy tính được gọi là Máy tính trung tâm (Main Frame).
Máy tính trung tâm làm tất cả mọi việc từ quản lý các thủ tục truyền dữ liệu,
quản lý quá trình đồng bộ của các trạm cuối, … cho đến việc xử lý các ngắt từ
các trạm cuối. Sau đó, để giảm nhẹ nhiệm vụ của Máy tính trung tâm, người ta
thêm vào các Bộ tiền xử lý (Frontal) để nối thành một mạng truyền tin, trong
đó có các Thiết bị tập trung (Concentrator) và Dồn kênh (MultIPlexer) dùng
để tập trung trên cùng một đường truyền các tín hiệu gửi tới trạm cuối.
Hình 10: Mạng máy tính nối trực tiếp các bộ tiền xử lý
Những năm 70: Các máy tính đã được nối với nhau trực tiếp thành một
mạng máy tính nhằm phân tán tải của hệ thống và tăng độ tin cậy. Và người ta
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
14
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
đã bắt đầu xây dựng mạng truyền thông trong đó các thành phần chính của nó
là các Nút mạng (Node) gọi là bộ chuyển mạch, dùng để hướng thông tin tới
đích. Các Nút mạng được nối với nhau bằng đường truyền còn các máy tính
xử lý thông tin của người dùng (Host) hoặc các Trạm cuối (Terminal) được
nối trực tiếp vào các nút mạng để khi cần thì trao đổi thông tin qua mạng.
Từ thập kỷ 80 trở đi: Việc kết nối mạng máy tính đã bắt đầu được thực
hiện rộng rãi nhờ tỷ lệ giữa giá thành máy tính và chi phí truyền tin đã giảm đi
rõ rệt do sự bùng nổ của các thế hệ máy tính cá nhân.
2.2. Nhu cầu và mục đích của việc kết nối các máy tính thành
mạng
Việc nối máy tính thành mạng từ lâu đã trở thành một nhu cầu khách quan
bởi vì:
– Có rất nhiều công việc về bản chất là phân tán hoặc về thông tin, hoặc
về xử lý hoặc cả hai đòi hỏi có sự kết hợp truyền thông với xử lý hoặc sử dụng
phương tiện từ xa
– Chia sẻ các tài nguyên trên mạng cho nhiều người sử dụng tại một thời
điểm (ổ cứng, máy in, ổ CD ROM )
– Nhu cầu liên lạc, trao đổi thông tin nhờ phương tiện máy tính
– Các ứng dụng phần mềm đòi hòi tại một thời điểm cần có nhiều người
sử dụng, truy cập vào cùng một cơ sở dữ liệu.
Chính vì vậy, việc kết nối các máy tính thành mạng nhằm mục đích:
Chia sẻ tài nguyên:
- Chia sẻ dữ liệu: Về nguyên tắc, bất kỳ người sử dụng nào trên mạng
đều có quyền truy nhập, khai thác và sử dụng những tài nguyên chung của
mạng (thường được tập trung trên một Máy phục vụ – Server) mà không phụ
thuộc vào vị trí địa lý của người sử dụng đó.
- Chia sẻ phần cứng: Tài nguyên chung của mạng cũng bao gồm các máy
móc, thiết bị như: Máy in (Printer), Máy quét (Scanner), Ổ đĩa mềm (Floppy),
Ổ đĩa CD (CD Rom), … được nối vào mạng. Thông qua mạng máy tính,
người sử dụng có thể sử dụng những tài nguyên phần cứng này ngay cả khi
máy tính của họ không có những phần cứng đó.
Duy trì và bảo vệ dữ liệu: Một mạng máy tính có thể cho phép các dữ
liệu được tự động lưu trữ dự phòng tới một trung tâm nào đó trong mạng.
Công việc này là hết sức khó khăn và tốn nhiều thời gian nếu phải làm trên
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
15
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
từng máy độc lập. Hơn nữa, mạng máy tính còn cung cấp một môi trường bảo
mật an toàn cho mạng qua việc cung cấp cơ chế Bảo mật (Security) bằng Mật
khẩu (Password) đối với từng người sử dụng, hạn chế được việc sao chép, mất
mát thông tin ngoài ý muốn.
