Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Đường lối chính sách của Đảng về Quốc phòng, an ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.67 KB, 26 trang )

Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

Họ tên Học viên: Lê Thị Tuyết Mai
Đơn vị: Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước (STP)
Lớp: TC 137
Số thứ tự Học viên: 28
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Mơn: Đường lối chính sách của Đảng về Quốc phịng, an ninh
Câu 1. Phân tích mục tiêu chung của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
1. Khái niệm “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược xác định mục tiêu, quy tụ lực lượng và
lựa chọn giải pháp có tính khả thi, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng
lợi đường lối, nhiệm vụ quốc phòng –an ninh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
2. Những căn cứ để hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc
- Học thuyết Mác – Lenin và tư tưởng HCM về Bảo vệ Tổ quốc XHCN.
- Đường lối, quan điểm của Đảng ta về xây dựng đất nước và tăng cường
QPAN bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
- Kinh nghiệm truyền thống giữ nước của dân tộc và tình hình thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Về đối tượng của CMVN:
+ Xác định đối tượng, đối tác: những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền,
thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt nam
điều là đối tác của chúng ta. Ngược lại, bất kể thế lực thù địch nào có âm mưu và hành
động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều
là đối tượng đấu tranh.
+ Một chủ thể có thể vừa là đối tác vừa là đối tượng. Hai mặt đối tác và đối
tượng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
- Tình hình trong những năm tới trên thế giới cũng như trong nước có liên
quan trực tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.


+ Tình hình thế giới:
Hịa bình, hợp tác và hợp tác vẫn là xu thế lớn nhưng sẽ có những diễn biến
phức tạp mới tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc khó lường.
Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên, chủ quyền lãnh
thổ, biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố,
… có thể gia tăng.
Cục diện thế gới đa cực ngày càng rõ hơn. Các nước lớn vửa hợp tác, vừa đấu
tranh, cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau, chi phối các quan hệ quốc tế. Các nước tiếp tục
điều chỉnh chiến lược, tập hợp lực lượng mới trong khu vực.
1


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

Khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong đó có khu vực Đơng Nam Á là khu
vực phát triển năng động nhưng vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định, tranh chấp
lãnh thổ, biển đảo ngày càng gây gắt.
+ Tình hình trong nước:
Ổn định chính trị tiếp tục được giữ vững, kinh tế-xã hội phát triển, tiềm lực của
đất nước được tăng lên; nhưng đất nước sẽ phải đối đầu với những khó khăn thách
thức mới.
3. Mục tiêu chung trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Chúng ta cần quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản sau:
a) Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc
Việt Nam:
Trước đây, trong điều kiện phải chiến đấu chống xâm lược, giải phóng Tổ quốc,
tư duy chiến lược của chúng ta về bảo vệ Tổ quốc thiên về dùng vũ trang chống lại sự
tấn công từ bên ngoài là chủ yếu. Ngày nay, trong điều kiện rất mới của quốc tế và

trong nước, một mặt phải chuẩn bị đầy đủ sức mạnh vũ trang cần thiết để giữ vững hịa
bình, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch trong mọi tình
huống; mặt khác, tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nhấn mạnh sức mạnh và các
biện pháp phi vũ trang để giữ vững được độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ, an
ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội mà khơng phải tiến hành chiến tranh, ngăn chặn
không để xảy ra chiến tranh, phát triển đất nước về mọi mặt theo đúng định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Về đối tượng, đối tác, tư duy bảo vệ Tổ quốc, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại
của chúng ta đã có sự phát triển, đổi mới. Chúng ta nhận thức về đối tượng và đối tác
linh hoạt, uyển chuyển và biện chứng hơn; chúng ta cũng ngày càng thấy rõ vai trò
quan trọng của an ninh và đối ngoại, sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ giữa quốc
phòng với an ninh và đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; giữa quốc phòng, an
ninh, đối ngoại với kinh tế - tức là chúng ta nhận thức toàn diện, sâu sắc, biện chứng
hơn mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đó là một
thành quả mới về lý luận bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta.
b)Bảo vệ Đảng, NN, nhân dân và chế độ XHCN:
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để chống lại kẻ thù xâm lược
lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc. Kế thừa truyền thống đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) tiếp tục khẳng định
sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao gồm sức mạnh trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội và của các lực lượng; kết hợp sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh của nhân dân mới là điều căn bản
nhất.
Dưới thời nhà Hồ, khi trả lời nhà vua về kế sách chống giặc giữ nước, Hồ
Ngun Trừng đã nói: “Thần khơng sợ giặc mạnh, chỉ sợ lịng dân khơng theo” và
chính vì khơng được lịng dân nên mặc dù có thành cao, hào sâu, nhà Hồ đã không
ngăn được quân xâm lược và bị mất nước. Ngày nay, sức mạnh của nhân dân vẫn là
yếu tố quyết định, nhưng sức mạnh đó huy động được đến đâu cho sự nghiệp BVTQ
còn tùy thuộc vào lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và
2



Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

chế độ XHCN. Vì vậy, để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, vai trò của nhân
dân đối với sự nghiệp BVTQ địi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp phải gắn bó mật thiết
với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc
trong nhân dân và điều cốt yếu là phải đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho nhân
dân.
c) Bảo vệ sự nghiệp đổi mới CNH –HĐH:
Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học và cơng nghệ phát triển nhanh đạt trình độ
tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh;
bảo đảm đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo
điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự
phân công và hợp tác quốc tế.
d) Bảo vệ lợi ích Quốc gia, dân tộc
Lợi ích quốc gia - dân tộc của chúng ta là cụ thể: Độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc; chế độ xã hội chủ nghĩa, sự giàu
mạnh, hùng cường của đất nước, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Đây là mục tiêu mà chúng ta sẵn sàng vượt qua mọi chông gai, quyết phấn đấu
thực hiện cho bằng được, cũng là cơ sở để chúng ta phân định những việc cần phải làm
và những việc cần phải tránh, như lời Bác Hồ dạy: Cái gì có lợi cho dân, cho nước thì
phải hết sức làm, cái gì có hại cho dân, cho nước thì phải hết sức tránh; là tiêu chuẩn
để chúng ta nhận diện ai là bạn, ai là thù, ai là đối tác, ai là đối tượng trong từng lĩnh
vực, từng tình huống, hồn cảnh cụ thể; những quan điểm của Đảng ta: Những ai tôn
trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập quan hệ hữu nghị và mở rộng quan hệ hữu nghị,
hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta; bất kỳ thế lực
nào có âm mưu, hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Làm trái thế, xâm hại đến lợi ích quốc
gia, dân tộc là vong thân, hại quốc, là có tội với tổ tiên, các thế hệ cha ơng, là phụ lại
lịng tin và sự ủy thác của hơn 90 triệu đồng bào!
e) Bảo vệ An ninh chính trị, Trật tự An toàn XH và nền VH Việt Nam
Đảng ta xác định rõ, phải kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng và thế trận
quốc phịng tồn dân với lực lượng và thế trận an ninh nhân dân, đặc biệt coi trọng xây
dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc để tăng cường tiềm
lực và sức mạnh quốc phòng. Đồng thời tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân vững mạnh, nhất là xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu tồn diện và trình độ
sẵn sàng chiến đấu cao, làm nịng cốt của nền quốc phịng tồn dân. Tuy nhiên, cũng
cần phải thấy lực lượng quân đội tinh nhuệ, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại là cần
thiết nhưng sẽ là chưa đủ để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Đi kèm với đó,
quan trọng là ta phải giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tăng cường hội nhập khu vực
và quốc tế, sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên vì lợi ích chung, vì hịa bình, ổn định và
phát triển trong khu vực.
f) Giữ vững ổn định chính trị và mơi trường hịa bình để phát triển đất nước
theo định hước XHCN:
Trong bất kỳ tình huống nào, tồn Đảng, tồn dân, toàn quân ta đều quyết tâm
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng,
3


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính
trị, trật tự an tồn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
giữ vững ổn định chính trị - xã hội, mơi trường hịa bình để phát triển đất nước theo

mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Điều dễ nhận thấy là
nội hàm mục tiêu của quốc phòng và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay của chúng ta
rất rộng, rất tồn diện và ngày càng sâu sắc. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa giữ
vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững chế độ xã hội
chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;… Nhưng trên hết là giữ vững mơi trường hịa bình,
ổn định để phát triển đất nước; cơ bản nhất là ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.
4. Liên hệ thực tế về mục tiêu Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
Tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của toàn xã hội, ý thức
trách nhiệm, nghĩa vụ của cơng dân.
Kết hợp chặt chẽ an ninh với quốc phịng; an ninh – quốc phòng với kinh tế
Quan tâm phát triển các vùng nông thôn, vùng núi, biên giới, hải đảo.
Câu 2. Phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng trong chiến lược bảo vệ Tổ
quốc
I. Đặc điểm tình hình:
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực đang diễn biến hết sức phức tạp, tiềm ẩn
những nhân tố khó lường. Đối với nước ta, sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước,
dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đẩy mạnh và đạt được những thành tựu quan
trọng: chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh được giữ vững; nội lực, tiềm
năng của đất nước lớn và cịn có thể phát huy mạnh hơn; uy tín, vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao; lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế
độ XHCN tiếp tục được củng cố, tăng cường.
Đó là những thuận lợi rất cơ bản, tạo cơ sở vững chắc để chúng ta tiếp tục đẩy
mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi mục tiêu:
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, nước ta cũng
đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ, do tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới; đồng thời, cũng phải thường xuyên đấu tranh chống các
âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hịa bình” rất nguy hiểm, thâm độc của
các thế lực thù địch, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn
lãnh thổ và cơng cuộc đổi mới theo định hướng XHCN.

