Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

TIỂU LUẬN: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm ở chi nhánh công ty bột giặt Net Hà -nội pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.3 KB, 69 trang )







TIỂU LUẬN:

Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh
việc tiêu thụ sản phẩm ở chi nhánh
công ty bột giặt Net Hà -nội







Lời mở đầu

" Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hứơng xã hội chủ nghĩa " là chủ trương và
đường lối phát triển kinh tế do Đại hội Đảng VI đề ra .
Cơ chế thị trường với các quy luật kinh tế đặc thù của nó sẽ là động lực thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam bởi tính linh hoạt và hiệu quả của nó
.Khi các quy luật của cơ chế thị trường vận động cũng là lúc mà các doanh nghiệp
phải đối mặt với nhiều thách thức và khó khăn trong việc duy trì và phát triển sản
suất .Việc tự tìm kiếm thị trường, tự hoạch định các kế hoạch phát triển sản xuất và
tự chịu về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đã gây cho các doanh
nghiệp rất nhiều bỡ ngỡ và lúng túng.
Hiện nay vấn đề đầu ra đang là mội thách thức rất lớn đối với sự tồn tại và


phát triển của mỗi doanh nghiệp Hoạt động tiêu thụ có một ý nghĩa hết sức quan
trọng đói với việc bảo toàn và phát triển vốn đầu tư. Làm cách nào để thúc đảy hoạt
động tiêu thụ, mở rộng thị trường, tăng cường vị thế của doanh nghiệp trên thương
trường thực sự là vấn đề cần được giải quyết. Cũng như các doanh nghiệp khác, chi
nhánh công ty bột giặt Net Hà-nội với những suy nghĩ "làm thế nào đểđẩy mạnh
việc tiêu thụ sản phẩm"và công tác tác tiêu tụ sản phẩm đang được công ty quan
tâm và đầu tư .Trong thời gian thực tế ở chi nhánh công ty bột giặt net Hà nội với sự
giúp đỡ tận tình của các phòng ban chức năng trong công ty ,trên cơ sở những
hướng dẫn và gợi ý của thầy giáo Lê Văn Tâm ,em mạnh dạn chọn đề tài .
"Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm ở chi
nhánh công ty bột giặt Net Hà -nội".



Phạm vi nghiên cứu đề tài :
Nghiên cứu vấn đề tiêu thụ sản phẩm phải đặt việc tiêu thụ trong mối liên hệ
hệ với các mặt khác của hoạt động sản xuất kinh doanh. Lấy việc nghiên cứu hoạt
động tiêu thụ làm trung tâm từ đó xem xét các mối liên hệ giữa tiêu thụ với các yếu
tố khác như chất lượng sản phẩm ,sản xuất ,công nghệ yếu tố sản xuất ,đầu tư cho
mạng tiêu thụ
Nội dung của chuyên đề bao gồm ba phần :
 Phần thứ nhất: Lý luận cơ bản về hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
 Phần thứ hai : Hiện trạng công tác tiêu thụ sản phẩm của chi nhánh Net tại Hà
nội .Phần thứ ba :một số phương hướng và giải pháp thúc đẩy việc tiêu thụ sản
phẩm của chi nhánh Net tại Hà nội .














Phần thứ nhất
Lý luận cơ bản về hoạt động
tiêu thụ sản phẩm

A. Quan điểm cơ bản về thị trường
I. Khái niệm, chức năng, vai trò cơ bản về thị trường
1. Khái niệm về thị trường
Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất
hàng hoá và phân công lao động xã hội. Trải qua thời gian và sự phát triển của thị
trường dẫn đến việc có nhiều khái niệm khác nhau về thị trường.
1.1 Thị trường theo cách hiểu cổ điển: là nơi diễn ra các quá trình trao đổi và
buôn bán trong thuật ngữ kinh tế hiện đại, thị trường còn bao gồm cả các hội chợ,
các địa dư hay các khu vực tiêu thụ theo mặt hàng hoặc nghành hàng.
1.2 Thị trường theo quan điểm kinh tế: là lĩnh vực trao đổi, mua bán mà ở đó các
chủ thể kinh tế canh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hoá dich vụ và sản
lượng.
1.3 Khái niệm theo marketing thị trường: là tổng hợp các nhu cầu hoặc tập hợp
nhu cầu về một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó, là nơi diễn ra hành vi mua bán, trao
đổi bằng tiền tệ.
Như vậy thị trường có thể ở bất kỳ chỗ nào khi có một nhóm người hoặc nhiều
người mua và bán. Thị trường là một phạm trù riêng của nền sản xuất hàng hoá.
Hoạt động cơ bản của thị trường được thể hiện qua 3 nhân tố có mối quan hệ hữu cơ

