Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Thực trạng và giảI pháp về rủ ro tín dụng trong ngân hàng Indovina

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.6 KB, 65 trang )

Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
Lời nói đầu
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã đánh dấu một bước
ngoặt quan trọng trong toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của nước
ta. Một nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường có
định hướng xã hội chủ nghĩa đã được thay thế cho nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp vốn đã không còn phù hợp với tình hình mới, mà còn
kìm nén sự phát triển kinh tế của nước ta trong nhiều năm. Để thích ứng
với yêu cầu, điều kiện kinh doanh trong môi trường mới đó, hệ thống ngân
hàng cũng có những chuyển biến mạnh mẽ. Từ hệ thống ngân hàng một
cấp vừa quản lý, vừa kinh doanh, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ
chức lại trở thành hệ thống ngân hàng hai cấp theo nghị định 53/HĐBT,
trong đó NHNN với chức năng quản lý Nhà Nước về mặt tiền tệ và là ngân
hàng của các ngân hàng, còn NHTM với tư cách là đơn vị kinh doanh có
chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với mục tiêu chủ yếu là
tối đa hoá lợi nhuận. Cùng với sự chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế, hệ
thống NHTM Việt Nam đang bước những bước hội nhập và phát triển
trong môi trường mới.
Cũng như bất kỳ doanh nghiệp nào, Ngân hàng cũng tiến hành hoạt
động kinh doanh với mục tiêu hiệu quả kinh tế cao nhất với mức rủi ro thấp
nhất. Tuy nhiên, là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền
tệ, ngân hàng cũng có những hoạt động kinh doanh khác với các doanh
nghiệp đơn thuần khác. Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động
cơ bản và cũng là đặc thù của NHTM bởi tín dụng ngân hàng được coi là
đòn bẩy quan trọng cho nền kinh tế, là một trong những hoạt động chủ yếu
nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Có thể nói mọi
hoạt động kinh doanh đều có thể gặp rủi ro, nhưng rủi ro phát sinh trong
1
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính


hoạt động ngân hàng nói chung hay trong hoạt động tín dụng nói riêng còn
nguy hiểm hơn nhiều lần các rủi ro khác. Hậu quả của nó rất dễ lan truyền
trong cả hệ thống ngân hàng, làm khủng hoảng nền kinh tế và nguy hiểm
hơn, nó làm suy giảm lòng tin của người dân.
Nhận thức được mối nguy hiểm mà rủi ro tín dụng gây ra cho ngân
hàng, sau một thời gian thực tập và tìm hiểu hoạt động tín dụng của ngân
hàng Indovina, em thấy có nhiều vấn đề cần quan tâm, xem xét, tìm hướng
giải quyết. Chính vì lý do này em đã chọn đề tài “Thực trạng và giảI pháp
về rủ ro tín dụng trong ngân hàng Indovina”. Dưới góc độ xem xét và
phân tích tình hình hoạt động tín dụng và những tồn tại trong hoạt động tín
dụng để tìm giải pháp tháo gỡ, góp phần giải quyết tốt khâu phòng ngừa rủi
ro tín dụng cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động chung của toàn ngân
hàng.
Bài luận văn gồm 3 phần:
Chương I: Hoạt động ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng
trong ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Indovina.
Chương III: Một số giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng Indovina.
2
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
Hoàn thành bản chuyên đề này, bản thân tôi hy vọng sẽ đóng góp
một phần nhỏ bé những kiến thức của mình vào việc giải quyết những vấn
đề bức xúc đang đặt ra của thực tiễn. Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu và
nhận thức của bản thân còn hạn chế. Vì vậy bản đề tài không tránh khỏi
những thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu
của các đồng chí lãnh đạo ngân hàng Indovina, đồng nghiệp, các thầy cô
giáo, cũng như bất cứ ai quan tâm đến lĩnh vực này./.
Nhân đây tôI xin chân thành cảm ơn anh Tâm – Trưởng phòng tín

dụngvà tiếp thị ngân hàng Indovina Hà Nội và Th.S Phan Thị Hạnh đã tận
tình chỉ bảo và tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành đề tài này./.
3
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
CHƯƠNG I
Hoạt động Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong Ngân
hàng thương mại.
4
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
1.1. Vài nét về ngân hàng thương mại
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại
Trên thế giới nghề ngân hàng được hình thành từ rất sớm,hình thức sơ
khai của ngân hàng thương mại xuất hiện từ thời kỳ tiền tư bản và cùng với
thời gian các hình thức này ngày càng được hoàn thiện hơn để đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của khách hàng. NHTM ra đời trên cơ sở kinh doanh
tiền tệ của những người thợ kim hoàn, ban đầu với uy tín và sự giàu có của
mình, họ nhận giữ tiền hộ và thu phí, giấy xác nhận mà những người gửi
tiền yêu cầu họ viết có thể lưu hành được trên thị trường, đồng thời thực
hiện nghiệp vụ thanh toán hộ cho người gửi tiền. Nghiệp vụ cho vay nảy
sinh khi họ nhận thấy rất nhiều người có nhu cầu về vốn để kinh doanh, do
đó họ sử dụng chính số tiền này để cho vay lấy lãi. Lợi nhuận cao đã kích
thích những người thợ kim hoàn thay vì việc thu phí giữ hộ tiền bằng việc
trả lãi nhằm thu hút thêm nhiều tiền gửi. Sản xuất phát triển, hàng hoá được
tạo ra nhiều làm nảy sinh quan hệ trao đổi hàng hoá giữa các vùng khác
nhau nhưng lại bị cản trở bởi sự không đồng nhất giữa các đồng tiền,
những người thợ kim hoàn, hay những thương nhân làm nghề kinh doanh
tiền tệ mà C.Mác đã gọi là “ nhà tư bản thương nghiệp tiền tệ ” nắm bắt cơ
hội này, họ kiêm luôn cả việc đổi tiền. Khi tồn tại nghiệp vụ nhận tiền gửi,