Tình hình trên đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi phải tiếp tục quán triệt và nắm
vững mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, được
thể hiện rõ trong các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Đại hội về Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; để trên cơ sở đó, tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc đạt hiệu quả thiết thực. Trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đề ra các
quan điểm chỉ đạo, cần quán triệt gồm:
II. Các quan điểm chỉ đạo
1. Quan điểm thứ nhất:Giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với sự nghiệp BVTQ; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
4


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của NN, không ngừng củng cố, tăng cường khối
đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp BVTQ.
a. Cơ sở thực tiễn
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nước Cộng hịa XHCN Xơ Viết đã vượt
qua những thử thách nghiệt ngã của thời kì nội chiến, đánh bại các thế lực phản động
cùng sự can thiệp của 14 nước đế quốc, vượt qua những gian khổ hi sinh vô cùng to
lớn trong Đại chiến Thế giới lần thứ II , tiếp tục xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc XHCN trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, làm nên những chiến thắng vĩ đại,
thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trên thế giới. Nhưng vào
cuối thế kỉ XX, nhất là giai đoạn 1985-1991, khi M.Gc-ba-chốp làm Tổng bí thư
Đảng Cộng sản Liên Xô, những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô đã xa rời
tư tưởng của V.I.Lê-nin về quốc phòng bảo vệ Tổ quốc XHCN, mắc những sai lầm rất
nghiêm trọng về chiến lược, nhất là xóa bỏ vai trò lãnh đạo và làm tan rã Đảng Cộng
sản Liên Xơ. Đó là ngun nhân chủ yếu dẫn đến sự sụp đổ và tan rã của Liên bang

Cộng hòa XHCN Xô Viết vào cuối năm 1991, làm cho CNXH hiện thực lâm vào
khủng hoảng. Đây thực sự là những trang đau buồn trong lịch sử nhân loại. Trong
thông điệp Liên bang năm 2005, Tổng thống Nga Pu-tin coi đó là “Thảm họa địachính trị khủng khiếp nhất thế kỉ…”. Từ những bài học đau xót đó, các quốc gia dân
tộc do Đảng Cộng sản hoặc các chính đảng theo xu hướng XHCN cầm quyền đều kiên
định nguyên tắc về sự lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng, coi đó là nhân
tố chủ yếu quyết định thắng lợi sự nghiệp quốc phòng bảo vệ Tổ quốc.
Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước
đối với sự nghiệp BVTQ. Đây là một nội dung quan trọng, nhân tố quyết định thắng lợi
của sự nghiệp BVTQ. Trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và
các thế lực thù địch tranh thủ mọi sơ hở của ta để chống phá thì việc tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước càng cần phải được coi trọng. Đó cũng là
nhân tố bên trong quyết định sự thành bại của cách mạng, sự mất còn của chế độ
XHCN ở nước ta. Nghiên cứu lịch sử và một số cuộc chiến tranh khu vực gần đây cho
thấy, nguyên nhân cơ bản dẫn tới mất ổn định của một quốc gia đều xuất phát từ vấn
đề nội bộ. Nếu tình hình nội bộ ổn định, đất nước phát triển, đời sống nhân dân được
đảm bảo và cải thiện thì lịng tin vào chế độ được giữ vững và do đó các thế lực bên
ngồi khơng có cớ và thời cơ để can thiệp.
b. Nhiệm vụ
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội
nói chung, sự nghiệp BVTQ nói riêng thì Đảng phải mạnh. Những năm qua, bên cạnh
những mặt mạnh, cơng tác xây dựng Đảng cịn nhiều hạn chế, mà Hội nghị Trung
ương 4 (khóa XI) đã chỉ ra là: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có
cả đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”. Các hiện tượng tham nhũng, lợi ích nhóm, mất
đồn kết nội bộ,… tuy đã được khắc phục một bước, nhưng vẫn còn diễn ra, làm cho
lòng tin của một bộ phận nhân dân vào Đảng, Nhà nước bị giảm sút. Do đó, Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa XI), khi xác định mục tiêu BVTQ, ngồi mục tiêu chung,
cịn nhấn mạnh các mục tiêu cụ thể trong những năm trước mắt; trong đó, mục tiêu đầu
tiên là “Tạo được chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước; ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức,

5


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Theo đó, Nghị quyết đề ra giải pháp nâng
cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ, xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN là: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa XI) về cơng tác xây dựng Đảng, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, nhất là ở cấp chiến lược, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước;
đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng công tác cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo của
các cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền các cấp đối với nhiệm vụ BVTQ; xác định
rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cấp ủy, chính quyền, tổ chức trong thực hiện
nhiệm vụ BVTQ.
2. Quan điểm thứ hai:Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH;
giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế -xã hội là lợi ích cao nhất
của đất nước. Đồng thời, ln nêu cao cảnh giác, đánh bại mọi âm mưu, hành động
chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch, khơng để bị động, bất ngờ trong mọi
tình huống.
a. Cơ sở thực tiễn
Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là sự lựa chọn của Đảng, Bác Hồ
và nhân dân ta từ đầu thế kỷ thứ XX. Mục tiêu độc lập dân ta đã đạt được thắng lợi
quyết định. Mục tiêu CNXH đã vượt qua chặng đường đầu, đang ở chặng đường cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa của thời kỳ quá độ lâu dài. Hai mục tiêu này quan hệ khăng
khít với nhau. Trong khi thực hiện mục tiêu này vẫn không quên kết hợp với mục tiêu
kia. Mục tiêu độc lập dân tộc bao gồm quyền làm chủ của dân tộc đối với Tổ quốc
thống nhất, quyền tự quyết định của dân tộc về con đường phát triển của đất nước;
quyền bình đẳng mọi mặt trong quan hệ đối với các quốc gia dân tộc trên thế giới. Độc

lập dân tộc chỉ triệt để, hoàn thiện khi xây dựng thành quốc gia cường thịnh, khi khơng
cịn nguy cơ xâm lược. Điều đó chỉ đạt được khi xây dựng thành công CNXH trên đất
nước ta và cơ bản trên tồn thế giới. Vì vậy, hiện nay phải thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Trong lịch sử xã hội loài người, thời đại nào cũng vậy, dân tộc bao giờ cũng gắn
liền với một chế độ chính trị nhất định; trong đó, dân tộc có quyền lựa chọn cho mình
một chế độ chính trị nhất định, chế độ chính trị phù hợp thì tồn tại, phát triển và được
bảo vệ. Ngược lại, nếu chế độ chính trị khơng phù hợp, thì chính dân tộc đó sẽ quyết
định việc thay thế nó bằng một chế độ chính trị khác phù hợp hơn. Đối với dân tộc ta,
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Đảng ta luôn giương cao hai ngọn
cờ: độc lập dân tộc và CNXH và đã giành thắng lợi trọn vẹn. Thực tiễn cũng đã chứng
minh, chỉ có kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nước ta mới có
độc lập dân tộc thực sự và sự thực trong gần 30 năm đổi mới vừa qua, CNXH đã thể
hiện được tính ưu việt của nó, mặc dù mơ hình này chưa có tiền lệ trong thực tiễn và
cần tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới. Những năm qua, vấn đề dân tộc luôn được
Đảng ta đặc biệt coi trọng và trên thực tế đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân
dân, nhất là đối với kiều bào ta ở nước ngồi. Tuy nhiên, cịn có ý kiến khác nhau về
mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH. Một số người cho rằng không cần thiết
phải gắn độc lập dân tộc với CNXH. Vậy nhận thức đó đúng hay sai?
Cần thấy rằng, thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua
nhiều giai đoạn khác nhau và ở đó CNXH chưa thể hồn chỉnh ngay được, ngay cả các
đặc trưng của CNXH mà Đảng ta khái quát trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
6


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), cũng chưa phải đã thể hiện

được đầy đủ. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải đầu tư nghiên cứu, tiếp tục làm sáng tỏ
các vấn đề lý luận về CNXH mà thực tiễn đang đặt ra hiện nay. Đồng thời, khắc phục
các hạn chế của nó, xây dựng CNXH thực sự ưu việt. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa
XI) nhấn mạnh sự cần thiết phải gắn bó chặt chẽ giữa BVTQ với các yếu tố tự nhiên,
lịch sử với yếu tố chính trị - xã hội; đặc biệt là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc phải gắn với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ XHCN. Như vậy có thể khẳng định bất luận trong hoàn cảnh nào, toàn Đảng, toàn
dân, tồn qn cũng phải ln kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Đây là mục tiêu và cũng là quan điểm của Đảng ta. Chừng nào chúng ta xa rời mục
tiêu đó, tức là tách rời độc lập dân tộc với CNXH thì chừng đó sẽ chệch hướng và thất
bại. Do đó, cần phải quán triệt thật sâu sắc thật vững vấn đề đặc biệt quan trọng này.
Mục tiêu CNXH là đạt đến trình độ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Đó là xã hội có hình thái kinh tế-xã hội đạt trình độ cao. Mọi người
đều được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng. Đó là xã hội có mơ hình được xác định ở
cương lĩnh năm 1991 và Đại hội X bổ sung. Đạt trình độ ấy là chúng ta có độc lập dân
tộc hồn thiện và CNXH đích thực, lịch sử dân tộc sẽ chuyển sang kỷ nguyên xây
dựng chủ nghĩa cộng sản.
Kiên định mục tiêu có nghĩa là mục tiêu được xác định là đúng đắn. Đó là quy
luật cơ bản của lịch sử Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại. Mọi mục tiêu khác đều
không khách quan nên không thể chấp nhận. Độc lập dân tộc không gắn với CNXH là
độc lập nửa vời, hoặc giả hiệu khơng thốt khỏi bàn tay chỉ huỷ của các nước lớn.
CNXH không dựa trên độc lập dân tộc thì khơng cịn là CNXH đích thực. Độc lập dân
tộc và CNXH là chân lý của thời đại nên sự lựa chọn mục tiêu đó của dân tộc ta là
chính xác.
+ Kiên định lấy việc giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để phát triển kinh
tế - xã hội thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố theo định hướng xã hội chủ nghĩa
là lợi ích cao nhất của đất nước.
b. Nhiệm vụ
Giữ nước phải giữ từ thời bình. Kế thừa tư tưởng “giữ nước từ khi nước chưa
nguy”, Đảng ta đã khơng ngừng phát triển, hồn thiện tư duy, nhận thức của mình về