mật thiết với nhau đó là: nhu cầu về hàng dịch vụ; cung ứng hàng hoádich vụ; giá

cả hàng hoá dich vụ. Qua thị trường, chúng ta có thể xác định mối tương quan giữa
cung cầu thị trường về hàng hoá, dịch vụ, hiểu được phạm vi và quy mô của việc
thực hiện cung cầu dưới hình thức mua bán hàng hoá dịch vụ trên thị trường. Thị
trường còn là nơi kiểm nghiệm về chất lượng và giá trị của hàng hoá dịch vụ và
được thị trường chấp nhận. Do vậy các yếu tố có liên quan đến hàng hoá và dịch vụ
đều phải tham gia vào thị trường.
Vậy điều quan tâm của doanh nghiệp thông qua nội dung trên là phải tìm ra
thị trường, tìm đến nhu cầu và khả năng thanh toán sản phẩm hàng hoá dịch vụ của
người tiêu dùng. Ngoài ra doanh nghiệp còn phải quan tâm đến việc so sánh những
sản phẩm mà nhà sản xuất cung ứng ra thị trường có thoả mãn nhu cầu của khách
hàng không, có phù hợp với khả năng thanh toán của người tiêu dùng không? Bởi vì
trong thị trường phải quan niệm rằng "khách hàng là số một"
Thị trường ở đây theo em hiểu thì thị trường là nơi tập hợp rất nhiều nhóm
người tiêu dùng với nhu cầu đa dạng và phong phú về hàng hoá và dịch vụ. Như
vậy, doanh nghiệp nào nắm được nhu cầu người tiêu dùng thì doanh nghiệp đã nắm
chắc cơ hội thành công trong sản xuất và kinh doanh. Như quan điểm của Maketing
thì nên đồng nhất giữa thị trường và khách hàng. Chỉ có như vậy doanh nghiệp mới
ý thức được mục tiêu của các kế hoạch , chính sách thị trường của mình
2. Chức năng của thị trường.
Thị trường được coi là một phạm trù trung tâm , vì qua đó các doanh nghiệp có
thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống giá cả .Trên thị
trường, giá cả hàng hoá và dịch vụ,giá cả các yếu tố của các nguồn lực như thiết bị
máy móc , nguyên vật liệu, lao động đất đai .vv luôn luôn biến động nhằm sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực để tạo ra hàng hoá và dịch vụ, đáp ứngkịp thời nhu cầu
thị trường và xã hội. Như vậy ta thấy, thị trường có vai trò cực kỳ quan trọng trong
việc điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thị trường tồn tại khách quan, từng
doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động thích ứng với thị trường. Mỗi doanh nghiệp phải
trên cơ sở nhận biết nhu cầu của thị trường, cũng như thế mạnh của mình trong sản


xuất kinh doanh để có kế hoạch và phương án kinh doanh phù hợp với sự đòi hỏi
của thị trường. Thị trường có vai trò to lớn như vậy là do nó có các chức năng chủ
yếu sau đây:



2.1 Chức năng thừa nhận của thị trường:
Chức năng này được thể hiện ở chỗ hàng hoá hay dịch vụ của doanh nghiệp
có bán được hay không, nếu bán được có nghĩa là được thị trường chấp nhận. Hàng
hoá dịch vụ được thị trường thừa nhận có nghĩa là người tiêu dùng chấp nhận và
quá trình taí sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện. Thị trường thừa nhận tổng
khối lượng hàng hoá, dịch vụ đưa ra thị trường, tức thừa nhận giá trị sử dụng và giá
trị của hàng hoá,dịch vụ chuyển giá trị riêng biệt thành giá trị xã hội. Sự phân phối
và phân phối lại nguồn lực nói lên sự thừa nhận của thị trường.
2.2 Chức năng thực hiện của thị trường:
Chức năng này được thể hiện ở chỗ thị trường là nơi diễn ra các hành vi mua
bán hàng hoá dịch vụ. Người bán cần giá trị của hàng hoá, còn người mua cần giá
trị sử dụng của hàng hoá. Nhưng theo trình tự, thì sự thực hiện về giá xảy ra khi nào
thực hiện được giá trị sử dụng. Bởi vì hàng hoá hay dịch vụ dù được tạo ra với chi
phí thấp nhưng không phù hợp với nhu cầu của thị trường và xã hội thì cũng không
tiêu thụ hoặc bán được. Như vậy, thông qua chức năng thực hiện cúa thị trường, các
loại hàng hoá và dịch vụ hình thành nên giá trị trao đổi của mình làm cơ sở cho việc
phân phối các nguồn lực.
2.3 Chức năng điều tiết và kích thích của thị trường:
1. Chức năng điều tiết: thông qua nhu cầu thị trường người sản xuất sẽ chủ động di
chuyển hàng hoá, tiền vốn, vật tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác nhằm thu lại

lợi nhuận cao hơn. Chính vì vậy người sản xuất sẽ củng cố địa vị của mình trong
sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao, tăng cường sức mạnh của doanh nghiệp trong

cạnh tranh.
2. Chức năng kích thích: thể hiện ở chỗ thị trường chỉ chấp nhận những hàng hoá,
dịch vụ với những chi phí sản xuất và lưu thông thấp hoặc bằng mức bình thường,
nhằm khuyến khích các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất để hạ giá thành sản
phẩm.
2.4 Chức năng thông tin của thị trường:
Thị trường chỉ cho người sản xuất biết nên sản xuất hàng hoá, dịch vụ nào,
với khối lượng bao nhiêu để đưa sản phẩm ra thị trường với thời điểm nào là thích
hợp và có lợi nhất. Chỉ cho người tiêu dùng biết nên mua những loại hàng hoá và
dịch vụ nào ở thời điểm nào là có lơị cho mình, chức năng có được là do có chứ
đựng các thông tin về: tổng số cung tổng số cầu, cơ cấu cung cầu, quan hệ giữa
cung và cầu đối với từng loại hàng hoá dịch vụ, chất lượng sản phẩm hàng hoá, dịch
vụ, các điều kiện tìm kiếm hàng hoá và dịch vụ, các đơn vị sản xuất và phân phối
v.v. đây là những thông tin này rất cần thiết đối với người sản xuất và người tiêu
dùng để đề ra các quyết định thích hợp đem lại lợi ích và hiệu quả cho mình.
3. Các yếu tố tạo hợp thành thị trường và các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng
đến thị trường .
a) Các yếu tố hợp thành thị trường.
Thị trường ra đờivà phát triển gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, sự phân
công lao động xã hội và việc sử dụng đồng tiền làm thước đo trong quá trình trao
đổi hàng hoá và dịch vụ.Từ đó ta thấy, thị trường muốn tồn tại và phát triển phải có
đủ các điều kiện sau đây:
* Phải có khách hàng, tức là người mua hàng và dịch vụ
* Phải có người cung ứng, tức là người bán hàng và dịch vụ

* Người bán hàng hoá và dịch vụ bán cho người mua và phải được bồi
hoàn (được trả giá)
Như vậy, bất cứ thị trường nào cũng có chứa ba yếu tố: Cung,cầu, giá cả hàng
hoá và dịch vụ .Ba yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và hợp thành thị
trường .