cho vay và thanh toán hộ có thể nói ngân hàng thương mại đã ra đời.
1.1.2. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Khi nghiên cứu về ngân hàng thương mại các nhà kinh tế học có rất
nhiều quan điểm khác nhau, người thì cho rằng “ ngân hàng thương mại là
tổ chức nhận tiền gửi và cho vay tiền ”. Người khác lại nhận định ngân
hàng thương mại là một trung gian tài chính có giấy phép của chính phủ để
vay tiền và mở tài khoản tiền gửi, kể cả các khoản tiền gửi có thể dùng séc.
5
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
Ngân hàng thương mại được thành lập đầu tiên ở Việt Nam đó là
ngân hàng Đông Dương của Pháp vào giữa thế kỷ XIX để phục vụ cho giới
thương gia Pháp trên thị trường Việt Nam. Sau đó có thêm các ngân hàng
bản xứ và các ngân hàng nước ngoài của Trung Quốc , Anh....
Phải đến năm 1990 pháp lệnh ngân hàng nhà nước ra đời mới chính
thức phân chia hệ thống ngân hàng thành hai cấp là NHTW và NHTM. Từ
đó khái niệm ngân hàng thương mại hoạt động đa năng trên nhiều lĩnh vực
đã ra đời. Theo luật các tổ chức tín dụng được Quốc Hội nước Cộng Hoà
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12- 12-1997 thì “ Tổ chức tín
dụng là một tổ chức hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng
với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cho vay cung ứng các
dịch vụ thanh toán chi trả hộ...”. Ngân hàng là một loại hình tổ chức tín
dụng thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác có liên quan. Do đó có thể nói “ ngân hàng là loại hình tổ chức tín
dụng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung nhận tiền gửi, cho vay, thực hiện các dịch vụ chi trả hộ, cung ứng
các phương tiện thanh toán cùng các hoạt động kinh doanh khác ”. Mục
tiêu của ngân hàng là tối đa hoá lợi nhuận với đối tượng kinh doanh là tiền
tệ.
1.1.2.1 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại

a. Hoạt động tạo lập vốn
a1. Vốn pháp định ( còn gọi là vốn riêng ):
Vốn pháp định là vốn ban đầu theo luật định khi đi vào hoạt động của
ngân hàng. Nó được gia tăng trong quá trình hoạt động, bằng cách trích từ
lợi nhuận kinh doanh, hoặc bằng cách tăng mức đóng góp của các chủ sở
hữu nếu là ngân hàng cổ phần.
6
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
Ngoài vốn pháp định, ngân hàng còn có các quỹ dự trữ ngân hàng, ví
dụ quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ phúc lợi....
a2. Huy động vốn .
Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của ngân
hàng. Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội là lẽ sống của các
ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn được thể hiện dưới các
hình thức sau:
- Nhận tiền gửi
Tiền gửi là nguồn vốn kinh doanh chủ yếu của mọi ngân hàng thương
mại, hoạt động này cũng thể hiện một đặc trưng cơ bản của NHTM so với
các tổ chức tài chính khác. Căn cứ vào các tiêu thức phân chia có thể gồm
các loại hình tiền gửi sau:
Nếu phân chia theo thời hạn :
- Tiền gửi không kỳ hạn : bao gồm các loại tiền gửi thanh toán , tiền
gửi tiết kiệm không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và dân cư. Người
gửi tiền có thể rút bất cứ lúc nào.
- Tiền gửi có kỳ hạn: có sự thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách
hàng và ngân hàng. Về nguyên tắc người gửi không được rút tiền
trước thời hạn ( trừ trường hợp đặc biệt).
Nếu phân chia theo mục đích thì bao gồm tiền gửi phi giao dịch và
tiền gửi giao dịch.