BVTQ trong điều kiện mới; trong đó, giữ nước phải được thực hiện ngay từ thời bình
là một trong những quan điểm cơ bản. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) đã khẳng
định: “giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích
cao nhất của đất nước”. Như vậy, theo Đảng ta, không phải cứ tiến hành chiến tranh
hoặc hoạt động liên quan đến chiến tranh mới được coi là giữ nước, mà giữ nước tối
ưu là làm cho đất nước không phải tiến hành chiến tranh. Phát triển quan điểm trên,
chúng ta đã nhấn mạnh đến vấn đề bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ xa. BVTQ từ xa
không chỉ xét về mặt địa lý, mà chủ yếu là chủ động chuẩn bị BVTQ ngay khi đất
nước đang hịa bình và phát triển; thực hiện ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ xung đột và
chiến tranh. Đồng thời, không coi nhẹ vấn đề tự bảo vệ và khẳng định phải xây dựng
lực lượng vũ trang nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”,
trong đó có một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại để BVTQ. Nghị quyết Trung ương
8 (khóa XI) cũng chỉ rõ phương châm BVTQ là: Đối với nội bộ, lấy việc giáo dục,
thuyết phục, phòng ngừa là chính đi đơi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý
7


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật. Đối với các tranh chấp, bất đồng với các
nước liên quan thì kiên trì giải quyết bằng biện pháp hịa bình, trên cơ sở luật pháp
quốc tế. Đảng ta cũng chỉ rõ phương thức đấu tranh là kết hợp đấu tranh vũ trang và
phi vũ trang, nhưng lấy đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa,
làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; khắc phục
tình trạng sơ hở, mất cảnh giác. Phịng ngừa, ngăn chặn hiệu quả các nguy cơ xung
đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng; không để xảy ra bạo loạn,
khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước.
3. Quan điểm thứ ba:Kết hợp chặt chẽ 2 nhiệm vụ chiến lược, xây dựng thành

công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với
sức mạnh thời đại để bảo vệ Tổ quốc; phát huy nội lực đồng thời tranh thủ tối đa và
khai thác mọi thuận lợi từ bên ngoài; nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung
tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội;
kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ phát triển kinh tế, XH với củng cố, tăng cười QP, AN,
đối ngoại.
a. Cơ sở thực tiễn
Nội dung và yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xuất phát từ quan điểm an
ninh quốc gia tổng hợp và toàn diện. Bảo vệ khơng chỉ là phịng ngừa mà trước hết
phải chăm lo xây dựng, làm cho mình mạnh lên. Kết hợp chặt chẽ xây dựng và bảo vệ
từ trong mỗi con người, mỗi cơ sở; việc gì có lợi cho dân, cho nước, có lợi cho độc lập
dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải quyết tâm làm. Mọi hoạt động chính
trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối nội, đối ngoại... đều phải nắm
vững và thực hiện đúng yêu cầu bảo đảm an ninh trong từng lĩnh vực, từng địa phương
thuộc phạm vi mình phụ trách, đồng thời phải đáp ứng yêu cầu an ninh chung theo
quan điểm kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược; gắn phát triển kinh tế - xã hội với
quốc phòng, an ninh, đối ngoại; lấy việc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, thực
hiện thành cơng sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước làm nền tảng giữ
vững ổn định chính trị, củng cố an ninh, quốc phòng làm điều kiện để giữ vững ổn
định chính trị, củng cố an ninh, quốc phòng làm điều kiện để giữ vững ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội.
Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng
biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo
vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới, lợi ích quốc gia, dân tộc. Bảo vệ an
ninh quốc gia khơng chỉ an ninh chính trị mà cịn là an ninh kinh tế, an ninh văn hóa,
an ninh tư tưởng, an ninh xã hội.
b. Nhiệm vụ
Trong thời kỳ mới, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc khơng chỉ
đối phó hành động vũ trang xâm lược từ bên ngồi mà cịn đặc biệt coi trọng việc xây
dựng và giữ vững bên trong, đối phó những thủ đoạn phi vũ trang của kẻ địch. Sức

mạnh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là riêng sức mạnh của lực lượng vũ trang mà là sức
mạnh tổng hợp của quốc gia và chế độ, lấy sức mạnh chính trị, tinh thần, kinh tế, khoa
học công nghệ của đất nước làm cơ sở để kết hợp và phát huy sức mạnh thời đại vào
sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.

8


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

+ Xây dựng, tăng cường quốc phòng là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên.
Song, phải đặt nhiệm vụ này trong mối quan hệ biện chứng với nhiệm vụ trung tâm là,
phát triển kinh tế và nhiệm vụ then chốt là xây dựng Ðảng. Do vậy, tăng cường sức
mạnh quốc phịng cũng có nghĩa là tập trung phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng thế
trận lòng dân, kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế - quốc phòng - an ninh trong từng chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, làm giàu về tiềm năng, mạnh về thực lực và lực lượng,
vững chắc về thế trận. Ðặc biệt ở những nơi xung yếu về quốc phòng, an ninh như
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo phải có cơ chế, chính sách phù hợp, tạo bước đột
phá trong xây dựng tiềm năng và thực lực, lực lượng và thế trận, cân đối, đồng bộ và
bền vững.
Trong xu thế tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cùng với sự phát triển của khoa
học và công nghệ hiện nay, tất yếu phải tăng cường đối ngoại về quốc phòng, nhằm
tuyên truyền về quốc phòng của ta, tạo niềm tin cho bạn bè, đập tan âm mưu tuyên
truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch, thêm bạn, bớt thù, đồng thời trao đổi những
kinh nghiệm xây dựng quốc phòng; đấu tranh ngăn chặn và giải quyết nguy cơ đe dọa
an ninh phi truyền thống; hợp tác phát triển khoa học kỹ thuật cơng nghệ quốc phịng,
qn y, phịng chống thảm họa; kiên trì đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, độc

lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Gắn chặt hợp tác quốc phịng với
hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học cơng nghệ, tạo động lực thúc đẩy nâng cao hiệu quả
hợp tác toàn diện của đất nước.
4. Quan điểm thứ tư: Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị, tinh thần,
kinh tế, XH, VH, QPAN, đối ngoại; phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống
nhất của NN, LLVT làm nòng cốt; tăng cường tiềm lực QPAN, xây dựng thế trận Quốc
phịng tồn dân, thế trận An ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mới.
a. Cơ sở thực tiễn
Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của đất nước, nhất là vai trò của nhân
dân đối với sự nghiệp BVTQ. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để
chống lại kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta đã phát huy sức
mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Kế thừa truyền thống đó, Nghị quyết Trung ương 8
(khóa XI) tiếp tục khẳng định sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao
gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và của các lực lượng; kết
hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh của
nhân dân mới là điều căn bản nhất. Dưới thời nhà Hồ, khi trả lời nhà vua về kế sách
chống giặc giữ nước, Hồ Ngun Trừng đã nói: “Thần khơng sợ giặc mạnh, chỉ sợ
lịng dân khơng theo” và chính vì khơng được lịng dân nên mặc dù có thành cao, hào
sâu, nhà Hồ đã không ngăn được quân xâm lược và bị mất nước.
Ngày nay, sức mạnh của nhân dân vẫn là yếu tố quyết định, nhưng sức mạnh đó
huy động được đến đâu cho sự nghiệp BVTQ còn tùy thuộc vào lòng tin và sự đồng
thuận của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Vì vậy, để phát huy sức
mạnh tổng hợp của đất nước, vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ đòi hỏi
cấp ủy, chính quyền các cấp phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của
nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong nhân dân và điều cốt yếu là phải
đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho nhân dân. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI)
nhấn mạnh: phải “thường xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý
9



Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

đúng đắn, kịp thời mọi tình huống gây mất ổn định chính trị - xã hội”; “củng cố sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng, lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, dân chủ, kỷ
cương, đồng thuận”.
b. Nhiệm vụ
Đoàn kết các dân tộc là nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần xây dựng và củng
cố khối đại đồn kết tồn dân trong cơng cuộc bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc và công cuộc xây dựng đất nước nhằm mục tiêu: “Dân giầu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Bởi vì một mặt, cơng cuộc đổi mới đã
làm thay đổi bộ mặt của đất nước ta, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế
và làm cho đời sống các dân tộc được cải thiện rõ rệt. Tuy thế, do điều kiện lịch sử và
sự tác động do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra cũng làm cho sự chênh lệch về
mức sống và trình độ phát triển giữa các dân tộc về một số mặt có chiều hướng tăng
lên, làm nẩy sinh những vấn đề bức xúc trong mối quan hệ giữa các dân tộc đòi hỏi
phải được giải quyết. Mặt khác, các phần tử xấu ở trong nước truyền bá; đưa ra chiêu
bài thành lập “Nhà nước Đềga tự trị” để lừa gạt đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên. Thực tế đó đã cho bài học q: chỉ có khơng ngừng củng cố đồn kết các dân
tộc mới “hóa giải” được những mâu thuẫn nẩy sinh trong quá trình phát triển đồng thời
làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù để bảo vệ những thành quả đã giành
được và khơng ngừng đi lên phía trước. Tích cực chủ động tham gia giáo dục tuyên
truyền vận động nhân dân chấp hành đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, không ngừng củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt với nhân dân. Phát
huy vai trò của quân đội nhân dân trong tham gia xây dựng cơ sở địa phương về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là ở các địa phương trên các địa bàn chiến lược, vùng
biên giới, hải đảo.