* Yếu tố cung : Yếu tố này phản ánh cho ta thấy trên thị trường chỉ có
những hàng hoá và dịch vụ có nhu cầu mới được cung ứng.Điều này
có được là do hoạt động có ý thức của các nhà sản xuất, kinh doanh
.Mặt khác, hàng hoá và dịch vụ được cung ứng không phải bằng bất
cứ giá nào mà là giá cả thoả thuận vừa có lợi cho người cung ứng vừa
có lợi cho người có nhu cầu (không tính những trường hợp ngoại lệ )
* Yếu tố cầu : Yếu tố này phản ánh cho ta trưòng hợp thấy chỉ có
những nhu cầu của thị trường và xã hội có khả năng đáp ứng mới tồn
tại và có quan hệ qua lại với các yếu tố còn lại của thị trường .Và lẽ
đương nhiên, khi nói đến nhu cầu là nói đến số lượng được thoả mãn
về một loại hàng hoá hay dịch vụ cụ thể gắn liền với mức giá nhất
định .
* Yếu tố giá cả : Yếu tố này phản ánh cho ta thấy trên thị trường, việc
đáp ứng nhu cầu của thị trường và xã hội về hàng hoá và dịch vụ
luôn luôn gắn liền với việc sử dụng các nguồn lực có hạn của xã
hội và được trả giá. Như vậy, trên thị trường, hàng hoá và dịch vụ
được bán theo giá mà số lượng cung cấp gặp số lượng cầu .
b) Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường
Về mặt lý luận và thực tiễn, người ta đã coi thị trường là một tổng thể, nên
các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường là rất phong phú và đa dạng. Để đạt được hiệu
quả cao trong việc nghiên cứu thị trường, cần phải phân loại một số nhân tố trên góc
độ thích hợp.

- Trên góc độ sự tác động của các lĩnh vực vào thị trường có thể phân
thành các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, thời tiết, khí hậu .
- Các nhân tố kinh tế,đặc biệt là việc sử dụng các nguồn lực sản xuất
trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông- lâm-ngư -nghiệp, xây
dựng giao thông vận tải, nội thương, ngoại thương các phương pháp
sử dụng nguồn lực có ảnh hưởng quyết định đến thị trường, bởi lẽ chúng
chịu tác động trực tiếp đến lượng cung, cầu, giá cả hàng hoá và dịch vụ.

 Các nhân tố ảnh hưởng chính trị - xã hội, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường
được thể hiện thông qua các chủ chương, chính sách, thông tục tập quán và
truyền thống, trình độ văn hoá của nhân dân, đặc biệt là chính sách tiêu dùng,
chính sách khoa học và công nghệ, chính sách đối nội và đối ngoại, chính sách
dân số, chính sách nhập khẩu có ảnh hưởng to lớn đến thị trường : làm mở rộng
hay thu hẹp thi trường .
 Các nhân tố tâm lý, các nhân tố này tác động đến cả người sản xuất, kinh doanh
và tiêu dùng và thông qua đó sẽ tác động đến cung, cầu, giá cả hàng hoá và dịch
vụ .
 Trên góc độ tác động của cấp quản lý đến thị trường, có thể phân thành các nhân
tố quản lý vĩ mô và các nhân tố thuộc quản lí vĩ mô .
 Các nhân tố quản lí vĩ mô như chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế quốc
dân, pháp luật Nhà nước,thuế, lãi xuất tín dụng,tỉ giá hối đoái, giá cả, cô ta tất
cả những nhân tố này được coi là công cụ để nhà nước quản lý và điều tiết thị
trường thông qua sự tác động trực tiếp vào cung cầu và giá cả hàng hoá và dịch
vụ.mặt khác chính những công cụ này còn tạo nên môi trường kinh doanh .Các
doanh nghiệp muốn làm ăn có hiệu quả con đường quan trọng là phải tìm mọi
biện pháp để vận dụng mội cách thích hợp các loại nhân tố này .
 Các nhân tố thuộc quản lý vĩ mô như chiến lược phát triển sản xuất
kinh doanh, kế hoạch sản xuất kinh doanh, phương án sản phẩm, giá

cả, phân phối, các biện pháp xúc tiến bán hàng, yểm trợ thu tiêu thụ
sản phẩm hàng hoá và dịch vụ (quảng cáo, hội chợ, triển lãm, giới
thiệu sản phẩm )
Các nhân tố này được coi là những công cụ để quản lí doanh nghiệp nhằm tạo ra
những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có chất lượng cao, đáp ứng kịp thời nhu cầu
của thị trường và xã hội thông qua mối quan hệ cung và cầu và giá cả hàng hoá và
dịch vụ thích hợp để phát triển và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
4. Nghiên cứu nhu cầu của thị trường
a) Những vấn đề chung của việc nghiên cứu nhu cầu của thị trường

 Việc nghiên cứu nhu cầu thị trường được coi là hoạt động có tính chất tiền đề
của công tác kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
 Nghiên cứu nhu cầu của thị trường có tầm quan trọng đặc biệt trong việc xác
định đúng đắn phương hướng phát triển sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp.
 Việc nghiên cứu nhu cầu của thị trường luôn luôn được coi là vấn đề phức tạp,
phong phú và đa dạng, do đó, đòi hỏi phải có phưong pháp nghiên cứu thích hợp
và chấp nhận sự tốn kém.
 Để nắm được nhu cầu của thị trường, kinh nghiệm thực tiễn của nhiều doanh
nghiệp ở các nước cho ta thấy, người nghiên cứu phải tuân theo trình tự sau đây:
Một là, tổ chúc hợp lí việc thu nhập các nguồn thông tin về nhu cầu của thị
trường.
Hai là, tổ chức hợp lí việc thu nhập đứng đắn các loại thông tinđẫ thu nhập
được về các loại nhu cầu của thị trường .
Ba là, xác định nhu cầu của từng loại thị trường mà doanh nghiệp có khả
năng đáp ứng.

b) Kết quả nghiên cứu nhu cầu của các loại thị trường phải trả lời đượcnhững vấn
đề sau đây:
 những loại thị trường nào được coi làcó triển vọng nhất đối với hàng hoá và dịch
vụ của doanh nghiệp .
những loại mặt hàng nào có khả năng tiêu thụ được với khối lượng lớn nhất và phù
hợp với năng lực của doanh nghiệp.
Những yêu cầu chủ yếu của từng loại thị trường đối với các loại hàng hoá và dịch
vụ như chất lượng đò bao gói mẫu mã phương thức vận chuyển và phươngthức
thanh toán.
 dự kiến về mạng lưới tiêu thụvà phương thức phân phối tiêu thụ.