- Tiền gửi giao dịch: là khoản tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng
phục vụ mục tiêu thanh toán, họ có thể yêu cầu ngân hàng thanh
toán và chi trả cho họ bất cứ lúc nào. Khoản này có thể được trả lãi
hay không tuỳ thuộc vào quy định của ngân hàng.
- Tiền gửi phi giao dịch: bao gồm tiền gửi có kỳ hạn của tổ chức kinh
tế, tiền gửi tiết kiệm của dân cư. Mục tiêu chính của khách hàng là
7
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
lợi nhuận nên ngân hàng phải trả một khoản phí khá cao khi huy
động loại này.
Trái phiếu cũng là một công cụ quan trọng trong huy động vốn của
ngân hàng. Chúng có thể là trái phiếu ngắn hạn hoặc dài hạn với tên gọi
khác nhau như tín phiếu ngân hàng, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân
hàng.
Vay mượn từ NHTW hoặc từ các ngân hàng thương mại khác ( trong
và ngoài nước ) cũng là một cách thức quan trọng để huy động vốn hoặc
trong các trường hợp cần thiết.
b. Hoạt động sử dụng vốn
Huy động được vốn rồi, các NHTM cần phải sử dụng chúng một cách
thật hiệu quả sao cho có thể bù đắp những chi phí mà ngân hàng bỏ ra đồng
thời tạo ra được lợi nhuận.
- Một trong các hoạt động sử dụng vốn cơ bản của ngân hàng là
hoạt động ngân quỹ, để duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng để đáp
ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên của khách hàng. Nguồn
đảm bảo cho hoạt động này là các khoản tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại
NHTW ( đây là khoản dự trữ bắt buộc do NHTW quy định dựa
trên tỷ lệ % vốn huy động ), tiền gửi ở ngân hàng khác và tiền mặt trong
quá trình thu.
- Hướng cơ bản trong sử dụng vốn của ngân hàng là cho vay và đầu

tư, trong đó cho vay là quan trọng nhất. Có thể phân chia cho vay theo
nhiều tiêu thức khác nhau, cụ thể:
Nếu phân chia theo thời gian:
- Cho vay ngắn hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn cho vay dưới
12 tháng. Là loại cho vay mà ngân hàng thu được nhiều lợi nhuận và ít chịu
rủi ro hơn so với cho vay trung và dài hạn.
8
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
- Cho vay trung và dài hạn: là loại cho vay được thực hiện đối với
những chương trình, dự án phát triển kinh tế- xã hội.
Nếu phân chia theo ngành kinh tế
- Cho vay ngành nông nghiệp
- Cho vay công nghiệp và thương mại
- Cho vay xây dựng cơ bản
Nếu phân chia theo đối tượng :
- Cho vay tài trợ tài sản lưu động
- Cho vay tài trợ máy móc thiết bị...
Hoạt động đầu tư bao gồm:
- Ngân hàng đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn, chủ yếu là chứng
khoán ngắn hạn của chính phủ. Hoạt động này vừa là hoạt động kinh doanh
mang lại lợi nhuận cho ngân hàng vừa góp phần điều hoà lưu thông tiền tệ
trong nền kinh tế
- Ngân hàng còn được phép mua cổ phiếu và trái phiếu của các doanh
nghiệp, qua đây những ngân hàng lớn tham gia vào việc thành lập và quản
lý các doanh nghiệp.
Bảo lãnh ngân hàng: là hình thức ngân hàng dựa vào uy tín của mình
để bảo lãnh thanh toán cho khách hàng. Hợp đồng bảo lãnh cam kết bằng
văn bản với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng trong trường hợp không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết và

khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả tổ chức tín dụng số tiền đã được trả
thay.
c. Hoạt động dịch vụ trung gian
Đây là hoạt động ngân hàng thực hiện theo yêu cầu của khách hàng,
ngày nay hoạt động này càng ngày càng phát triển vì qua đó ngân hàng có
9
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
thể nâng cao thêm thu nhập, đồng thời củng cố thêm uy tín của mình với
khách hàng.
- Dịch vụ thanh toán hộ:
Theo yêu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ cung cấp cho khách hàng
các phương tiện thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thư tín
dụngnhằm thực hiện thanh toán cho khách hàng.
- Dịch vụ mua bán hộ chứng khoán:
Do có uy tín nên ngân hàng thường tham gia bảo lãnh phát hành chứng
khoán cho các công ty cổ phần muốn huy động vốn, tư vấn đầu tư chứng
khoán cho khách hàng.
- Dịch vụ mua bán ngoại tệ.
- Dịch vụ uỷ thác, đại lý tài sản vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân
theo hợp đồng.
- Ngoài ra ngân hàng còn có các dịch vụ khác như bảo quản tài sản
quý, cho thuê két sắt, ở nước ta hiện nay hoạt động trung gian vẫn
còn chưa phát triển vì nền kinh tế còn phát triển chậm.
Tóm lại: Các hoạt động của một ngân hàng rất phong phú. Cùng với
thời gian, những hoạt động này càng ngày càng đa dạng để đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của khách hàng. Tuy vậy, trong các hoạt động của
NHTM thì hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động quan trọng nhất, là hoạt
động sinh lời chủ yếu, quyết định kết quả kinh doanh của ngân hàng. Tăng
cường hoạt động tín dụng cũng là phải đối phó với rủi ro nhiều hơn, bởi