Xây dựng lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến
đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nịng cốt cho tồn dân
trong sự nghiệp BVTQ. Chúng ta đều biết, sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp,
trong đó có sức mạnh quân sự, nhưng cần nhận thức đúng vai trò của sức mạnh quân
sự trong các giai đoạn của cách mạng để không quá đề cao hoặc coi nhẹ sức mạnh này.
Xét cho cùng, trong chiến tranh, sức mạnh của đất nước cũng phải thông qua sức mạnh
quân sự để trực tiếp giành thắng lợi trên chiến trường; cịn trong thời bình thì sức
mạnh qn sự chính là khả năng răn đe hiệu quả trong các tình huống quốc phịng, an
ninh, BVTQ. Vì vậy, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh việc tăng cường
sức mạnh quân sự bảo đảm vừa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, vừa đủ
sức BVTQ trong mọi tình huống. Để xây dựng sức mạnh quân sự phải coi trọng nhiều
yếu tố; trong đó, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mà trực tiếp là Quân đội nhân
dân vững mạnh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc xây dựng, nâng cao chất lượng
tổng hợp của Quân đội, trước hết là nâng cao chất lượng về chính trị, bảo đảm cho lực
lượng này thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của
Đảng, Nhà nước và nhân dân. Xây dựng Quân đội có tổ chức hợp lý, tinh, gọn, cơ
động, có sức mạnh chiến đấu cao, có vũ khí, trang bị hiện đại, nhất là một số vũ khí
chiến lược; nâng cao khả năng phịng thủ tác chiến tầm cao, tầm xa, khả năng kiểm
soát vùng trời, vùng biển, đảo xa bờ, tác chiến ban đêm, sẵn sàng đánh thắng trong các
tình huống xung đột và chiến tranh. Cùng với đó, chú trọng xây dựng lực lượng dân
quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có chất lượng
10


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

cao; đồng thời, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của lực lượng Công
an nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới

5. Quan điểm thứ năm:Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động, tích cực hội nhập Quốc tế; kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa; thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, gia tăng hợp tác.Chủ
động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến
những đột biến bất lợi.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của bạn
bè quốc tế. Đây là quan điểm mang tính truyền thống của dân tộc ta. Phát huy truyền
thống này, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phát triển từ nhận thức cứng về bạn,
thù trước đây đến việc xác định đối tác, đối tượng hiện nay và nhấn mạnh, cần có cách
nhìn biện chứng trong sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau giữa đối tác và đối
tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải
đấu tranh; trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt đồng thuận cần tranh thủ hợp tác.
Nhận thức biện chứng trong xác định đối tác, đối tượng đó đã mở ra điều kiện thuận
lợi cho quan hệ hợp tác quốc tế, bảo đảm tranh thủ ngày càng tốt hơn sự ủng hộ của
cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Để thực hiện
“trong ấm, ngoài êm”, thêm bạn bớt thù, cùng với xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, chúng ta cần “quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế. Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa;
thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác tạo thế đan xen lợi
ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược,
các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô
lập, lệ thuộc”.
Với đường lối đối ngoại hịa bình, độc lập, tự chủ, rộng mở, cùng có lợi, khơng
can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, lần đầu tiên Việt Nam đã có quan hệ rộng rãi
với tất cả các nước lớn, các chủ thể quan trọng nhất trong cộng đồng quốc tế. Việt
Nam đã có quan hệ ngoại giao với 172 nước, là thành viên của các tổ chức quốc tế, là
đối tác thương mại, tham gia đầy đủ và tích cực vào tất cả các diễn đàn của quốc tế và
khu vực; thu hút đầu tư và có quan hệ với hơn 600 tổ chức phi chính phủ tham gia
trong sự nghiệp phát triển bền vững của Việt Nam. Việt Nam từ một nước thuộc địa –
phong kiến trở thành một quốc gia thống nhất, độc lập, phát triển theo con đường xã

hội chủ nghĩa.
Thực lực của đất nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh ví von một cách hình ảnh như
“cái chiêng” đã khơng ngừng lớn mạnh, đó là cơ sở để “cái tiếng” của nó vang xa, đưa
Việt Nam có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và
trên thế giới. Việt Nam trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc và được tín nhiệm hai lần là chủ tịch trong một nhiệm kỳ. Với tư tưởng
là bạn của các nước, khơng gây thù ốn với ai, với tư tưởng hịa bình, độc lập, tự chủ,
rộng mở, trong những tranh chấp quốc tế Đảng ta luôn chủ trương giải quyết thông qua
con đường thương lượng song phương và đa phương trên cơ sở luật pháp quốc tế và
nguyên tắc luật lệ của Liên hợp quốc. Giải quyết các vấn đề trong quan hệ quốc tế phải
trở lại quan điểm của Hồ Chí Minh theo hướng biến những vấn đề đại sự thành trung
sự, tiểu sự đến vô sự, mà không làm ngược lại. Quan hệ với các nước trong đường lối
đối ngoại của Việt Nam cần tránh “nhất biên đảo”. Lúc này hơn lúc nào hết, chính sách

11


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

đối ngoại Việt Nam phải thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại mà Đảng, Nhà nước
ta đã đề ra.
III. Liên hệ thực tế: TPHCM là một TP lớn Theo đó, kẻ địch và những phần tử
phản động, tăng cường thâm nhập bằng nhiều con đường khác nhau để chống phá.
Chúng lợi dụng những sơ hở, khiếm khuyết, sai sót của chính quyền địa phương các
cấp để lôi kéo, ủng hộ, tổ chức cho nhân dân khiếu kiện...Thực tiễn đó, địi hỏi phải
tăng cường cơng tác quản lý, giáo dục quốc phịng an ninh các cấp, nêu cao tình thần
cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù và lực lượng phản động. Phối hợp
với các sở, ban, ngành và toàn dân xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc, nắm

bắt và làm thất bại những âm mưu, hoạt động của kẻ địch. Đồng thời, phải tiếp tục đổi
mới và phát triển kinh tế, xây dựng đời sống chính trị, tư tưởng, văn hoá, văn nghệ...
cho nhân dân.
IV. Kết luận: Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa luôn gắn với nhiệm vụ phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng, an ninh vững
chắc. Trong đó, phát triển kinh tế tạo ra những điều kiện vững chắc để tăng cường
quốc phòng an ninh; tăng cường quốc phịng, giữ vững an ninh và tồn vẹn lãnh thổ
tạo mơi trường hồ bình, ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đất nước đang trên đà hội nhập và phát triển, những vận hội mới mở ra những
cũng khơng ít những khó khăn thách thức phải đối mặt. Trong đó, nguy cơ chống phá
của chủ nghĩa đề quốc đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, đối với sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của Nhà nước trở thành một trong những nguy cơ lớn. Diễn biến hồ bình,
bạo loạn lật đổ là những âm mưu, thủ đoạn được kẻ thù sử dụng như một phương pháp
hữu hiệu nhất.
Trước những âm mưu đó, Đảng ta khẳng định nhiệm vụ tăng cường quốc
phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên của Đảng, Nhà nước và của tồn dân, trong đó Qn đội nhân dân và Cơng an
nhân dân là lực lượng nịng cốt. Thực hiện thắng lợi đó góp phần to lớn cho sự thành
công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.Cần chủ động
định hướng phát triển tiềm lực và sức mạnh quốc phịng tồn dân, đáp ứng những yêu
cầu mới của nhiệm vụ quốc phòng bảo vệ Tổ quốc. Trước hết, mục tiêu chiến lược của
phát triển tiềm lực và sức mạnh quốc phịng tồn dân nhằm xây dựng nền quốc phòng
Việt Nam XHCN vững mạnh, đấu tranh làm thất bại chiến lược DBHB và “cách mạng
màu” của các thế lực thù địch, ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ xung đột vũ trang và
chiến tranh, bảo đảm cho đất nước luôn chủ động về chiến lược trong mọi tình huống.
Câu 3: Phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng về kết hợp phát triển kinh
tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh
I. Khái niệm:
Hoạt động kinh tế là hoạt động cơ bản, thường xuyên, gắn liền với sự tồn tại
của xã hội loài người. Đó là tồn bộ q trình hoạt động sản xuất và tái sản xuất ra của

cải vật chất cho xã hội, phục vụ cho nhu cầu đời sống con người.
Quốc phịng là cơng việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các hoạt
động đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực : kinh tế, chính trị, qn sự, văn hố,
xã hội... nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo
môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước.
12


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

An ninh, trạng thái ổn định an tồn, khơng có dấu hiệu nguy hiểm để đe doạ sự
tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của tổ chức, của từng lĩnh vực hoạt động
xã hội hoặc của toàn xã hội. Việt Nam, bảo vệ an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường
xuyên của tồn dân và của cả hệ thống chính trị do lực lượng an ninh làm nòng cốt ;
bảo vệ an ninh luôn kết hợp chặt chẽ với củng cố quốc phòng.
Kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh ở nước ta là: hoạt động tích cực, chủ động của Nhà nước và nhân dân trong việc
gắn kết chặt chẽ hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh trong một chỉnh thể
thống nhất trên phạm vi cả nước cũng như ở từng địa phương, thúc đẩy nhau cùng
phát triển, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp của quốc gia, thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
1. Cơ sở lí luận của sự kết hợp
Kinh tế, quốc phòng, an ninh là những mặt hoạt động cơ bản của mỗi quốc gia,
dân tộc độc lập có chủ quyền. Mỗi lĩnh vực có mục đích, cách thức hoạt động riêng và
chịu sự chi phối của hệ thống quy luật riêng, song giữa chúng lại có mối quan hệ, tác
động qua lại lẫn nhau. Trong đó, kinh tế là yếu tố suy cho đến cùng quyết định đến
quốc phòng - an ninh ; ngược lại, quốc phòng - an ninh cũng có tác động tích cực trở

lại với kinh tế, bảo vệ và tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
Kinh tế quyết định đến nguồn gốc ra đời, sức mạnh của quốc phịng, an ninh.
Lợi ích kinh tế, suy cho đến cùng là nguyên nhân làm nảy sinh các mâu thuẫn và xung
đột xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn đó, phải có hoạt động quốc phịng, an ninh.
Bản chất của chế độ kinh tế - xã hội quyết định đến bản chất của quốc phòng-an
ninh: Xây dựng sức mạnh quốc phịng, an ninh vì mục đích bảo vệ và đem lại lợi ích
cho mọi thành viên trong xã hội là do bản chất của chế độ xã hội, xã hội chủ nghĩa quy
định; còn tăng cường sức mạnh quốc phịng, an ninh vì mục đích bảo vệ lợi ích cho
giai cấp tư sản cầm quyền, thực hiện chiến tranh xâm lược là do bản chất của chế độ
kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa quyết định.
Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp nhân lực, vật lực cho hoạt động quốc
phòng - an ninh. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Khơng có gì phụ thuộc vào kinh tế tiên
quyết hơn là chính quân đội và hạm đội”; “Thắng lợi hay thất bại của chiến tranh đều
phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,...”. Vì vậy, để xây dựng quốc phòng, an ninh vững
mạnh phải xây dựng, phát triển kinh tế.
Kinh tế còn quyết định đến việc cung cấp số lượng, chất lượng nguồn nhân lực,
vật lực cho quốc phịng, an ninh, qua đó quyết định đến tổ chức biên chế của lực lượng
vũ trang; quyết định đến đường lối chiến lược quốc phòng - an ninh. Để xây dựng
chiến lược quốc phòng, an ninh quốc gia của mỗi nước, phải căn cứ vào nhiều yếu tố,
trong đó tổ chức biên chế của lực lượng vũ trang và vào trang bị binh khí kĩ thuật hiện
có là căn cứ đặc biệt quan trọng. Những yếu tố này đều phụ thuộc vào nền kinh tế.
Quốc phòng - an ninh khơng chỉ phụ thuộc vào kinh tế mà cịn tác động trở lại
với kinh tế – xã hội trên cả góc độ tích cực và tiêu cực. Quốc phịng - an ninh vững
mạnh sẽ tạo mơi trường hồ bình, ổn định lâu dài, tạo điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế – xã hội. Quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phịng - an ninh trong thời
bình, ở mức độ nhất định cũng có tác dụng kích thích kinh tế phát triển. Tiêu dùng cho
13