5. Vai trò của thị trường với sự phát triển của doanh nghiệp .
Thị trường giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá. ở nước ta, trong điều
kiện hiện nay "thị trường vừa là mục tiêu ,vừa là căn cứ của kế hoạch hoá ". Đối với

các doanh nghiệp, thị trường là bộ phận chủ yếu trong môi trường kinh tế xã
hội.Hoạt động bên ngoài của các doanh nghiệp được tiến hành trong môi trường
phức tạp ,bao gồm nhiều bộ phận khác nhau như.Môi trường dân cư môi trường văn
hoá môi trường chính trị thị trường chính là nơi hình thành và thực hiện các mối
quan hệ kinh tế giữ doanh nghiệp với môi trường bên ngoài. Thị trường như mội
cầu nối, nhờ đó mà doanh nghiệp mới thực hiện được mối quan hệ với người tiêu
dùng, với các đơn vị kinh tế khác, với nghành kinh tế và với hệ thống kinh tế quốc
dân
Thị trường còn đảm bảo các hoạt động bình thường của quá trình sản xuất và
tái sản xuất của doanh nghiệp. Trao đổi là khâu quan trọng nhất và phức tạp của quá
trình tái sản xuất diễn ra trên thị trường. Hoạt động của các danh nghiệp diễn ra trên
thị trường nếu diễn ra tốt, lành mạnh sẽ giúp cho việc trao đổi hàng hoá được tiến

hành nhanh chóng đều đặn .Ngược lại khi thị trường không ổn định, hoạt động trao
đổi hàng hoá bị trì trệ hoạc không thực hiện được sẽ ảnh hưởng xấu đếnquá trình
sản xuất của doanh nghiệp .
Vì vậy thị trường có vai trò quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp.
Vấn đề thị trường ngày càng trở nên quan trọng trong quản lý kinh tế cũng như
trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
II. Cơ chế thị trường .
Cơ chế thị trường chính là môi trường về kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật
mà đặc trưng nhất của cơ chế là hệ thống đương lối chính sáchcủa Đảng và Nhà
nước. Trong phạm vi của các doanh nghiệp đó là hệ thống các nội quy,quy chế về
quản lý và điều hành quá trình sản xuất và kinh doanh tạo điều kiện cho các đơn vị
kinh tế phát triển theo hướng thống nhất.
Cơ chế thị trường được hình thành với sự tác động tổng hợp của các quy luật
sản suất và lưu thông hàng hoá trên thị trường.Đó là các quy luật về giá trị ,quy luật
giá trị thặng dư ,quy luật cung cầu ,quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ
Các quy luật này tạo thành hệ thống các quy luật và hệ thống này tạo ra cơ chế thị
trường.

Cơ chế thị trường có những nét đặc trưng sau :
Thị trường vừa được coi là yếu tố quyêt định của quá trình tái sản xuất hàng hoá,
dịch vụ, vừa được coi là mục tiêu, khâu kết thúc quá trình sản xuất .
 Thị trường điều tiết nền kinh tế xã hội thông qua việc đáp ứng các nhu cầu của
thị trường và xã hội về hàng hoá ,dịch vụ Dodó khuyến khích được sản xuất còn
tiêu dùng được hướng dẫn .
 Lợi nhuận tối đa đựơc coi là động lực ,còn cạnh tranh là phương thức hoạt động
của thị trường .

Sự điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường dưới sự
tác động của quy luật kinh tế thị trường đã mang lại những tích cực, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế ,phát triển khoa học kỹ thuật Tuy nhiên ngoài những mặt tích
cực của cơ chế thị trường ta cũng cần phải thấy mặt hạn chế của kinh tế thị trường,
để có biện pháp khắc phục. Như việc sử dụng các đòn bẩy kinh tế, những chế định
pháp luật của Nhà nước để can thiệp vào thị trường sẽ đảm bảo được lợi ích của
người tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậyviệc xuất hiện cơ chế thị
trường giúp cho các doanh nghiệp tự khẳng định được sự tồn tại của doanh nghiệp
ngoài ra còn xác định được mục tiêu phương hướng nhiệm vụ của doanh nghiệp
trong cơ chế thị trường là : Sản xuất phải đáp ứng đươc nhu cầu của thị trường, tìm
cách duy trì và mở rộng thị trường thông qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm
đổi mới mặt hangf phương thức bán hàng tạo điều kiện tăng trưởng và phát triển
của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường .
1. Các quy luật đặc trưng của nền sản xuất hàng hoá
Trên thị trường diễn ra nhiều hoạt động về kinh tế, có nhiều mối quan hệ phức
tạp diễn ra vì thế cũng xuất hiện nhiều quy luật kinh tế khác nhau đan xen.nhưng cơ
bản trong nền sản xuất hàng hoá là 3 quy luật:
 Quy luật giá trị .
 Quy luật cung - cầu.
 Quy luật cạnh tranh .
a. Quy luật giá trị

Là quy luật cơ bản của nền sản xuất hàng hoá , căn cứ vào đó mà hàng hoá
được trao đổi theo số lương lao động xã hội cần thiết đã hao phí để sản xuất hàng
hoá. Quy luật này cần điều tiết sự phân phối lao động xã hội và tư liệu sản xuất giữa
các nghành thông qua cơ cấu giá của thị trường.
b. Quy luật cung - cầu