vậy các NHTM phải đề ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro
trong hoạt động của mình.
1.1.2.2. Vai trò của ngân hàng thương mại
Trải qua một thời gian dài tồn tại, ngân hàng thương mại đã ngày càng
chứng tỏ vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế quốc dân. Cụ thể
là ở các mặt sau đây:
10
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
Thứ nhất, NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc
đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá
NHTM không những cung ứng tín dụng cho doanh nghiệp, mà còn
thông qua chức năng làm trung gian tài chính đã thực hiện việc tập trung
các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế xã hội. Mặt khác, nó dùng chính
số tiền đã huy động được để cho vay đối với thành phần kinh tế. Chính
nguồn vốn này đã góp phần thúc đẩy và lưu thông hàng hoá phát triển, đáp
ứng đầy đủ nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân duy trì liên tục
quá trình sản xuất với quy mô ngày càng lớn, cải tiến máy móc, quy trình
công nghệ hiện đại để tồn tại trong cạnh tranh và phát triển. Từ đó nâng cao
chất lượng sản phẩm và góp phần tăng lượng hàng hoá đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của toàn xã hội.
Thứ hai, NHTM là một công cụ để Nhà Nước điều tiết vĩ mô nền kinh
tế.
NHTM là trung gian thông qua đó NHTW điều tiết nền kinh tế phục
vụ các mục tiêu ngắn hạn hoặc dài hạn của chính phủ. Bằng việc ấn định tỷ
lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, lãi suất tái cấp vốn cho NHTM,
NHTW đã gián tiếp thay đổi lượng cung tiền trong lưu thông. Cụ thể khi
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHTM tại NHTW, lượng vốn cho vay các
doanh nghiệp sẽ giảm, do đó tiền đưa vào lưu thông sẽ giảm. Đối với đặt
hạn mức tín dụng, NHTW quy định số tiền tối đa mà doanh nghiệp có thể

cho vay trong một thời kỳ nhất định bất kể ngân hàng thương mại huy động
được bao nhiêu vốn từ xã hội
Thứ ba, NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính
quốc tế.
Xu hướng hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới đang trở thành xu
hướng tất yếu trong thời kỳ mới. Thông qua việc cung cấp vốn thúc đẩy
nền kinh tế phát triển, tạo điều kiện nâng cao cạnh tranh của doanh nghiệp
Việt Nam trên thị trường thế giới, NHTM đã góp phần đưa nền kinh tế
11
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
quốc gia hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đồng thời giải quyết nạn thất
nghiệp thông qua mở rộng và tăng cường sản xuất, giảm các tệ nạn xã hội.
Tăng cường hợp tác phân công lao động quốc tế, xoá dần sự chênh lệch về
mức sống, về văn hoá tinh thần, trình độ khoa học kỹ thuật giữa các quốc
gia trên toàn thế giới. Lịch sử đã chứng minh rằng bất cứ quốc gia nào có
hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và hiệu quả thì quốc gia ấy sẽ có
một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ.
1.1.2.3. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
thương mại
a. Khái niệm về rủi ro
Khi tiến hành bất cứ một công việc gì thì con người đều chịu ảnh
hưởng của rất nhiều yếu tố từ môi trường xung quanh, do đó kết quả công
việc không phải chỉ phụ thuộc vào bản thân người đó. Những tác động này
có thể là tác động tích cực hoặc tiêu cực, nếu là tích cực, nó sẽ giúp đẩy
nhanh tiến trình công việc, nếu là tiêu cực, nó sẽ cản trở thậm chí phá hoại
công việc. Trong trường hợp đó, những yếu tố tiêu cực này được gọi là
những rủi ro.
Có rất nhiều cách hiểu rủi ro khác nhau, có nhiều định nghĩa về rủi ro
của các nhà kinh tế và các nhà kinh doanh, tuy nhiên để thâu tóm một định

nghĩa chuẩn xác thế nào là rủi ro cho mọi môi trường kinh doanh cũng như
mọi giai đoạn phát triển lại là một việc khó. Nhưng nói chung, rủi ro là
những biến cố xảy ra ngoài ý muốn không dự tính trước gây ra những thiệt
hại cho một công việc cụ thể nào đó.
Rủi ro có thể xảy ra trong bất cứ lĩnh vực nào, hoàn cảnh nào và cũng
có thể đến với bất kỳ ai. Tuy nhiên trong kinh doanh, có thể nói rủi ro là
người bạn đồng hành. Khi rủi ro xảy ra, hoạt động kinh doanh sẽ gặp
những thiệt hại nhất định, đôi khi là vô cùng lớn. Rủi ro phát sinh muôn
12
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
mầu muôn vẻ, là hậu quả của những nhân tố chủ quan và khách quan
nhưng chủ yếu là rủi ro khách quan ngoài dự đoán của doanh nghiệp. Rủi
ro có thể phát sinh từ các nguyên nhân như thiên tai, chiến tranh, năng lực
sản xuất yếu kém, sự thay đổi trong chính sách nhà nước...Chúng ta không
thể loại trừ hoàn toàn rủi ro ra khỏi môi trường kinh doanh mà chỉ có thể
nghiên cứu nó, nhận biết nó và phòng ngừa hạn chế nó đến mức thấp nhất.
Chính bởi vì rủi ro là người bạn đồng hành của kinh doanh, bởi vậy
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc
sẽ gặp nhiều rủi ro hơn.Trong lĩnh vực ngân hàng, rủi ro là một phạm trù
tiềm ẩn có thể xảy ra bất cứ lúc nào làm sai lệch kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh, trong đó rủi ro tín dụng là đặc trưng tiêu biểu nhất, dễ xảy ra
nhất trong hoạt động của ngân hàng.
b. Các loại rủi ro thường gặp trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
b1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu khi
khách hàng không trả hoặc không trả đúng hạn tiền gốc hoặc tiền lãi.
Bởi hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và đem lại nhiều lợi nhuận
nhất cho NHTM, do đó các NHTM đều luôn có khuynh hướng mở rộng
cho vay với các thành phần kinh tế. Chính vì lẽ đó mà rủi ro tín dụng là rủi