Nâng cao độ tin cậy của hệ thống nhờ khả năng thay thế cho nhau khi
xảy ra sự cố kỹ thuật đối với một máy tính nào đó trong mạng.
Khai thác có hiệu quả các cơ sở dữ liệu tập trung và phân tán, nâng cao
khả năng tích hợp và trao đổi các loại dữ liệu giữa các máy tính trên mạng.
2.3. Đặc trưng kỹ thuật của mạng máy tính
Một mạng máy tính có các đặc trưng kỹ thuật cơ bản là: đường truyền, kỹ
thuật chuyển mạch, kiến trúc mạng và hệ điều hành mạng.
2.3.1. Đường truyền
Là thành tố quan trọng của một mạng máy tính, là phương tiện dùng để
truyền các tín hiệu điện tử giữa các máy tính. Các tín hiệu điệu tử đó chính là
các thông tin, dữ liệu được biểu thị dưới dạng các xung nhị phân (ON – OFF),
mọi tín hiệu truyền giữa các máy tính với nhau đều thuộc sóng điện từ, tuỳ
theo tần số mà ta có thể dùng các đường truyền vật lý khác nhau để truyền tín
hiệu.
- Các tần số radio có thể truyền bằng cáp điện (giây xoắn đôi hoặc đồng
trục) hoặc bằng phương tiện quảng bá (radio broadcasting).
- Sóng cực ngắn (viba) thường được dùng để truyền giữa các trạm mặt
đất và các vệ tinh. Chúng cũng được dùng để truyền các tín hiệu quảng bá từ
một trạm phát đến nhiều trạm thu. Mạng điện thoại “tổ ong” (cellular phone
Network) là một ví dụ cho cách dùng này.
- Tia hồng ngoại là lý tưởng đối với nhiều loại truyền thông mạng. Nó có
thể được truyền giữa hai điểm hoặc quảng bá từ một điểm đến nhiều máy thu.
Tia hồng ngoại và các tần số cao hơn của anh sáng có thể được truyền qua cáp
sợi quang.
Các đặc trưng cơ bản của đường truyền là giải thông (bandwidth), độ suy
hao và độ nhiễu điện từ.
- Dải thông của một đường truyền chính là độ đo phạm vi tần số mà nó
có thể đáp ứng được; nó biểu thị khả năng truyền tải tín hiệu của đường
truyền. Tốc độ truyền dữ liệu trên đường truyền được gọi là thông lượng
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
16
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
(throughput) của đường truyền, thường được tính bằng số lượng bit được
truyền đi trong một giây (bps). Thông lượng còn được đo bằng một đơn vị
khác là Baud, Baud biểu thị số lượng thay đổi tín hiệu trong một giây. Hai đơn
vị Baud và bps không phải lúc nào cũng đồng nhất vì mỗi thay đổi tín hiệu có
thể tương ứng với vài bit. Giải thông của cáp truyền phụ thuộc vào độ dài cáp
(nói chung cáp ngắn có thể có giải thông lớn hơn so với cáp dài). Bởi vậy, khi
thiết kế cáp cho mạng cần thiết phải chỉ rõ độ dài chạy cáp tối đa vì ngoài giới
hạn đó chất lượng truyền tín hiệu không còn được đảm bảo.
- Độ suy hao của một đường truyền là độ đo sự yếu đi của tín hiệu trên
đường truyền đó, nó cũng phụ thuộc vào độ dài cáp. Còn độ nhiễu điện từ
EMI (Electromagnetic Intrerference) gây ra bởi tiếng ồn từ bên ngoài làm ảnh
hưởng đến tín hiệu trên đường truyền
Thông thuờng người ta hay phân loại đường truyền theo hai loại:
• Đường truyền hữu tuyến: các máy tính được nối với nhau bằng các dây
cáp mạng. Đường truyền hữu tuyến gồm có:
- Cáp đồng trục (Coaxial cable)
- Cáp xoắn đôi (Twisted pair cable) gồm 2 loại có bọc kim (stp –
shielded twisted pair) và không bọc kim (utp – unshielded twisted pair).