Biểu hiện mối quan hệ kinh tế lớn nhất của thị trường : cầu là lượng hàng
hoá, dịch vụ người mua muốn mua tại mỗi mức giá .Nếu các yếu tố khác giữ
nguyên, khi giá càng thấp thì cầu càng lớn .
Cung là lượng hàng hoá, dịch vụ người bán muốn bán ở mỗi mức giá .Nếu
cố định các yếu tố khác, khi giá càng cao thì lượng cung càng lớn .
c. Quy luật cạnh tranh
Là cơ chế vận động của thị trường ,có thể nói là thị trường là "chiến
trường"là nơi gặp gỡ của các đối thủ cạnh tranh .Các hình thức cạnh tranhcơ bản
trên thị trường đó là : Cạnh tranh giữa người mua với người mua cạnh tranh giữa
người bán với người bán ,cạnh tranh giữa người mua với người bán. Trong 3 hình
thức cạnh tranh trên thì hình thức cạnh tranh giữa người bán với người bán là cuộc
cạnh tranh khốc liệt nhất. Đây là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ,nhằm
giành lấy những ưu thế trên thị trường trong cơ chế thị trường cạnh tranh là chủ yếu
.
Khi nói đến thị trường, ta chỉ hiểu chung chung như vậy .Vậy thì các doanh
nghiệp tiêu thụ sản phẩm ở đâu, những nơi nào trên thị trường. Vì thế xuất hiện
phân đoạn thị trường .
III. phân đoạn thị trường
Là việc phân chia thị trừơng tổng thể thành các đoạn thị trường nhất định,
đảm bảo trong cùng một đoạn thị trường mang những đặc điểm, tiêudùng giống
nhau hay các đoạn thị trường tương xứng với loại sản phẩm khác nhau .
Việc phân chia thị trường giúp doanh nghiệp chọn được các phần thị trường
phù hợp và có lợi thế nhất trong kinh doanh đồng thời có chính sách marketing với
từng đoạn .Khi xác định được đoạn thị trường nào cần xâm nhập doanh nghiệp cần

xác định vị thế nào mong muốn chiếm lĩnh trên các đoạn thị trường đó Doanh
nghiệp cần xem xét vị thế của sản phẩm cách đánh giá của người tiêu dùng về các
thuộc tính quan trọng của hàng hoá Việc xác định lấy đoạn thị trường nào là mục

tiêu sẽ quyết định đối thủ cạnh tranh .Với một đoạn thị trường phù hợp với doanh
nghiệp sẽ đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp Tuy nhiên chọn đọan thị trường
không chính xác sẽ dẫn đến hậu quả tồi tệ Có rất nhiều cách để phân đoạn thị
trường như theo địa lý nhân khẩu Theo quan điểm của marketing thì
Phân đoạn thị trường, có thể chia làm bốn cách cơ bản sau :
 Phân đoạn theo địa lý :thị trường tổng thể sẽ được chia cắt thành nhiềuđơn vị địa
lý : vùng, miền ,tỉnh ,thành phố ,quận ,huyện, phường -xã Đây là cơ sở phân
đoạn được áp dụng phổ biến vì sự khác biệt về nhu cầu thường gắn với yếu tố
địa lý (khu vực) .
 Phân đoạn theo dân số xã hội: nhóm tiêu thức thuộc loại này bao gồm: giới tính,
tuổi tác, nghề nghiệp, trình độ văn hoá, quy mô gia đình, tình trạng hôn nhân,
thu nhập, giai tầng xã hội, tín ngưỡng, dân tộc, sắc tộc đây là cơ sở chính tạo
ra sự khác biệt về nhu cầu và hành vi mua của người tiêu dùng.
 Phân đoạn theo tâm lý học: cơ sở phân đoạn này được biểu hiện hình thành các
tiêu thức như: thái độ, động cơ, lối sống, sự quan tâm, quan điểm, giá trị văn
hoá các yếu tố tâm lý đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng tới hành vi lựa chọn
và mua sắm hàng hoá của người tiêu dùng.
 Phân đoạn thị trường theo hành vi tiêu dùng: theo cơ sở này thị trường người
tiêu dùng sẽ được phân chia ra làm nhiều nhóm đồng nhất về các đặc tính sau:
lý do mua sắm, lợi ích tìm kiếm, tính trung thành, số lượng và tỉ lệ sử dụng ( đã
sử dụng, chưa sử dụng, không sử dụng )
để đảm bảo quá trình phân đoạn thị trường chính xác và có hiệu quả các doanh
nghiệp cần lưu ý đến yêu cầu của đoạn thị trường phải nghiên cứu một cách cụ thể
và có tính khả thi.
Nghiên cứu hoạt động phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu có ý
nghĩa rất lớn đối với việc sử dụng tối ưu nguồn lực có hạn của doanh nghiệp trong

việc đầu tư cho thị trường lựa chọn. Mỗi doanh nghiệp thường chỉ có một thế mạnh

xét trên một phương diện nào đó trong việc thoả mãn nhu cầu thị trường. Phân đoạn
thị trường, xác định thị trường mục tiêu, thực chất là vấn đề biết tập trung nỗ lực
của doanh nghiệp đúng thị trường, xây dựng cho mình một tư cách riêng, một hình
ảnh riêng, mạnh mẽ, rõ nét và nhất quán để khả năng vốn có của doanh nghiệp được
khai thác một cách có hiệu quả nhất.
IV. nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp
1. Mục đích của nghiên cứu thị trường
Đó là nghiên cứu nhu cầu của khách hàng về một loại sản phẩm hay dịch vụ nào
đó. Thông qua đó để các doanh nghiệp xác định chiến lược thị trường, chiến lược
marketing.
Việc tìm ra khoảng trống của thị trường, tức là có nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ
nhưng chưa có doanh nghiệp nào sản xuất mặt hàng đó hoặc có nhưng chưa đáp
ứng được nhu cầu về chất lượng mẫu mã của sản phẩm, hoặc lượng cung quá nhỏ.
Từ đó có kế hoạch sản xuất mặt hàng đó. Bởi vì phương châm của các doanh nghiệp
trong cơ chế thị trường là " chỉ bán những gì thị trường cần, chứ không bán những
gì ta có"
Như vậy, mỗi doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường để có kế
hoạch sản xuất khi sản phẩm ra đời sẽ có thị trường tiêu thụ.
2. Nội dung của việc nghiên cứu thị trường:
Do phạm vi và trình độ nên ở đây ta chỉ xét những vấn đề chung của việc nghiên
cứu nhu cầu thị trường và kết quả nói chung của việc nghiên cứu nhu cầu thị
trường.
 những vấn đề chung của việc nghiên cứu nhu cầu thị trường:
 việc nghiên cưú nhu cầu của thị trường được coi là hoạt động có tính chất tiền
đề của công tác kế hoặch hoá hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