ro cơ bản nhất và luôn là mối đe doạ đối với các NHTM. Rủi ro này có thể
xảy đến với bất kỳ ngân hàng nào, với bất kỳ món vay nào và mức độ thiệt
hại cũng khác nhau, nó có thể làm ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của
ngân hàng, nặng hơn, nơ có thể khiến ngân hàng đi đến bờ vực của sự phá
sản. Do vậy khi đánh giá hoạt động kinh doanh cũng như đặt ra những kế
hoạch kinh doanh cho mình, mọi ngân hàng đều cần chú trọng đặc biệt đến
dự đoán sự biến động của thị trường, khả năng của khách hàng... để hạn
chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Đây cũng là biện pháp
13
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
hứu hiệu đề phòng và giảm đến mức thấp nhất thiệt hại do rủi ro tín dụng
mang lại.
b2. Rủi ro lãi suất
Trước hết phải định nghĩa thế nào là lãi suất, đó là chi phí đi vay hay
nói cách khác, nó chính là giá cả của việc tạm thời chuyển quyền sử dụng
tiền. Trong ngân hàng có hai loại lãi suất: lãi suất huy động và lãi suất cho
vay. Lãi suất huy động là chi phí mà ngân hàng phải bỏ ra để huy động
vốn. Lãi suất cho vay là lãi suất mà người vay phải trả cho việc mượn vốn
ngân hàng, lãi suất này tạo nên thu nhập cho ngân hàng.Trong nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước, lãi suất luôn biến động theo cung
cầu thị trường và nằm trong khung lãi suất do nhà nước quy định.
Rủi ro lãi suất mà ngân hàng phải gánh chịu là tổn thất về thu nhập
( lãi) do lãi suất thay đổi ngoài dự kiến của ngân hàng. Chẳng hạn lãi suất
cho vay giảm trong khi lãi suất huy động vẵn giữ nguyên làm giảm thu
nhập cho ngân hàng. Hay nói cách khác, những thiệt hại do rủi ro lãi suất
gây ra làm chi phí cho nguồn vốn cao hơn thu nhập từ sử dụng vốn khiến
ngân hàng bị thiệt hại.
b3. Rủi ro hối đoái
Các rủi ro trong giao dịch ngoại hối xuất phát từ tỷ giá hối đoái của các

loại tiền tệ khác nhau do tác động của kinh tế và chính trị của một nước.
Nếu nhu cầu vốn của nền kinh tế là ngoại tệ, ngân hàng khi tiến hành cho
vay phải thực hiện chuyển đổi từ nội tệ sang ngoại tệ và khi khoản vay đến
hạn, nếu do yêu cầu về việc bảo toàn vốn, ngân hàng phải sử dụng mức tỷ
giá hối đoái hiện thời, sự chênh lệch hoặc biến đổi giữa hai tỷ giá này có
thể gây ra những khoản thặng dư hoặc chênh lệch trong khối lượng tiền ban
đầu. Nếu đó là thâm hụt đó chính là rủi ro đối với ngân hàng.
b4. Rủi ro mất khả năng thanh toán
14
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
Rủi ro mất khả năng thanh toán xảy ra khi ngân hàng không đáp ứng
được các nhu cầu thanh toán của mình và của khách hàng. Một số nguyên
nhân dẫn đến tình trạng này có thể là do ngân hàng không đủ số vốn cần
thiết để đáp ứng nhu cầu chi trả và thanh toán như không đáp ứng đủ dự trữ
bắt buộc, không đủ ngân quỹ...Mặt khác, cũng có thể vì một lý do nào đó,
khách hàng đến rút tiền ồ ạt làm cho ngân hàng không đủ thanh toán ngay
cho khách hàng.
Do sự cạnh tranh giữa các thể chế tài chính trên thị trường vốn và thị
trường tiền tệ, bởi vậy nếu ngân hàng nào kém thì ngân hàng ấy càng khó
huy động được nguồn vốn dồi dào, phạm vi ngày càng thu hẹp. Bởi vậy,
đứng trước nguy cơ xảy ra rủi ro này, ngân hàng sẽ tiến hành nhiều biện
pháp để có thể ngăn chặn được nó.
b5. Rủi ro về nguồn vốn
Không phải lúc nào việc huy động vốn cũng được tăng cường, trái lại
nó có thể dẵn đến việc sư thừa nguồn vốn. Hậu quả của việc dư thừa nguồn
vốn sẽ là thu nhập từ việc sử dụng nguồn vốn không bù đắp nổi chi phí mà
ngân hàng bỏ ra để huy động vốn, làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh
của ngân hàng. Ngược lại, thiếu vốn sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng bị trì trệ, khả năng đáp ứng nhu cầu tín dụng bị hạn chế, làm ảnh