- Cáp sợi quang (Fiber optic cable)
• Đường truyền vô tuyến: các máy tính truyền tín hiệu với nhau thông
qua các sóng vô tuyến với các thiết bị điều chế/giải điều chế ở các đầu mút.
Đường truyền vô tuyến gồm có:
- Radio
- Sóng cực ngắn (Viba)
- Tia hồng ngoại (Infrared)
2.3.2. Kỹ thuật chuyển mạch
Là đặc trưng kỹ thuật chuyển tín hiệu giữa các nút trong mạng, các nút
mạng có chức năng hướng thông tin tới đích nào đó trong mạng, hiện tại có
các kỹ thuật chuyển mạch như sau:
- Kỹ thuật chuyển mạch kênh: Khi có hai thực thể cần truyền thông với
nhau thì giữa chúng sẽ thiết lập một kênh cố định và duy trì kết nối đó cho tới
khi hai bên ngắt liên lạc. Các dữ liệu chỉ truyền đi theo con đường cố định đó.
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
17
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
- Kỹ thuật chuyển mạch thông báo: Thông báo là một đơn vị dữ liệu của
người sử dụng có khuôn dạng được quy định trước. Mỗi thông báo có chứa
các thông tin điều khiển trong đó chỉ rõ đích cần truyền tới của thông báo. Căn
cứ vào thông tin điều khiển này mà mỗi nút trung gian có thể chuyển thông
báo tới nút kế tiếp trên con đường dẫn tới đích của thông báo
- Kỹ thuật chuyển mạch gói: ở đây mỗi thông báo được chia ra thành
nhiều gói nhỏ hơn được gọi là các gói tin (Packet) có khuôn dạng qui định
trước. Mỗi gói tin cũng chứa các thông tin điều khiển, trong đó có địa chỉ
nguồn (người gửi) và địa chỉ đích (người nhận) của gói tin. Các gói tin của
cùng một thông báo có thể được gửi đi qua mạng tới đích theo nhiều con
đường khác nhau.
2.3.3. Kiến trúc mạng
Kiến trúc mạng (Network Architecture) thể hiện cách nối giữa các máy
tính trong mạng và tập hợp các quy tắc, quy ước nào đó mà tất cả các thực thể
tham gia truyền thông trên mạng phải tuân theo để đảm bảo cho mạng hoạt
động tốt. Cách nối các máy tính với nhau được gọi là hình trạng mạng
(Network Topology); còn tập hợp các qui tắc, qui ước truyền thông thì được
gọi là giao thức của mạng (Network Protocol).
2.3.3.1. Hình trạng mạng
Hình trạng mạng là cách kết nối các máy tính với nhau về mặt hình học
mà ta gọi là topo của mạng.
Có 2 kiểu nối mạng chủ yếu là điểm – điểm (point to point) và điểm – đa
điểm (point to multipoint).
- Theo kiểu điểm – điểm: Các đường truyền nối từng cặp nút với nhau và
mỗi nút đều có trách nhiệm lưu trữ tạm thời sau đó chuyển tiếp dữ liệu đi cho
tới đích. Một số mạng có cấu trúc điểm – điểm như: mạng hình sao, mạng chu
trình, mạng dạng cây
- Theo kiểu điểm – đa điểm: Tất cả các nút phân chia chung một đường
truyền vật lý. Dữ liệu gửi đi từ một nút nào đó sẽ có thể được tiếp nhận bởi tất
cả các nút còn lại. Bởi vậy cần chỉ ra địa chỉ đích của dữ liệu để mỗi nút căn
cứ vào đó kiểm tra xem dữ liệu có phải gửi cho mình hay không. Mạng trục
tuyến tính (Bus), mạng hình vòng (Ring), mạng Satellite (Vệ tinh) hay
Radio là những mạng có cấu trúc điểm – đa điểm phổ biến.
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
18
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Những hình trạng mạng cơ bản này sẽ được giới thiệu rõ hơn trong mục
phân loại mạng máy tính theo hình trạng mạng.