+ Nghiên cứu nhu cầu của thị trường có tầm quan trọng đặc biệt trong việc xác định
đúng đắn phương hướng phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

 việc nghiên cứu nhu cầu của thị trường luôn được coi là vấn đề phức tạp, phong
phú và đa dạng. Do đó, đòi hỏi phải có phương pháp nghiên cứu thích hợp và
chấp nhận sự tốn kém
+ Để nắm được nhu cầu thị trường, kinh nghiệm thực tiễn của nhiều doanh nghiệp
khác, người nghiên cứu phải tuân theo trình tự sau:
tổ chức hợp lý việc thu thập các nguồn thông tin về nhu cầu của cac loại thị trường.
Phân tích và xử lý đúng đắn các loại thông tin đã thu thập được về các loại
nhu cầu của các loại thị trường.
Xác định nhu cầu của từng loại thị trường mà doanh nghiệp có khả năng đáp
ứng.
+ Để có kết quả tốt trong việc nghiên cứu nhu cầu thị trường các doanh nghiệp phải
trả lời một số vấn đề sau:
 những loại thị trường nào được coi là có triển vọng nhất đối với hàng hoá và
dịch vụ của doanh nghiệp
+ Những loại mặt hàng nào có khả năng tiêu thụ với khối lượng lớn nhất và phù hợp
với năng lực sản xuất của doanh nghiệp
+ Giá cả bình quân trên thị trường đối với từng loại hàng hoá, dich vụ của doanh
nghiệp
+ Những yêu cầu chủ yếu của hàng hoá và dịch vụ như: chất lượng bao gói, mẫu
mã, phương thức vận chuyển và phương thức thanh toán
+ Dự kiến về mạng lưới tiêu thụ và phương thức phân phối tiêu thụ cho những năm
tới.

Tóm lại, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, các doanh nghiệp sản
xuất theo chỉ tiêu kế hoặch được giao, không cần quan tâm đến việc có tiêu thụ
được sản phẩm hay không. Khi nước ta chuyển đổi cơ chế từ bao cấp sang thị
trường đã không thích nghi được và đã bị phá sản hay giải thể. Nhưng có một số
doanh nghiệp vẫn trụ vững được và ngày càng phát triển. Các doanh nghiệp này đã
thích nghi với cơ chế thị trường, tự chủ hạch toán kinh doanh, tự làm, tự ăn, lỗ chịu,
lãi ăn. Vì thế các doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường và mở rộng thị trường để

doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Muốn duy trì và phát triển doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường mỗi
doanh nghiệp phải thực hiện cho được các công đoạn của tái sản xuất mở
rộng: sản xuất-phân phối-trao đổi-tiêu dùng.
Việc tìm được thì trường tiêu thụ cho sản phẩm của mình đã khó, việc duy trì được
nó lại càng khó hơn. Chính vì vậy mỗi doanh nghiệp, ngoài việc sản xuất kinh
doanh ra còn phải đặc biệt quan tâm đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, làm sao phải
luôn luôn duy trì được thị trường mà mình tạo được và tìm cách mở rộng thêm thị
trường. Có nhiều thị trường tiêu thụ thì sản phẩm sẽ bán được nhiều hàng hoá hơn.
Và như vậy doanh nghiệp khẳng định được vị trí uy tín của mình trên thị trường.
b. các quan điểm cơ bản về tiêu thụ
1. Khái niệm vai trò của công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
a. Khái niệm tiêu thụ
 Quan điểm của Macx về tiêu thụ: là quá trình kinh tế, tổ chức, kỹ thuật nhằm
điều hành và vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng đạt hiệu
quả kinh tế cao
 Quan điểm kinh tế về tiêu thụ: tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản
xuất kinh doanh, thông qua tiêu thụ, doanh nghiệp thực hiện được giá trị và gía
trị sử dụng của sản phẩm.

b. Vai trò của công tác tiêu thụ sản phẩm:
Tiêu thụ có vai trò rất quan trọng đối với việc sản xuất kịnh doanh của doanh
nghiệp. Nó là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất. Doanh nghiệp có tồn tại và
thực hiện được quá trình tại sản xuất mở rộng hay không là nhờ một phần ở khâu
tiêu thụ. Qua tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp mới thu hồi được vốn và mới có lãi để
thực hiện các quá trình tiếp theo.
Sản phẩm của doanh nghiệp tạo ra nhất thiết phải được tiêu thụ trên thị trường bởi:
 hoạt động trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nền kinh tế thị trường,
mỗi doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất hàng hoá với mục đích kiếm lời
 muốn duy trì và phát triển doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh

nghiệp phải thực hiện được vấn đề tái sản xuất mở rộng với 4 khâu: sản xuất,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Muốn cho 4 khâu này hoạt động một cách
thông suốt thì sản phẩm hàng hoá của mỗi doanh nghiệp nhất định phải được
tiêu thụ trên thị trường.
 mỗi doanh nghiệp khi tiến hành xây dựng và thực hiện chiến lược, kế hoặch sản
xuất kinh doanh và phương án sản phẩm của mình phải quán triệt phương châm:
+ Tiêu cung sản
+ Chỉ đưa vào chiến lược , kế hoặch và phương án những mặt hàng sản phẩm đã ký
kết được hợp đồng tiêu thụ hoặc chắc chắn sẽ tiêu thụ được.
 hoạt động trong nền kinh tế thị trường, mỗi doanh nghiệp phải quán triệt quan
điểm marketing: "chỉ sản xuất, kinh doanh những gì mà thị trường cần chứ
không phải sản xuất kinh doanh nhưng gì mà mình sẵn có".
Từ những luận cứ trên thì ta có thể thấy vai trò của tiêu thụ đối với doanh nghiệp là
không thể coi nhẹ. Thông qua hoạt động tiêu thụ thì doanh nghiệp mới có cơ hội tốn
tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường.