hưởng tới thị phần và lợi nhuận của ngân hàng. Do vậy, các NHTM cần
phải tìm ra cho mình một cơ cấu nguồn vốn hợp lý nhất nhằm kinh doanh
có hiệu quả và lợi nhuận cao.
b6. Các rủi ro khác trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Đó là các rủi ro nằm trong rủi ro toàn diện của ngân hàng, có thể đó là
rủi ro về thông tin, rủi ro về nhân sự, do thiên tai, rủi ro về thuế (thuế thu
15
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
nhập, thuế VAT ) gây ra. Ngoài ra, các chính sách xã hội ảnh hưởng đến
sinh hoạt của dân chúng hay các tổ chức kinh tế đều ảnh hưởng đến cung
cầu tiền trong ngân hàng. Ví dụ sự thay đổi những quy định bắt buộc của
ngân hàng trung ương về sự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, chính sách
chiết khấu... đều dẫn đến giới hạn các khoản tín dụng đầu tư làm mất cơ hội
kinh doanh của ngân hàng.
1.2. Rủi ro tín dụng và sự cần thiết phải phòng ngừa rủi ro tín
dụng
1.2.1. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Hoạt động sinh lợi chủ yếu của các ngân hàng thương mại là hoạt động
tín dụng. Đây là hoạt động cơ bản nhất và cũng đem lại nhiều thu nhập nhất
cho NHTM. Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu của ngân hàng là
tìm kiếm lợi nhuận trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng cộng đồng,
đồng thời phải đảm bảo sự an toàn vốn, tuy nhiên các khoản cho vay có
khả năng sinh lời cao thì mức độ rủi ro cũng cao.
Trong nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh và biến động, nhu cầu về
vốn để mở rộng sản xuất, cải tiến trang thiết bị và các nhu cầu khác phục
vụ quá trình sản xuất kinh doanh luôn tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu này,
các NHTM cũng phải luôn mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, điều đó có
nghĩa là rủi ro tín dụng cũng phát sinh nhiều hơn. Vấn đề là ngân hàng chỉ
được mở rộng hoạt động tín dụng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng,

có như vậy mới có thể phòng ngừa rủi ro tín dụng và hạn chế hậu quả của
nó đến mức thấp nhất.
1.2 .2. Phân loại rủi ro tín dụng
Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà ta có các cách phân loại rủi ro tín
dụng khác nhau :
Phân loại rủi ro tín dụng theo thời gian của khoản cho vay:
16
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
- Rủi ro tín dụng đối với các khoản cho vay ngắn hạn : là rủi ro đối
với các khoản tín dụng có thời gian dưới 12 tháng.
- Rủi ro tín dụng đối với các khoản cho vay trung và dài hạn : thông
thường mức độ rủi ro tín dụng ở các khoản cho vay trung và dài hạn
thường cao hơn nguy cơ rủi ro tín dụng ở các khoản cho vay ngắn
hạn. Bởi vậy, cho dù lãi suất cho vay có hấp dẫn hơn nhưng các
NHTM ở Việt nam hiện nay vẫn hạn chế mở rộng hoạt động tín
dụng với loại cho vay này.
Phân loại rủi ro tín dụng theo đối tượng cho vay:
- Rủi ro tín dụng đỗi với các khoản cho vay tài trợ tài sản lưu động :
do vốn lưu động có thời gian luân chuyển nhanh nên thường thường
thời gian hoàn trả khoản vay cũng nhanh, mức độ rủi ro tín dụng
cũng thấp hơn.
- Rủi ro tín dụng đối với các khoản cho vay tài trợ tài sản cố định :
mức độ rủi ro tín dụng thường cao vì thời gian cho vay vốn dài, hao
mòn hữu hình và đặc biệt trong thời đại khoa học phát triển thì hao
mòn vô hình của tài sản cố định rất cao.
- Rủi ro tín dụng đỗi với tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu : mức độ rủi
ro ít khá cao trong trường hợp có chiến tranh, thiên tai xảy ra ảnh
hưởng đến thời hạn giao hàng, dẫn đến khách hàng không trả nợ
ngân hàng đúng hạn. Ngoài ra,có thể do thiếu thông tin hoặc thông