2.3.3.2. Giao thức mạng
Việc trao đổi thông tin dù là đơn giản nhất, cũng phải tuân theo những quy
tắc nhất định. Đơn giản như khi hai người nói chuyện với nhau muốn cho
cuộc nói chuyện có kết quả thì ít nhất cả hai cũng phải ngầm hiểu và tuân thủ
quy ước: khi một người nói thì người kia phải nghe và ngược lại. Việc truyền
thông trên mạng cũng vậy, cần có các quy tắc, quy ước truyền thông về nhiều
mặt: khuôn dạng cú pháp của dữ liệu, các thủ tục gửi, nhận dữ liệu, kiểm soát
hiệu quả và chất lượng truyền tin Tập hợp những quy tắc quy ước truyền
thông đó được gọi là giao thức của mạng (Network Protocol).
Có rất nhiều giao thức mạng, các mạng có thể sử dụng các giao thức khác
nhau tùy sự lựa chọn của người thiết kế. Tuy vậy, các giao thức thường gặp
nhất là : TCP/IP, NETBIOS, IPX/SPX,
2.3.4. Hệ điều hành mạng
Hệ điều hành mạng là một phần mềm hệ thống có các chức năng sau:
- Quản lý tài nguyên của hệ thống, các tài nguyên này gồm:
Tài nguyên thông tin (về phương diện lưu trữ) hay nói một cách đơn giản
là quản lý tệp. Các công việc về lưu trữ tệp, tìm kiếm, xoá, copy, nhóm, đặt
các thuộc tính đều thuộc nhóm công việc này
Tài nguyên thiết bị. Điều phối việc sử dụng CPU, các ngoại vi để tối ưu
hoá việc sử dụng
- Quản lý người dùng và các công việc trên hệ thống.
Hệ điều hành đảm bảo giao tiếp giữa người sử dụng, chương trình ứng
dụng với thiết bị của hệ thống.
- Cung cấp các tiện ích cho việc khai thác hệ thống thuận lợi (Ví Dụ
FORMAT đĩa, sao chép tệp và thư mục, in ấn chung )
Các hệ điều hành mạng thông dụng nhất hiện nay là: WindowsNT,
Windows9X, Windows 2000, Unix, Novell, Windows vista, Windows 7…
2.4. Phân loại mạng máy tính
Có nhiều cách phân loại mạng khác nhau tùy thuộc vào yếu tố chính được
chọn làm chỉ tiêu phân loại như:
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
19
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
- Khoảng cách địa lý của mạng
- Kỹ thuật chuyển mạch áp dụng trong mạng
- Hình trạng mạng
- Giao thức mạng sử dụng
- Hệ điều hành mạng sử dụng
2.4.1. Phân loại mạng theo khoảng cách địa lý
Mạng máy tính có thể phân bổ trên một vùng lãnh thổ nhất định và cũng có
thể phân bổ trong phạm vi một quốc gia hay rộng hơn nữa là toàn thế giới.
Dựa vào phạm vi phân bổ của mạng, người ta có thể phân ra các loại mạng
như sau:
2.4.1.1. Mạng toàn cầu (GAN – Global Area Network)
Là mạng kết nối các máy tính từ các châu lục khác nhau. Thông thường kết
nối này được thực hiện thông qua mạng viễn thông và vệ tinh.
2.4.1.2. Mạng diện rộng (WAN – Wide Area Network)
Là mạng kết nối các máy tính trong nội bộ các quốc gia hay giữa các quốc
gia trong cùng một châu lục. Thông thường các kết nối này được thực hiện
thông qua mạng viễn thông. Các WAN có thể kết nối với nhau tạo thành GAN
hay tự nó cũng có thể xem là một GAN.
2.4.1.3. Mạng đô thị (MAN – Metropolitan Area Network)
Là mạng kết nối các máy tính trong phạm vi một đô thị, một trung tâm văn
hoá xã hội, có bán kính tối đa vào khoảng 100 km. Kết nối này được thực hiện
thông qua môi trường truyêng thông tốc độ cao (50–100 Mbps).