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)


Đề cương chi tiết thảo luận

hoạt động quốc phòng, an ninh, một mặt, đặt ra cho nền kinh tế phải sản xuất ra sản
phẩm, hoặc thông qua mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của nó; mặt khác, sẽ tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm của nền kinh tế.
Hoạt động quốc phòng, an ninh tiêu tốn đáng kể một phần nguồn nhân lực, vật
lực, tài chính của xã hội. Những tiêu dùng này, như V.I. Lênin đánh giá, là tiêu dùng
“mất đi”, không quay vào tái sản xuất xã hội. Do đó, sẽ ảnh hưởng đến tiêu dùng của
xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động quốc phòng - an ninh
còn ảnh hưởng đến đường lối phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế. Hoạt động quốc phịng
- an ninh cịn có thể dẫn đến huỷ hoại môi trường sinh thái, để lại hậu quả nặng nề cho
kinh tế, nhất là khi chiến tranh xảy ra. Để hạn chế những tác động tiêu cực này, phải
kết hợp tốt tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế – xã hội
vào một chỉnh thể thống nhất.
Kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an
ninh là một tất yếu khách quan. Mỗi lĩnh vực hoạt động đều có nội dung, phương thức
riêng nhưng lại có sự thống nhất ở mục đích chung, cái này là điều kiện tồn tại của cái
kia và ngược lại. Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ mỗi lĩnh vực có quy luật phát triển
đặc thù, do đó, việc kết hợp phải được thực hiện một cách khoa học, hợp lí, cân đối và
hài hồ.
2. Cơ sở thực tiễn của sự kết hợp
Nhìn vào tiến trình phát triển của các quốc gia trên thế giới chúng ta thấy, dù là
nước lớn hay nước nhỏ; kinh tế phát triển hay chưa phát triển; dù chế độ chính trị như
thế nào thì mỗi quốc gia cũng đều chăm lo thực hiện kết hợp phát triển kinh tế với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh, kể cả những nước mà hàng trăm năm nay chưa hề
xẩy ra chiến tranh.
Tuy nhiên, các nước khác nhau, với chế độ chính trị - xã hội khác nhau, điều
kiện hồn cảnh khác nhau thì sự kết hợp đó cũng có sự khác nhau về mục đích, nội
dung, phương thức và kết quả. Ngay trong một nước, trong mỗi giai đoạn phát triển thì

sự kết hợp cũng khác nhau.
Ở Việt Nam, sự kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường củng cố quốc
phòng, an ninh đã được thực hiện từ lâu trong lịch sử. Dựng nước đi đôi với giữ nước
đã trở thành quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc ta.
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng, do nắm vững
quy luật và biết kế thừa kinh nghiệm của lịch sử nên đã thực hiện sự kết hợp phát triển
kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng - an ninh một cách nhất quán bằng
những chủ trương sáng tạo, phù hợp với từng thời kì của cách mạng.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) Đảng ta
đề ra chủ trương “Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, “Vừa chiến đấu, vừa tăng gia sản
xuất, thực hành tiết kiệm”; vừa thực hiện phát triển kinh tế ở địa phương vừa tiến hành
chiến tranh nhân dân rộng khắp; “Xây dựng làng kháng chiến”, địch đến thì đánh, địch
lui ta lại tăng gia sản xuất.
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975), kết hợp phát triển
kinh tế với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh đã được Đảng ta chỉ đạo thực hiện
ở mỗi miền với nội dung và hình thức thích hợp.

14


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

Thời kì cả nước độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội (từ 1975 đến
nay) kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh
được Đảng ta khẳng định là một nội dung quan trọng trong đường lối xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và được triển khai trên quy mơ rộng lớn, tồn
diện hơn. Từ năm 1986 đến nay, với tư duy mới về kinh tế và quốc phòng, an ninh,
việc kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh trên

phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, bộ, ban ngành có bước chuyển biến cả
trong nhận thức và tổ chức thực hiện, đã thu được nhiều kết quả quan trọng.
Nhờ chính sách nhất quán về thực hiện kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng
cường củng cố quốc phòng, an ninh chúng ta đã phát huy được mọi tiềm năng cho xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời bình, cùng với phát triển kinh tế là chăm lo củng
cố tiềm lực quốc phòng, thế trận quốc phòng. Nhờ vậy, khi đất nước bị xâm lược
chúng ta đã động viên được “cả nước đồng lịng, tồn dân đánh giặc”; kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo thành sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ
thù. Do vậy đã góp phần giữ gìn và phát triển đất nước cho đến ngày nay.
II. Quan điểm chỉ đạo kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường
quốc phòng an ninh:
1. Quan điểm 1:
Hiện nay, nước ta đã phân chia thành các vùng kinh tế lớn và các vùng chiến
lược, các quân khu. Mỗi vùng đều có vị trí chiến lược về phát triển kinh tế và chiến
lược phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Các vùng chiến lược khác nhau có sự khác nhau về
đặc điểm và yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, quốc phòng, an ninh, nên nội dung
kết hợp cụ thể trong mỗi vùng có thể có sự khác nhau. Song việc kết hợp đó phải được
thể hiện những nội dung chủ yếu sau:
+ Một là, kết hợp trong xây dựng chiến lược, qui hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội với quốc phòng – an ninh của vùng, cũng như trên địa bàn từng tỉnh, thành
phố.
+ Hai là, kết hợp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu
kinh tế địa phương với xây dựng các khu phòng thủ then chốt, các cụm chiến đấu liên
hoàn, các xã (phường) chiến đấu trên địa bàn của các tỉnh (thành phố), quận(huyện)
+ Ba là, kết hợp trong q trình phân cơng lạilao động của vùng, phân bố lại
dân cư với tổ chức xây dựng và điều chỉnh, sắp xếp, bố trí lại lực lượng quốc phòng,
an ninh trên từng địa bàn, lãnh thổ cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội và kế hoạch phòng thủ bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm ở đâu có đất, có biển, đảo là ở đó
có dân và có lực lượng quốc phịng, an ninh để bảo vệ cơ sở, bảo vệ Tổ quốc.
+ Bốn là, kết hợp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với xây dựng các cơng

trình quốc phịng, quân sự, phòng thủ dân sự, thiết bị chiến trường… Bảo đảm tính
“lưỡng dụng” trong mỗi cơng trình được xây dựng.
+ Năm là, kết hợp xây dựng các cơ sở, kinh tế vững mạnh toàn diện, rộng khắp
với xây dựng các căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần, kĩ thuật và hậu phương vững chắc
cho mỗi vùng và ở các địa phương để sẵn sang đối phó khi có chiến tranh xâm lược.
2. Quan điểm 2:

15


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

- Hiện nay Đảng ta xác định phải chú trọng nhiều hơn cho các vùng kinh tế
trọng điểm, vùng biển đảo và vùng biên giới.
- Nội dung kết hợp cần tập trung vào các vấn đề sau:
+ Một là, trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng các thành phố, các khu công
nghiệp cần lựa chọn qui mơ trung bình, bố trí phân tán, trải đều trên diện rộng, không
nên xây dựng tập trung thành những siêu đô thị lớn, để thuận lợi cho quản lí, giữ gìn
an ninh chính trị trong thời bình và hạn chế hậu quả tiến công hoả lực của địch khi có
chiến tranh.
+ Hai là, phải kết hợp chặt chẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với kết
cấu hạ tầng của nền quốc phịng tồn dân. Gắn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế với
các công trình phịng thủ, các thiết bị chiến trường, các cơng trình phịng thủ dân sự…
+ Ba là, trong q trình xây dựng các khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh
tế phải có sự gắn kết với qui hoạch xây dựng lực lượng quốc phòng – an ninh, các tổ
chức chính trị, đồn thể ngay trong các tổ chức kinh tế đó. Lựa chọn đối tác đầu tư, bố
trí xen kẽ, tạo thế đan cài lợi ích giữa các nhà đầu tư nước ngồi trong các khu cơng
nghiệp, đặc khu kinh tế, khu chế xuất.

+ Bốn là, việc xây dựng, phát triển kinh tế ở các vùng kinh tế trọng điểm phải
nhằm đáp ứng phục vụ nhu cầu dân sinh thời bình và cả cho việc chuẩn bị đáp ứng nhu
cầu chi viện cho các chiến trường khi chiến tranh xảy ra. Kết hợp phát triển kinh tế tại
chỗ với xây dựng căn cứ hậu phương của từng vùng kinh tế trọng điểm để sẵn sàng
chủ động di dời, sơ tán đến nơi an tồn khi có tình huống chiến tranh xâm lược.
3. Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng,
an ninh trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu.
a) Một là, kết hợp trong công nghiệp
+ Kết hợp ngay từ khâu quy hoạch bố trí các đơn vị kinh tế của nghành công
nghiệp.
+ Tập trung đầu tư một số nghành cơng nghiệp liên quan đến quốc phịng như:
Cơ khí chế tạo, vừa đáp ứng nhu cầu trang bị cơ giới cho nền kinh tế, vừa có thể sản
xuất ra một số sản phẩm kĩ thuật công nghiệp cao phục vụ QP- AN.
+ Phát triển công nghiệp quốc gi theo hướng mỗi nhà máy, xí nghiệp vừa có thể sản
xuất hàng dân dụng, vừa có thể sản xuất hàng quân sự.
+ Thực hiện chuyển giao công nghệ hai chiều, từ công nghiệp quốc phịng vào
cơng nghiệp dân dụng và ngược lại.
+ Phát triển hệ thống phịng khơng cơng nghiệp và phát triển lực lượng tự
vệ để bảo vệ các nhà máy, xí nghiệp trong cả thời bình và thời chiến
+ Xây dựng kế hoạch động viên công nghiệp quốc gia phục vụ thời chiến; thực
hiện dự trữ chiến lược các nguyên, nhiên, vật liệu quý hiếm cho sản xuất quân sự.
b) Hai là, kết hợp trong nông, lâm, ngư nghiệp
+ Kết hợp phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đất, rừng, biển đảo và lực
lượng lao động để phát triển đa dạng các ngành trong nông, lâm, ngư nghiệp theo
hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thôn.
16