tin sai lệch về bạn hàng dẫn đến tình trạng cố tình lừa đảo.
Phân loại rủi ro tín dụng theo nguyên nhân gây ra rủi ro
Thông thường các ngân hàng phân chia rủi ro tín dụng theo tiêu
thức này.
- Rủi ro tín dụng do nguyên nhân từ ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng do nguyên nhân từ khách hàng.
- Rủi ro tín dụng do các nguyên nhân khác.
Phân loại rủi ro tín dụng theo khách hàng vay:
17
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
- Rủi ro tín dụng đối với các khoản cho vay doanh nghiệp Nhà Nước :
trên thực tế nguy cơ rủi ro khi cho các khách hàng loại này vay thấp
hơn là cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Rủi ro tín dụng đối với các khoản cho vay doanh nghiệp ngoài quốc
doanh : nguy cơ rủi ro cao vì các doanh nghiệp loại này thường có
quy mô nhỏ, khả năng SXKD hạn chế và tài sản thế chấp cũng như
uy tín không đảm bảo.
1.2.3. Sự cần thiết phải phòng ngừa rủi ro tín dụng
Để thấy được sự cần thiết phải phòng ngừa rủi ro tín dụng, phải xem
xét tới tác hại của rủi ro tín dụng gây ra đối với bản thân ngân hàng, và đối
với nền kinh tế.
* Đối với bản thân ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, trước tiên lợi nhuận kinh doanh của ngân
hàng sẽ bị ảnh hưởng. Nếu rủi ro ở mức độ nhỏ thì ngân hàng có thể bù đắp
bằng vốn tự có, tuy nhiên nó sẽ ảnh hưởng tới việc mở rộng kinh doanh của
ngân hàng. Nghiêm trọng hơn, nếu ở mức độ cao, nguồn vốn của ngân
hàng không đủ bù đắp, vốn khả dụng bị thiếu, lòng tin của khách hàng
giảm tất yếu sẽ dẫn đến phá sản ngân hàng.
* Đối với nền kinh tế

Hoạt động ngân hàng liên quan tới rất nhiều các thành phần trong xã
hội, từ các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế cho tới các tổ chức tín
dụng khác. Vì vậy khi ngân hàng gặp phải những rủi ro sẽ dẫn tới tình
trạng mất ổn định trên thị trường tiền tệ, gây khó khăn cho các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh do đó gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với
nền kinh tế và đời sống xã hội. Ta có thể thấy được phần nào hậu quả đó
qua vụ đổ vỡ hàng loạt gần 500 quỹ tín dụng và hàng ngàn họp tác xã tín
dụng nông thôn ở nước ta những năm 1989-1990, hay mới đây nhất là sự
sụp đổ của hệ thống quỹ tín dụng ở Anbani.
18
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
Chính vì rủi ro tín dụng có thể gây hậu quả nghiêm trọng như vậy nên
việc phòng ngừa là một việc vô cùng cần thiết. Phòng ngừa rủi ro tín dụng
không những là vấn đề sống còn đối với ngân hàng mà còn là yêu cầu cấp
thiết của nền kinh tế, góp phần vào sự ổn định và phát triển của toàn xã hội.
1.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và một số chỉ tiêu đo
lường rủi ro tín dụng.
1.3.1. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.3.1.1. Nguyên nhân từ phía ngân hàng
a. Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng
Thực tế về hoạt động kinh doanh trong thời gian qua cho thấy rất nhiều
trường hợp rủi ro tín dụng xaỷ ra là do nguyên nhân chủ quan từ phía ngân
hàng. Nó gây ra những hậu quả khôn lường cho các ngân hàng.
- Trước tiên phải xét tới nguyên nhân là do ngân hàng không tôn
trọng đầy đủ quy trình cho vay.
- Việc điều tra kiểm soát đối tượng vay vốn về phương án kinh doanh
lúc đầu không bảo đảm, thiếu cân nhắc dẫn đến sơ hở thiếu bảo đảm
cho sự đầu tư vốn có hiệu quả.
- Việc cho vay tiến hành trong khi thông tin cần thiết không thu thập

đầy đủ, thiếu chính xác về hoạt động, mục đích vay của người vay
dẫn tới việc đánh giá sai năng lực hành tài chính và khả năng SXKD
cuả người vay.
- Ngân hàng buông lỏng trong việc kiểm tra đôn đốc quá trình sử
dụng vốn vay và thu hồi vốn nên dẫn đến có nhiều khách hàng sử
dụng vốn sai mục đích.
- Do trình độ của đội ngũ ngân hàng còn yếu kém và hơn thế nữa là
do cán bộ NH cố tình vi phạm quy định hoặc có hành vi lừa đảo gây
thất thoát vốn nghiêm trọng...
19
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
b. Nguyên nhân khách quan
Có rất nhiều nguyên nhân khách quan dẫn tới rủi ro tín dụng của
NHTM, chẳng hạn do chính sách, thể lệ tín dụng của ngân hàng còn chưa
đầy đủ, chưa đồng bộ, luôn có sự biến đổi. Do các chế tài của Nhà Nước về
thuế, chuyển quyền sử dụng đất, bán đấu giá tài sản còn có những điểm bất
lợi cho việc xử lý tài sản đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp tuyên bố
phá sản. Hoặc tài sản đảm bảo tín dụng bị giảm giá do biến động của thị
trường, chất lượng tài sản thế chấp bị hỏng do quá thời hạn bảo quản.
Ngoài ra việc xử lý thu hồi nợ gặp rất nhiều khó khăn bởi vì phải trải qua
nhiều thủ tục rườm rà , có trường hợp ngân hàng phải mất vốn do các quy
định của pháp luật đưa ra chưa bảo vệ được lợi ích bình đẳng giữa ngân
hàng và khách hàng...
1.3.1.2. Nguyên nhân từ phía khách hàng
a. Nguyên nhân chủ quan
- Sử dụng vốn sai mục đích (vay ngắn hạn đầu tư trung dài hạn, sử
dụng vào các mục đích khác với cam kết vay vốn) vào các hoạt
động có rủi ro cao dẫn tới thua lỗ, không trả được nợ cho ngân
hàng.