2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ
 Chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là tổng hợp các tính chất của sản xuất hàng hoá có công
dụng nhất định chất lượng sản phẩm là điều kiện sống còn của doanh nghiệp. Để có
thể đứng vững trên thị truờng và cạnh tranh được với các đối thủ khác thì doanh
nghiệp phải không ngừng tìm mọi biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm được đảm bảo và nâng cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm ,bảo đảm sự tồn tại lâu dài của doanh nghiệp
,giư được uy tín với khách hàng ,góp phần phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ
hàng hoá .
 Giá cả sản phẩm.
Giá cả là số tiền bán một đơn vị sản phẩm mà người bán bán ra dự định có
thể thu được của người tiêu dùng về sản phẩm của mình
 Tổ chức các mặt hoạt động dịch vụ

Trong cơ chế bao cấp, việc sản xuất bao nhiêu sản phẩm và tiêu thụ ở đâu
đều do cấp trên chỉ định.
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp phải tự hạch toán kinh doanh lãi
ăn, lỗ chịu. Sản phẩm của doanh nghiệp chịu sự cạnh tranh của thị trường. Chính vì
thế vấn đề tiêu thụ được sản phẩm được các doanh nghiệp rất quan tâm. Nếu doanh
nghiệp sản xuất mà không tiêu thụ được thì doanh nghiệp đó sẽ dẫn đến phá sản. Do
vậy cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những chính sách thích hợp
trong công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm.
 Mật độ dân số, mức thu nhập bình quân

Mật độ dân số: con người vừa là người sản xuất vừa là người tiêu dùng sản
phẩm. Mật độ dân số đông hay không ảnh hưởng đến các chính sách tiêu thụ sản
phẩm của doanh nghiệp
Mức thu nhập bình quân cao dẫn đến tiêu dùng nhiều thì tiêu thụ sản phẩm
cũng được nhiều
3. Nội dung cơ bản của công tác tiêu thụ sản phẩm
 Tổ chức công tác tiêu thụ
Bao gồm hàng loạt công việc khác nhau, từ việc quảng cáo, chào hàng, giới
thiệu sản phẩm đến việc tổ chức mạng lưới tiêu thụ, ký kết hợp đồng đây là các
hoạt động chủ quan của doanh nghiệp nhằm thúc đẩy quá trình tiêu thụ được nhanh
chóng
 Tổ chức kênh tiêu thụ:
Kênh tiêu thụ là đường đi, là phương thức di chuyển hàng hoá từ nơi sản
xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Một kênh tiêu thụ bao gồm 3 yếu tố chủ yếu:
người cung cấp, các phần tử trung gian và người tiêu dùng cuối cùng
Có 2 loại kênh tiêu thụ chủ yếu ở đây:
 Kênh tiêu thụ trực tiếp: là loại kênh không tồn tại các khâu trung gian, hàng hoá
vận động được chuyển từ người sản xuất đến thẳng người tiêu dùng.
Người sản xuất Người tiêu dùng cuối cùng
Kênh tiêu dùng trực tiếp là hình thức phân phối đơn giản nhất, thể hiện sự phân

công lao động chưa phát triển mạnh. Cách thức tiêu thụ này đảm bảo mối quan hệ
trực tiếp giữa người sản xuất và tiêu dùng. Nhà sản xuất có điều kiện nắm bắt được
nhu cầu của thị trường sát thực hơn
Sử dụng kênh tiêu thụ trực tiếp có thể giảm bớt một số chi phí trung gian, tạo được
lợi thế trong canh tranh về gía bán

Tuy nhiên, sử dụng kênh tiêu thụ naỳ sẽ làm tăng khối lượng công việc cho các nhà
sản xuất. Do vừa phải làm nhiệm vụ sản xuất, vừa phải hoạt động kinh doanh
thương nghiệp, dẫn đến việc phân tán lực lượng, không tập trung chuyên môn hoá
được sẽ làm giảm lợi thế kinh doanh. Ngoài ra do tiêu thụ trực tiếp nên hàng hóa bị
ứa đọng, gây tình trạng đọng vốn, dự trữ lớn, hệ số luân chuyển vốn thấp và có
nhiều rủi ro trong kinh doanh
 Kênh tiêu thụ gián tiếp: là loại kênh tồn tại các phần tử trung gian hàng hoá
được chuyển qua một hoặc một số lần thay đôỉ quyền sở hữu từ người sản xuất
đến tiêu dùng
Tuỳ thuộc vào số lượng các khâu trung gian mà hình thành nên các kênh tiêu thụ
dài ngắn khác nhau như:
Người sản xuất Bán lẻ Tiêu dùng
Người sản xuất Bán buôn Bán lẻ Tiêu dùng
Người sản xuất Đại lý bán lẻ Tiêu dùng
Hàng hoá được tiêu thụ rộng rãi trên nhiều vùng thị trường khác nhau trên
kênh tiêu thụ này
Do chuyên môn hoá cao trong sản xuất và hoạt động thương nghiệp, khi sử
dụng kênh tiêu thụ này cho phép các doanh nghiệp phát huy lợi thế của mình, và có
thể tăng cạnh tranh và mở rộng thị trường nhờ các phần tử trung gian. Đặc biệt
doanh nghiệp giảm bớt được tình trạng dự trữ hàng hoá, ứa đọng vốn và san sẻ rủi
ro kinh doanh qua các khâu phân phối
Tuy nhiên, khi sử dụng kênh tiêu thụ này phải qua nhiều khâu trung gian sẽ kéo
dài khoảng cách giữa sản xuất và tiêu dùng, làm chậm việc đáp ứng nhu cầu thị
trường và thiếu thông tin cụ thể về thị trường và khách hàng. Ngoài ra nó còn làm

tăng chi phí trong các khâu trung gian dẫn đến việc giá bán bị tăng lên làm quá trình
cạnh tranh bị khó khăn do giá cả cao