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)


Đề cương chi tiết thảo luận

+ Kết hợp trong nơng, lâm, ngư nghiệp phải gắn vói việc giải quyết tốt các vấn
đề xã hội như xố đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khoẻ, đền ơn đáp
nghĩa, nần cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, xây dựng nông thôn mới văn
minh, hiện đại. Bảo đảm an ninh lương thực và an ninh nông thơn, góp phần tạo thế
trận phịng thủ “thế trận lịng dân” vững chắc.
3.Quan điểm 3:
Ngày nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và xu thế tồn
cầu hóa kinh tế; những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới; sự xuất hiện loại hình
chiến tranh mới, chiến tranh sử dụng vũ khí cơng nghệ cao; sự chống phá cách mạng
Việt Nam của các thế lực thù địch bằng chiến lược "diễn biến hịa bình" kết hợp với
bạo loạn lật đổ đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
của nhân dân ta.
Trong điều kiện đó, "tính linh hoạt" của nền quốc phịng tồn dân trở nên rất
cao, nhiệm vụ quốc phịng đượcmở rộng. Nền quốc phịng tồn dân nước ta vừa phải
có khả năng ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại của các thế lực
thù địch, vừa phải giữ vững môi trường hịa bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để
phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời phải có đủ sức mạnh ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy
cơ chiến tranh, đáp ứng mọi yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Xây dựng nền quốc phịng tồn dân là xây dựng cả lực lượng và thế trận; xây dựng
tiềm lực mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực chính trị - tinh thần; phát huy sức mạnh tổng hợp
về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phịng, an ninh, đối ngoại, sức
mạnh của khối đại đồn kết tồn dân tộc, của cả hệ thống chính trị cho sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc, trong đó xây dựng thế trận có tầm quan trọng đặc biệt. Thế trận quốc
phịng tồn dân trong tình hình mới phải đáp ứng u cầu: Khi chưa xảy ra chiến tranh
thì tồn dân hăng hái lao động sản xuất, mọi công dân đều có trách nhiệm xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; khi chiến tranh xảy ra thì thực hiện chiến tranh nhân dân "cả nước
một lịng, tồn dân đánh giặc", tạo ra những "tấm lưới sắt", "bức thành đồng", "thiên la
địa võng" bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đó là sức mạnh vô địch của nhân dân ta trong sự

nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
4. Quan điểm 4:
- Kết hợp phát triển kinh tế xã hội với tăng cường củng cố QP- AN là một tất
yếu khách quan, một nội dung quan trọng trong đường lối phát triển đất nước của
Đảng ta, nhằm thực hiệ thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Việc kết hợp được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế và có
sự phối hợp của các nghành, các cấp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lí của nhà
nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp cho việc phát triển kinh tế- xã hội, củng cố QP- AN.
Câu 4. Phân tích tư tưởng chỉ đạo của Chính phủ trong Chương trình quốc
gia phịng, chống tội phạm
1. Khái niệm phòng chống tội phạm
Phòng ngừa tội phạm là việc các cơ quan của Nhà nước, các tổ chức xã hội và
công dân bằng nhiều biện pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân, điều kiện của

17


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế và làm giảm từng bước, tiến tới loại trừ
tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
- Phịng ngừa tội phạm là phương hướng chính là tư tưởng chỉ đạo trong cơng
tác đấu tranh phịng chống tội phạm, phịng ngừa khơng để tội phạm xảy ra; thể hiện
bản chất nhân đạo của chế độ xã hội mới, không để người dân bị xử lý trước pháp luật,
khơng bị tước quyền cơng dân
- Phịng ngừa mang ý nghĩa chính trị xã hội sâu sắc, làm tốt cơng tác phòng
ngừa giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội,

tính mạng, sức khoẻ, danh dự, phẩm giá của mọi người dân.
- Làm tốt cơng tác phịng ngừa tội phạm mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, tiết kiện
ngân sách Nhà nước, sức lao động của các nhân viên Nhà nước, của công dân trong
các hoạt động điều tra tuy tố xét xử và giáo dục cải tạo người phạm tội, cũng như trong
việc giải quyết các vấn đề có liên quan đến tội phạm.
Phịng chống tội phạm được tiến hành theo hai hướng cơ bản sau:
+ Hướng thứ nhất: Phát hiện, khắc phục, hạn chế và đi đến thủ tiêu các hiện
tượng xã hội tiêu cực là những nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội và
phạm tội cụ thể. Đây là hướng mang tính cơ bản, chiến lược và lâu dài.
+ Hướng thứ hai: Hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả, tác hại khi tội phạm xảy
ra. Đây cũng là một hướng quan trọng không thể xem nhẹ, bởi trong thực tế những
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội phạm vẫn tồn tại, hoạt động phòng
ngừa tội phạm còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết nên tội phạm vẫn xảy ra. Hướng này đòi
hỏi các cơ quan chức năng phối hợp kịp thời phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm,
cải tạo người phạm tội trở thành người công dân lương thiện.
- Phịng chống tội phạm mang tính đồng bộ, hệ thống và có sự phối kết hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và các cơng dân.
Mục đích của cơng tác phịng ngừa tội phạm là khắc phục, thủ tiêu các nguyên
nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm từng bước
tiến tới loại trừ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội
2. Thực trạng tội phạm ở Việt Nam
Trong những năm qua, các ngành, các cấp do các lực lượng chuyên trách làm
nòng cốt đã triển khai đồng bộ, toàn diện nhiều nội dung, biện pháp đấu tranh phòng,
chống tội phạm, thu được nhiều kết quả quan trọng. Cuộc đấu tranh đã nhận được sự
quan tâm chỉ đạo, điều hành của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, huy động được
nhiều nguồn lực xã hội, động viên được sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân
dân. Cơng tác phịng ngừa xã hội mà nịng cốt là phong trào “Tồn dân tham gia phịng
ngừa, phát hiện, tố giác tội phạm và quản lý, giáo dục, giúp đỡ người phạm tội trong
gia đình, ở địa bàn dân cư” được triển khai sâu rộng, gắn với Cuộc vận động Tồn dân
đồn kết xây dựng đời sống văn hóa và nhiệm vụ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống

nhân dân đã mang lại hiệu quả rõ nét, góp phần củng cố nền tảng ngăn ngừa tội phạm
ngay từ cơ sở.
Các lực lượng chuyên trách tập trung lực lượng, phương tiện, biện pháp mở
nhiều đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm trên các tuyến, địa bàn trọng điểm. Hàng
chục nghìn băng nhóm tội phạm hình sự nguy hiểm, đường dây mua bán vận chuyển
18


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

ma túy đã được triệt phá, bóc gỡ; nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng lớn được phát hiện,
điều tra, xử lý; hoạt động của tội phạm có tổ chức và băng nhóm tội phạm hình sự
mang tính chất “xã hội đen” đã được ngăn chặn; tình hình tội phạm ở các thành phố
lớn, trên các tuyến, địa bàn trọng điểm cơ bản được kiềm chế.
Đạt được những kết quả trên là do đã huy động được sức mạnh của cả hệ thống
chính trị, sức mạnh tổng hợp của xã hội và sự cố gắng, nỗ lực của các lực lượng
chuyên trách.
Mặc dù vậy, tình hình tội phạm ở nước ta vẫn diễn biến rất phức tạp. Nhiều loại
tội phạm nghiêm trọng chưa được kiềm chế. Tội phạm có tổ chức, băng nhóm tội
phạm mang tính chất “xã hội đen”, tội phạm bn lậu, gian lận thương mại, tội phạm
về ma túy hoạt động công khai, lộng hành ở nhiều thành phố lớn, trên các tuyến biên
giới, trắng trợn xâm phạm quyền, lợi ích của Nhà nước, xã hội và nhân dân. Tham
nhũng và tội phạm tham nhũng vẫn hết sức nhức nhối, trở thành một trong những mối
đe dọa trực tiếp sự tồn vong của chế độ. Tội phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường xảy ra trong nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế
của đất nước, xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi của người dân và sức khỏe cộng đồng.
Tội phạm có tính quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia và tội phạm sử dụng công nghệ cao
đang là một thách thức lớn.

Nguyên nhân của tình hình trên, một phần là do các yếu tố khách quan, như tác
động của những vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh trong cơ chế thị trường và hội nhập
quốc tế; sự xuống cấp về đạo đức xã hội, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, làm
ăn chụp giật,... nhưng chủ yếu vẫn là do những hạn chế, yếu kém trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm, nhất là phòng ngừa xã hội. Cấp ủy đảng, chính quyền,
người đứng đầu cơ quan, tổ chức ở một số ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm
chỉ đạo tồn diện cơng tác phịng, chống tội phạm, vì vậy, nhiệm vụ phịng, chống tội
phạm chưa được đưa vào chương trình, kế hoạch phát triển theo yêu cầu của Đảng và
Nhà nước. Nhiều cấp, nhiều ngành còn đứng ngồi cuộc hoặc chỉ tham gia một cách
hình thức, chiếu lệ, đối phó. Tổ chức bộ máy, phân cơng, phân cấp ở các cơ quan bảo
vệ pháp luật và chuyên trách còn bất cập, dẫn đến chồng chéo, trùng lặp. Năng lực
tham mưu, quản lý và tổ chức thực hiện cũng như tinh thần trách nhiệm, thái độ phục
vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên quyết tấn công tội phạm của một bộ phận cán bộ
cơ quan bảo vệ pháp luật, chiến sĩ lực lượng chuyên trách còn hạn chế, yếu kém, sa
sút. Điều kiện hậu cần - kỹ thuật bảo đảm cho cơng tác phịng, chống tội phạm cịn
nhiều khó khăn, hạn chế. Chính sách đãi ngộ đối với lực lượng trực tiếp đấu tranh
phòng, chống tội phạm còn chưa phù hợp.
Dự báo trong giai đoạn tới, tình hình tội phạm ở Việt Nam vẫn diễn biến phức
tạp, một số loại tội phạm nghiêm trọng có xu hướng tăng.
Tính chất tội phạm ngày càng nguy hiểm, mang yếu tố quốc tế, có tổ chức,
xuyên quốc gia và sử dụng công nghệ cao. Thủ đoạn hoạt động tinh vi, phương thức
hoạt động xảo quyệt, manh động, liều lĩnh. Tội phạm hình sự có tổ chức, băng nhóm
“xã hội đen” gây án nghiêm trọng, băng nhóm tội phạm ma túy có vũ trang ở khu vực
biên giới, tội phạm tham nhũng và tội phạm kinh tế trong lĩnh vực tài chính - ngân
hàng, đầu tư, quản lý, sử dụng đất đai và thương mại, tội phạm và vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường vẫn hết sức nhức nhối. Xu hướng tội phạm cấu kết với nhau hình
thành các tập đoàn tội phạm lớn hoạt động đa lĩnh vực, liên tỉnh, xuyên quốc gia, nếu
19



Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

không được đấu tranh ngăn chặn, có thể trở thành hiện thực. Tội phạm do suy thối
đạo đức xã hội, đạo đức gia đình có xu hướng gia tăng, trực tiếp đe dọa phá vỡ nền
tảng đạo đức, văn hóa của xã hội.
Mức độ hậu quả gây ra cho xã hội của các loại tội phạm ngày càng lớn, xâm
phạm nghiêm trọng trật tự, kỷ cương pháp luật xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước
và xã hội, tài sản, tính mạng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, làm suy giảm
niềm tin xã hội và cản trở công cuộc phát triển đất nước.
Thành phần phạm tội đa dạng, phức tạp. Tội phạm nghiêm trọng chủ yếu do các
đối tượng chuyên nghiệp gây ra. Tuy nhiên, cũng cần đặc biệt chú ý phòng ngừa, ngăn
chặn, làm giảm những nhân tố đầu vào của tội phạm, những người có nguy cơ mắc vào
các tệ nạn xã hội và sa vào con đường phạm tội, như những người lao động tự do,
thiếu việc làm và thất nghiệp do chịu ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế vừa qua;
thanh niên, thiếu niên, học sinh, sinh viên bỏ học, bỏ nhà tụ tập, lang thang, sống bầy
đàn và một bộ phận cán bộ, đảng viên, cơng chức hư hỏng, thối hóa, biến chất.
Địa bàn hoạt động của tội phạm chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn, các
tuyến trọng điểm, các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội, nhất là ở Thủ đơ Hà
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, các đơ thị loại 1 và các vùng chiến lược về an ninh, trật
tự; trên các tuyến biên giới, quốc lộ trọng điểm, tuyến hàng khơng quốc tế, tuyến bưu
chính - viễn thơng; trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, quản lý, sử dụng đất đai, xuất
- nhập khẩu, thương mại điện tử, tổ chức cán bộ và an sinh xã hội...
3. Quan điểm và mục tiêu phòng, chống tội phạm
a) Về quan điểm
Phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên,
lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về
mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, do các cơ quan
bảo vệ pháp luật và lực lượng chuyên trách làm nòng cốt.

Chiến lược phòng, chống tội phạm là một nội dung quan trọng, bộ phận cấu
thành của Chiến lược phát triển đất nước, phục vụ đắc lực nhiệm vụ xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, xây dựng Nhà nước, các đoàn thể trong sạch, vững mạnh, tạo môi trường xã
hội ổn định, lành mạnh phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng - an ninh, đối ngoại của đất nước.
Sử dụng đồng bộ các biện pháp chính trị, tổ chức - hành chính, kinh tế - xã hội,
pháp luật, nghiệp vụ, vũ trang, ngoại giao để phòng, chống tội phạm. Kết hợp giữa
phòng ngừa và đấu tranh trấn áp, lấy phịng ngừa làm chính. Coi trọng hoạt động
phòng ngừa xã hội, phòng ngừa tội phạm từ gia đình và cơ sở. Huy động sức mạnh của
hệ thống chính trị và sức mạnh tổng hợp của tồn xã hội vào cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
b) Về mục tiêu
Khắc phục một bước căn bản, vững chắc nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh,
tồn tại, phát triển của các loại tội phạm, trước hết là các nguyên nhân, điều kiện do
những sơ hở, thiếu sót trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội; kiềm chế sự gia tăng của
một số loại tội nguy hiểm, từng bước làm giảm tình hình tội phạm, trước hết trên các
tuyến, ở các địa bàn trọng điểm.
20


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về
phòng, chống tội phạm, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng, huy động mọi nguồn lực xã hội vào cơng tác
phịng, chống tội phạm.
Nâng cao một bước căn bản năng lực hoạt động của lực lượng chuyên trách
phòng, chống tội phạm, đủ sức đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

4. Một số nhiệm vụ và giải pháp phòng, chống tội phạm
Một là, huy động sức mạnh của hệ thống chính trị trong phịng, chống tội
phạm. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành
của chính quyền, phát huy vai trị của Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể quần chúng các
cấp trong cơng tác phịng, chống tội phạm. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục
cho cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức, đồn viên, hội viên về ý thức trách
nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tội phạm. Trước
hết là trách nhiệm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, người đứng đầu cơ quan, tổ
chức theo yêu cầu của Bộ Chính trị được nêu trong Chỉ thị số 48/CT-TW, ngày 22-102010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tội phạm
trong tình hình mới.
Các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, đồn thể quần chúng cần xác định phịng,
chống tội phạm là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên và đưa vào chương trình phát
triển để chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Các chỉ tiêu về phòng, chống tội phạm cần được
coi là một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức và
cá nhân trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát, phát hiện và xử lý đối với tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Đảng và
Nhà nước về trách nhiệm phòng, chống tội phạm. Kiện toàn Ban Chỉ đạo 138 các cấp
theo hướng sáp nhập các ban chỉ đạo về lĩnh vực phòng chống tội phạm, phòng chống
ma túy, phòng chống tệ nạn xã hội về một đầu mối và tăng cường cán bộ có phẩm
chất, nhiệt huyết, năng lực, kinh nghiệm vào Ban Chỉ đạo 138 các cấp.
Hai là, chú trọng tăng cường, nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng ngừa xã
hội. Coi trọng phịng ngừa tội phạm từ gia đình, trong gia đình và ở cơ sở. Rà sốt,
đánh giá ảnh hưởng của các chính sách phát triển và quá trình thực hiện các chính sách
phát triển đến tình hình tội phạm và hoạt động phòng, chống tội phạm, đề xuất khắc
phục hạn chế những sơ hở, thiếu sót, bất cập. Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông,
giáo dục, nhất là truyền thông giáo dục về đạo đức, lối sống, chính sách, pháp luật
nhằm chống suy thối đạo đức, lối sống, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tinh
thần cảnh giác và trách nhiệm tham gia phòng, chống tội phạm đối với các tổ chức, cá
nhân và gia đình.
Đẩy mạnh phong trào “Tồn dân tham gia phịng ngừa, phát hiện, tố giác tội

phạm và quản lý, giáo dục người phạm tội trong gia đình, ở địa bàn dân cư” gắn với
Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và “Tồn dân chung
sức xây dựng nông thôn mới”, gắn và phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân. Tiếp cục củng cố, kiện toàn, nâng cao một bước hiệu quả
hoạt động của các lực lượng bán chuyên trách và các tổ chức tự giác của quần chúng ở
cơ sở. Đẩy nhanh q trình “xã hội hóa” cơng tác phòng, chống tội phạm, huy động
thêm nhiều nguồn lực cho cơng tác phịng, chống tội phạm.

21


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

Ba là, từng bước nâng cao năng lực phòng, chống tội phạm của các cơ quan
bảo vệ pháp luật và các lực lượng chuyên trách. Rà soát, đánh giá thực trạng năng lực
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân các cấp và các lực
lượng chuyên trách phòng, chống tội phạm thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân
dân, xây dựng đề án tổng thể khắc phục hạn chế, yếu kém và nâng cao một bước căn
bản năng lực các lực lượng này.
Trong đó, cần tập trung chỉ đạo đổi mới công tác tổ chức, cán bộ theo hướng bố
trí hợp lý mơ hình các cơ quan tư pháp và lực lượng chuyên trách bảo đảm sự chỉ đạo
tập trung, thống nhất, hướng về cơ sở; tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ, đổi
mới cơ chế phối hợp... theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02-6-2005, của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 30c/NQCP, ngày 08-11-2011, của Chính phủ về Chương trình cải cách nền hành chính quốc
gia giai đoạn 2011 - 2020. Ưu tiên đầu tư ngân sách, mua sắm, cung ứng vật tư,
phương tiện một cách hợp lý, từng bước đáp ứng yêu cầu hậu cần - kỹ thuật cho hoạt
động của các cơ quan tư pháp và lực lượng chuyên trách.
Bốn là, tiếp tục hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về phòng, chống tội

phạm. Trước hết, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng
hình sự, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật
Thi hành án hình sự, pháp luật về tổ chức cơ quan điều tra hình sự, pháp luật về các
biện pháp phịng, chống tội phạm và một số đạo luật có liên quan.
Năm là, chủ động, tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại và tăng cường hợp tác
quốc tế về phòng, chống tội phạm. Trước hết, ưu tiên hợp tác với các cơ quan an ninh,
cảnh sát, nội vụ các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng, bạn bè
truyền thống, các tổ chức và hiệp hội cảnh sát, tư pháp hình sự quốc tế để đấu tranh
phịng, chống có hiệu quả tội phạm xun quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngồi, tội
phạm sử dụng cơng nghệ cao. Tranh thủ nguồn lực bên ngồi phục vụ yêu cầu hiện đại
hóa, tăng cường năng lực của các lực lượng chuyên trách, phục vụ lợi ích quốc gia,
dân tộc, giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định cho sự phát triển đất nước
Đánh giá chung:Nhìn chung, theo Chỉ đạo của Chính phủ thì các bộ, ngành,
địa phương cần xác định cơng tác phịng chống tội phạm là nhiệm vụ chính trị, thường
xuyên liên tục; lấy các cơ quan chuyên trách làm nòng cốt; đồng thời, làm rõ trách
nhiệm cá nhân trong công tác này nếu để xảy ra sai phạm và để tội phạm lộng hành;
mỗi địa phương cần có chương trình cụ thể để nâng cao hiệu quả phòng chống tội
phạm; đổi mới và nâng cao cơng tác phịng chống tội phạm của lực lượng chức năng;
rà soát đánh giá thực trạng năng lực của các lực lượng chuyên trách để xây dựng đề án
khắc phục yếu kém của các cơ quan tố tụng; ưu tiên đầu tư mua sắm các thiết bị, vật tư
cho công tác phịng chống tội phạm; các cơ quan nội chính chủ động điều tra, truy tố,
xét xử các vụ án mà dư luận xã hội quan tâm. cả hệ thống chính trị phải vào cuộc để
đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân; do đó, các bộ, ngành, địa phương phải ra
sức thi đua và làm tốt nhiệm vụ được giao.
Câu 5: Phân tích mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc, nhiệm vụ trong
đường lối, chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng
1. Các văn kiện chỉ đạo
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra khi đất nước ta bước vào thập niên
thứ hai của thế kỷ XXI. Đại hội Đảng đã thông qua 3 văn kiện quan trọng: Cương lĩnh
22



Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011); Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 và Báo cáo chính trị của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng.
Ba văn kiện quan trọng này nêu quan điểm, phương hướng cơ bản chỉ đạo cả
lâu dài, trung hạn và ngắn hạn về đường lối đối ngoại, tạo thành một thể thống nhất.
Cương lĩnh nêu những định hướng, nguyên tắc lớn, mang tầm chiến lược cho cả thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược cụ thể hóa đường lối đối ngoại nhằm phục
vụ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020. Phần đối ngoại trong
Báo cáo chính trị đề cập nhiều định hướng cụ thể cho các hoạt động đối ngoại 5 năm
tới. Từ Báo cáo chính trị đến Chiến lược và Cương lĩnh, đường lối đối ngoại của Đảng
được đề cập phù hợp với nhiệm vụ đối ngoại trong từng giai đoạn ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn, nhưng thống nhất về mục tiêu, nguyên tắc, phương châm và những định
hướng lớn, lâu dài. Nội dung của phần đối ngoại trong các văn kiện đó hợp thành
Đường lối đối ngoại Đại hội XI.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chủ trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Báo cáo Chính trị xác định: “Nhiệm vụ của cơng
tác đối ngoại là giữ vững mơi trường hịa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì

hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
2. Những nội dung cơ bản
Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm Đổi mới, đường lối đối ngoại Đại hội
XI có những bổ sung, phát triển phù hợp với tình hình mới, thể hiện ở những nội dung
chính dưới đây:
Thứ nhất, về mục tiêu của đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu: “Vì lợi ích
quốc gia, dân tộc”. Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Đại hội XI cũng đặt mục tiêu
đối ngoại là “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Hai mục tiêu này
thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là cơ sở cơ bản để xây dựng
một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng một nước Việt nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh là phù hợp với lợi ích quốc gia dân tộc và là điều kiện cần để thực hiện các
lợi ích đó.
Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc” được nêu rõ
trong phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng. Nói như
vậy khơng có nghĩa Đảng ta chưa từng xác định mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc
gia, dân tộc. Từ khi Đảng ra đời, lợi ích quốc gia, dân tộc ln ln là mục tiêu phấn
đấu của Đảng ta. Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI đã khẳng định “Lợi ích cao
nhất của Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hịa bình để tập trung sức
xây dựng và phát triển kinh tế”. Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX nhấn mạnh “bảo vệ
lợi ích quốc gia, dân tộc” là một trong những mục tiêu then chốt của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc .
23


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

Tuy nhiên, việc nêu rõ lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong văn
kiện Đại hội XI của Đảng có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định rõ hơn định hướng:

Đảng ta hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân
tộc, từ đó tái khẳng định sự thống nhất và hịa quyện giữa lợi ích của giai cấp và lợi ích
của dân tộc. Khẳng định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng có nghĩa
là Đại hội đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của các hoạt động đối
ngoại. Nói cách khác, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc mà tất cả các
hoạt động đối ngoại, từ ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng đến ngoại giao nhân dân,
đều phải tuân thủ.
Thứ hai, về nhiệm vụ của công tác đối ngoại, văn kiện Đại hội XI nêu
rõ:“Nhiệm vụ của cơng tác đối ngoại là giữ vững mơi trường hịa bình, thuận lợi cho
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Phục vụ các mục tiêu quốc gia về phát triển, an ninh và nâng cao vị thế đất
nước là nhiệm vụ nhất quán trong đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới.
Điểm mới trong phần đối ngoại của văn kiện Đại hội XI là xác định rõ hơn khía cạnh
an ninh khi nêu rõ nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ”. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là cơ sở tồn tại của
một quốc gia. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn vẹn lãnh thổ ln luôn là
một trong những nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Việc nêu rõ điều này trong nhiệm
vụ đối ngoại là nhằm đáp ứng những phát triển mới của tình hình, đồng thời khẳng
định vai trị của đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Thứ ba, về các nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành các hoạt động đối ngoại,
tái khẳng định các nguyên tắc của đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ Đổi mới,
Đại hội XI nêu: “bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hịa bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển”, “tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế,
Hiến chương Liên hợp quốc”.Bên cạnh những nguyên tắc nhất quán này, văn kiện Đại
hội XI, phần định hướng giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, ranh
giới trên biển và thềm lục địa với các nước liên quan, nêu thêm nguyên tắc giải quyết
các vấn đề tồn tại trên cơ sở các “nguyên tắc ứng xử của khu vực”.

Thứ tư, về phương châm của đường lối đối ngoại, các văn kiện của Đại hội
khẳng định: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp
tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc
tế. Điểm mới trong phương châm đối ngoại của Đại hội XI là “hội nhập quốc tế” và
“thành viên có trách nhiệm”.
Về hội nhập quốc tế, Đại hội XI chuyển từ chủ trương “chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” được
thông qua tại Đại hội X sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” . Với chủ trương
này, hội nhập quốc tế khơng cịn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra tất cả các
lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phịng, an ninh và văn hóa-xã hội…
Hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội,
nhất là khả năng tranh thủ hiệu quả hơn các nguồn lực bên ngoài. Cùng với hội nhập
24


Lớp Trung cấp Lý luận Chính trị - Hành chính (Lớp TC100)

Đề cương chi tiết thảo luận

kinh tế, hội nhập trong các lĩnh vực khác sẽ tạo cơ hội lớn hơn trong tiếp cận tới tri
thức tiên tiến của nhân loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước làm cho đất
nước trở thành bộ phận hữu cơ của khu vực và thế giới, chiếm vị trí ngày càng cao
trong nền kinh tế, chính trị và văn hóa toàn cầu. Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực
cũng tạo cho chúng ta khả năng tận dụng được sự tác động qua lại, bổ sung lẫn nhau
giữa hội nhập trong từng lĩnh vực. Tuy nhiên, từ hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng
hợp tác trong các lĩnh vực khác chuyển sang hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực
đặt ra cho chúng ta một số thách thức mới.
Tác động tiêu cực từ các diễn biến bên ngồi sẽ gia tăng. Những bất ổn khơng
chỉ về kinh tế mà cả về an ninh, chính trị, xã hội từ bên ngồi sẽ nhanh chóng tác động

tới nước ta; các loại tội phạm xuyên biên giới như: buôn bán ma túy, rửa tiền, thâm
nhập tiền giả, tài liệu phản động, văn hóa phẩm khơng lành mạnh và các thách thức an
ninh phi truyền thống khác có thể gây tác hại đến mọi mặt của an ninh quốc gia từ an
ninh kinh tế đến an ninh chính trị xã hội. Phạm vi và tốc độ lây lan của các cú sốc từ
bên ngoài cũng gia tăng. Đồng thời, yêu cầu bổ sung và hoàn thiện thể chế; cải cách và
hiện đại hóa nền hành chính quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực
chất lượng cao... sẽ ngày càng lớn.
Theo đó, để giảm thiểu các tác động tiêu cực và khai thác tối đa các cơ hội từ
hội nhập quốc tế, nội hàm và lộ trình của hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc
phịng, an ninh và văn hóa-xã hội cần phải được xác định phù hợp với thế, lực của đất
nước và bối cảnh tình hình đất nước sao cho hội nhập quốc tế phục vụ hiệu quả nhất
mục tiêu phát triển, bảo vệ Tổ quốc XHCN và vị thế quốc gia.
Từ đường lối đối ngoại trên cơ sở tuyên bố “muốn là bạn” (Đại hội Đảng lần
thứ VII), “sẵn sàng là bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VIII), “là bạn và đối tác tin cậy”
(Đại hội Đảng lần thứ IX), Đại hội Đảng lần thứ XI hoàn chỉnh và bổ sung thêm cụm
từ là “thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Nội hàm này thể hiện bước
trưởng thành của ngoại giao Việt Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động,
có trách nhiệm của nước ta tại các cơ chế/tổ chức/diễn đàn khu vực, đa phương và tồn
cầu (ngoại giao đa phương), góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao song phương.
Nội hàm mới này là một trong những cơ sở để xác định một trong những ưu
tiên đối ngoại trong thời gian tới là “xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh”. Tuy
vậy, trách nhiệm bao gồm những gì và thực hiện trách nhiệm như thế nào ln ln
cần được tính tốn kỹ trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, năng lực thực hiện của ta
trong từng vấn đề, từng giai đoạn. Trách nhiệm cần được xác định theo các cấp độ:
trách nhiệm đối với dân tộc của mình; trách nhiệm đối với khu vực của mình; trách
nhiệm đối với những vấn đề chung của nhân loại.
Thứ năm, về định hướng đối ngoại, bên cạnh định hướng bao trùm là nâng cao
hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều
sâu, Đại hội XI nêu định hướng về: giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới lãnh thổ;

ưu tiên đối tác và định hướng quan hệ ASEAN; đối ngoại Đảng; ngoại giao nhân dân
và; định hướng tổ chức thực hiện. Về đối ngoại quốc phòng, an ninh, Đại hội chỉ rõ:
“Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”, “Tham gia
các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia
và trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp
25


×