2.4.1.4. Mạng cục bộ (LAN – Local Area Network)
Là mạng kết nối các máy tính trong một khu vực bán kính hẹp, thông
thường khoảng vài trăm mét đến vài kilômét. Kết nối được thực hiện thông
qua môi trường truyền thông tốc độ cao Ví Dụ như cáp đồng trục, cáp xoắn
đôi hay cáp quang. LAN thường được sử dụng trong nội bộ một cơ quan, tổ
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
20
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
chức, trong một tòa nhà. Nhiều LAN có thể được kết nối với nhau thành
WAN.
2.4.2. Phân loại theo kỹ thuật chuyển mạch áp dụng trong mạng
Nếu lấy kỹ thuật chuyển mạch làm yếu tố chính để phân loại ta sẽ có:
- Mạng chuyển mạch kênh
- Mạng chuyển mạch thông báo
- Mạng chuyển mạch gói
2.4.2.1. Mạng chuyển mạch kênh (Circuit Switched Network)
Hình 11: Mạng chuyển mạch kênh
Trong trường hợp này khi hai thực thể cần trao đổi thông tin với nhau thì
giữa chúng sẽ thiết lập một kênh (Circuit) cố định và được duy trì cho tới khi
một trong hai bên bị ngắt liên lạc.
2.4.2.2. Mạng chuyển mạch thông báo (Message Switched Network)
Hình 12: Mạng chuyển mạch thông báo
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
21
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Thông báo là một đơn vị thông tin của người sử dụng có khuôn dạng đã
được quy định trước. Mỗi thông báo đều có chứa vùng thông tin điều khiển,
trong đó chỉ rõ đích của thông báo. Căn cứ vào thông tin này mà mỗi nút trung
gian có thể chuyển thông báo tới nút kế tiếp theo đường dẫn tới đích của nó.
Như vậy mỗi nút cần phải lưu trữ tạm thời để đọc thông tin điều khiển trên
thông báo, sau đó chuyển tiếp thông báo đi. Tuỳ thuộc vào điều kiện của
mạng các thông báo có thể được gửi đi trên các đường khác nhau.
Ưu điểm của phương pháp này là :
- Hiệu suất sử dụng đường truyền cao vì không bị chiếm dụng độc quyền
mà được phân chia giữa nhiều thực thể truyền thông.
- Mỗi nút mạng có thể lưu trữ thông tin tạm thời sau đó mới chuyển
thông báo đi, do đó có thể điều chỉnh để làm giảm tình trạng tắc nghẽn trên
mạng.
- Có thể điều khiển việc truyền tin bằng cách sắp xếp độ ưu tiên cho các
thông báo.
- Có thể tăng hiệu suất xử dụng giải thông của mạng bằng cách gắn địa
chỉ quảng bá (broadcast addressing) để gửi thông báo đồng thời tới nhiều đích.
Nhược điểm của phương pháp này là:
- Không hạn chế được kích thước của thông báo dẫn đến phí tổn lưu gữi
tạm thời cao và ảnh hưởng đến thời gian trả lời yêu cầu của các trạm.
2.4.2.3. Mạng chuyển mạch gói (Packet Switched Network)
Hình 13: Mạng chuyển mạch gói
Trong trường hợp này mỗi thông báo được chia ra thành nhiều phần nhỏ
hơn gọi là các gói tin (Information Packet) có khuôn dạng quy định trước.
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
22
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Mỗi gói tin cũng chứa các thông tin điều khiển, trong đó có địa chỉ nguồn và
địa chỉ đích của gói tin. Các gói tin thuộc về một thông báo nào đó có thể
được gửi đi qua mạng để tới đích bằng nhiều con đường khác nhau.
Phương pháp chuyển mạch thông báo và chuyển mạch gói là gần giống
nhau. Điểm khác biệt là các gói tin được giới hạn kích thước tối đa sao cho
các nút mạng (các nút chuyển mạch) có thể xử lý toàn bộ gói tin trong bộ nhớ
mà không phải lưu giữ tạm thời trên đĩa. Bởi vậy nên mạng chuyển mạch gói
truyền dữ liệu hiệu quả hơn so với mạng chuyển mạch thông báo.