 Các chính sách hỗ trợ tiêu thụ :
Cạnh tranh trên thị trường diễn ra ngày càng quyết liệt, việc tiêu thụ sản phẩm ngày
càng khó khăn buộc các doanh nghiệp phải có các biện pháp hỗ trợ khâu tiêu thụ.
Mà biện pháp phổ biến và cụ thể nhất là xúc tiến bán hàng bao gồm các hoạt động
của doanh nghiệp thực hiện trong một không gian và thời gian nhất định nhằm thu
hút sự chú ý của người tiêu dùng. Việc xúc tiến bán hàng bao gồm các hoạt động
chủ yếu:
 Hoạt động trưng bày triển lãm: nhằm giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp,
tranh thủ thu hút sự chú ý của khách hàng, thu hút sự đầu tư, liên doanh liên kết
với các doanh nghiệp khác
 Các hoạt động xúc tiến tại nơi bán hàng: có ý nghĩa quan trọng là nơi thể hiện
khả năng ứng xử và nghệ thuật marketing cuả người kinh doanh
Tại nơi bán hàng các hoạt động doanh nghiệp cần chú ý là:
 Chọn địa điểm mở cửa hàng
 Trưng bày hàng hóa
 Nghệ thuật bán hàng của nhân viên
 Trang trí cửa hàng
 Kích thích vật chất cho người tiêu thụ sản phẩm
 Dịch vụ sau bán hàng: là dịch vụ diễn ra sau khi hàng hoá đã được tiêu thụ nhằm
giúp người tiêu dùng sử dụng hợp lý sản phẩm và nâng cao uy tín của doanh
nghiệp trên thị trường cạnh tranh. Hiện nay, trên thị trường Việt nam có rất
nhiều doanh nghiệp đã thực hiện dịch vụ sau bán hàng, hoạt động này mang lại
rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Có nhiều hình thức dịch vụ sau bán hàng
như;
 Hoạt động hướng dẫn khách hàng sử dụng sản phẩm

 Hình thức bảo hành sản phẩm

 Hình thức cung cấp sản phẩm thay thế
c. Những phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm duy trì và mở rộng thi
trường tiêu thụ sản phẩm trong các doanh nghiệp
1. Chính sách về chất lượng và giá cả
 Chính sách về chất lượng:
Chất lượng sản phẩm là năng lực của một sản phẩm nhằm thoả mãnh những nhu
cầu của người sử dụng. Chất lượng sản phẩm được xác định bởi các yếu tố về hiệu
xuất khả năng vận hành, thuận tiện, bền đẹp và an toàn về sử dụng và không gây ô
nhiễm
Khi chất lượng sản phẩm cao đáp ứng được nhu cầu thị trường sẽ đem lại rất nhiều
lợi ích cho doanh nghiệp
Do chất lượng sản phẩm hàng hoá tốt nên tốc độ tiêu thụ sản phẩm nhanh, tạo được
ấn tượng tốt về nhãn hiệu sản phẩm, tạo ưu thế cho doanh nghiệp trên thị trường, và
giành lợi thế trong cạnh tranh, thu hút được nhiều khách hàng, mở rộng được thị
trường
 Chính sách gía cả:
Bao gồm các hoạt động, các giải pháp nhằm để ra một hệ thống các mức giá cả
trong kinh doanh không được quyết định cứng nhắc mà nó được điều chỉnh kịp thời
cho phù hợp với từng giai đoạn, thời kỳ của vòng đời sản phẩm và từng thị trường
cụ thể
Chính sách giá cả đúng đắn ảnh hưởng trực tiếp đến vòng đời và cac giai đoạn
khác nhau của vòng đời sản phẩm. Nó còn là thứ vũ khí sắc bén giúp doanh nghiệp
chiếm lợi thế trong cạnh tranh, giữ vững được thị trường và mở rộng được thị
trường

2. Công tác bảo hành sản phẩm
Trong những năm gần đây hoat động bảo hành mang tính chất phổ biến và có lợi
trong cơ chế thị trường. Nó vừa là trách nhiệm của doanh nghiệp vừa góp phần tạo
nên tâm lý tin cậy và yên tâm cho người tiêu dùng khi sử dụng sản phẩm của mình
Tuỳ theo đặc điểm về gía trị và thời gian sử dụng sản phẩm và khả năng của doanh

nghiệp mà có các chế độ bảo hành khác nhau. Tuy nhiên cần nhấn mạnh đến tính
thiết thực và hiệu quả của hoạt động bảo hành. Khi thực hiện bảo hành sản phẩm,
doanh nghiệp có thể bảo hành tại nơi sản xuất hoặc thành lập trạm bảo hành. Hình
thức bảo hành tại nơi tiêu dùng tuy có chi phí cao song gây được ấn tượng mạnh và
có hiệu qủa hơn cả
3. Không ngừng đổi mới kiểu dáng, mẫu mã, bao bì
Ngoài việc quan tâm đến chất lượng sản phẩm, người tiêu dùng cũng chú ý đến kiểu
dáng, mẫu mã, bao bì sản phẩm. Nó cũng gây ấn tượng và đặc biệt là quyết định
mua hàng của khách hàng
4. Tổ chức khuyến mại trong tiêu thụ
Trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, công tác tổ chức khuyến mại là một nghệ thuật
kinh doanh. Khuyến mại là hình thức kích thích người mua, tạo cho họ cảm giác
thích thú và quyết định mua hàng
Trong tiêu thụ sản phẩm có nhiều hình thức khuyến mại mà doanh nghiệp có thể áp
dụng:
 Khuyến mại dưới hình thức mua nhiều thì sẽ được thưởng nhiều
 Khuyến mại theo hình thức vé số: khi bóc sản phẩm ra bạn sẽ được một lời chúc
mừng hoặc một tặng phẩm có giá trị của doanh nghiệp dành cho người tiêu thụ
 Xây dựng chiến lược sản phẩm

×