Tích hợp hai kỹ thuật chuyển mạch kênh và chuyển mạch gói vào trong
một mạng thống nhất được mạng tích hợp số (ISDN – Integated Services
Digital Network).
2.4.3. Phân loại theo hình trạng mạng
Khi phân loại theo hình trạng mạng, người ta thường phân loại thành:
Mạng hình sao, hình vòng, trục tuyến tính, hình cây, Dưới đây là một số
hình trạng mạng cơ bản:
2.4.3.1. Mạng hình sao
Mạng hình sao có tất cả các trạm được kết nối với một thiết bị trung tâm có
nhiệm vụ nhận tín hiệu từ các trạm và chuyển đén trạm đích. Tuỳ theo yêu cầu
truyền thông trên mạng mà thiết bị trung tâm có thể là bộ chuyển mạch
(switch), bộ chọn đường (Router) hoặc là bộ phân kênh (hub). Vai trò của
thiết bị trung tâm này là thực hiện việc thiết lập các liên kết điểm–điểm
(point–to–point) giữa các trạm.
Hình 14: Mạng hình sao (Star)
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
23
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
- Ưu điểm của topo mạng hình sao
Thiết lập mạng đơn giản, dễ dàng cấu hình lại mạng (thêm, bớt các trạm),
dễ dàng kiểm soát và khắc phục sự cố, tận dụng được tối đa tốc độ truyền của
đường truyền vật lý.
- Nhược điểm của topo mạng hình sao
Độ dài đường truyền nối một trạm với thiết bị trung tâm bị hạn chế (trong
vòng 100m, với công nghệ hiện nay).
2.4.3.2. Mạng hình vòng
Trên mạng hình vòng tín hiệu được truyền đi trên vòng theo một chiều
duy nhất. Mỗi trạm của mạng được nối với vòng qua một bộ chuyển tiếp
(repeater) có nhiệm vụ nhận tín hiệu rồi chuyển tiếp đến trạm kế tiếp trên
vòng. Như vậy tín hiệu được lưu chuyển trên vòng theo một chuỗi liên tiếp
các liên kết điểm–điểm giữa các repeater do đó cần có giao thức điều khiển
việc cấp phát quyền được truyền dữ liệu trên vòng mạng cho trạm có nhu cầu.
Để tăng độ tin cậy của mạng ta có thể lắp đặt thêm các vòng dự phòng, nếu
vòng chính có sự cố thì vòng phụ sẽ được sử dụng.
Mạng hình vòng có ưu nhược điểm tương tự mạng hình sao, tuy nhiên
mạng hình vòng đòi hỏi giao thức truy nhập mạng phức tạp hơn mạng hình
sao.
Hình 15: Mạng hình vòng (Ring)
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
24
ĐH CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI ĐỀ TÀI THỰC TẬP
Nếu kết nối theo kiểu điểm – điểm, mạng hình vòng còn được gọi là mạng
chu trình.
Hình 16: Mạng chu trình (Loop)
2.4.3.3. Mạng trục tuyến tính (Bus)
Trong mạng trục tất cả các trạm phân chia một đường truyền chung (bus).
Đường truyền chính được giới hạn hai đầu bằng hai đầu nối đặc biệt gọi là
terminator. Mỗi trạm được nối với trục chính qua một đầu nối chữ T (T–
connector) hoặc một thiết bị thu phát (transceiver).
Hình 17: Mạng trục tuyến tính (Bus)
Khi một trạm truyền dữ liệu tín hiệu được quảng bá trên cả hai chiều của
bus, tức là mọi trạm còn lại đều có thể thu được tín hiệu đó trực tiếp. Đối với
các bus một chiều thì tín hiệu chỉ đi về một phía, lúc đó các terminator phải
được thiết kế sao cho các tín hiệu đó phải được dội lại trên bus để cho các
NGUYỄN CÔNG HỢP _ ĐIỆN TỬ 1 K10
25