- Do trình độ kinh doanh yếu kém, khả năng thích ứng thị trường
thấp, điều hành sản xuất kinh doanh còn thiếu sự linh hoạt như
không cải tiến quy trình công nghệ, không trang bị máy móc hiện
đại, không thay đổi mẫu mã hoặc nghiên cứu nâng cao chất
lượng...dẫn tới sản phẩm sản xuất ra thiếu sức cạnh tranh, bị ứ đọng
trên thị trường khiến cho doanh nghiệp không có khả năng thu hồi
vốn trả nợ cho ngân hàng.
- Do chính bản thân doanh nghiệp có chủ định lừa gạt, chiếm dụng
vốn của ngân hàng: không đủ tài sản thế chấp, cầm cố, không đủ
năng lực pháp nhân, dùng một tài sản để thế chấp vay nhiều nơi...
b. Nguyên nhân khách quan
20
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
- Do sự thay đổi về luật kinh tế trong nước hoặc ở những nước mà
nhập khẩu mặt hàng của doanh nghiệp khiến phải huỷ bỏ hợp đồng
dẫn tới mất thị trường tiêu thụ, giảm sản lượng...khiến cho doanh
nghiệp không có khả năng trả nợ đúng hạn cho ngân hàng..
- Các chính sách của Nhà Nước như tăng thuế một số mặt hàng, sử
dụng công cụ điều hành chính sách kinh tế vĩ mô trong khi các DN
đang vào thời kỳ sản xuất, buộc các doanh nghiệp phải tính toán lại
giá cả, chi phí đầu vào...gây thiệt hại cho doanh nghiệp và gián tiếp
gây thiệt hại cho ngân hàng.
- Do các hành vi gian lận trên thị trường, hàng giả tràn lan làm tổn hại
tới doanh thu của doanh nghiệp.
- Do rủi ro bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn,cháy rừng...
c. Các nguyên nhân khác
- Do sự biến động của nền kinh tế như : suy thoái kinh tế, sự không
ổn định của nền kinh tế, lạm phát gia tăng , biến động tỷ giá ảnh
hưởng đến doanh nghiệp cũng như ngân hàng.

- Do hành lang pháp lý chưa đồng bộ, chưa đầy đủ, còn nhiều sơ hở
dẫn tới không kiểm soát hết được các hiện tượng lừa đảo trong việc
sử dụng vốn của khách hàng.
- Ngân hàng không theo kịp đà phát triển của xã hội, nhất là sự bất
cập trong trình độ chuyên môn cũng như công nghệ ngân hàng.
- Sự điều khiển “ bàn tay vô hình ” của cơ chế thị trường. Ví dụ cạnh
tranh độc quyền.
- Sự bất bình đẳng trong đối xử của Nhà Nước dành cho các NHTM
khác nhau.
- Chính sách Nhà Nước chậm thay đổi hoặc chưa phù hợp với tình
hình phát triển đất nước...
1.3.2. Một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng
21
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
RRTD là những biến cố xảy ra ngoài mong đợi trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng, tuy không thể loại bỏ được hoàn toàn nhưng ta có thể
nghiên cứu để nhận biết nó, từ đó có thể đưa ra những biện pháp nhằm
phòng ngừa và hạn chế rủi ro, giảm thiểu mức độ thiệt hại đến mức thấp.
Muốn dự đoán rủi ro một cách chính xác nhất thì ngân hàng cần phải đo
lường được rủi ro. Đây là một trong những phương pháp nghiên cứu mà
ngân hàng nào cũng áp dụng vì nó có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý
kinh doanh. Đo lường rủi ro là cơ sở để ngân hàng xây dựng chính sách tín
dụng hợp lý, chính sách lãi suất phù hợp cho từng thời kỳ, xây dựng hệ số
rủi ro cho từng loại tài sản có và cho từng loại hình cho vay...
Các ngân hàng thường sử dụng một số phương pháp sau:
- Nợ quá hạn : đây là khoản tín dụng cấp ra nhưng không thể thu hồi
đúng hạn do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nợ quá
hạn càng cao, mức độ rủi ro tín dụng của ngân hàng càng lớn.
- Cách đo thứ hai là :

Tổng giá trị tài sản bị rủi ro trong kỳ
---------------------------------------------
Tổng giá trị tài sản sinh lời trong kỳ
Tỷ lệ này cho biết cứ 100 đồng tài sản sinh lời thì bao nhiêu tài sản bị
rủi ro.
- Cách đo thứ ba:
Tổng giá trị tài sản bị rủi ro trong kỳ
----------------------------------------------
Tổng giá trị các món cho vay trong kỳ
- Cách đo thứ tư:
Nợ quá hạn trong kỳ
22
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
-----------------------------
Tổng dư nợ
Một số ngân hàng thương mại còn sử dụng các tỷ lệ như :
Nợ khó đòi Nợ khoanh
-------------------------------------- ; ---------------------
Tổng dư nợ ( hoặc nợ quá hạn) Nợ quá hạn
- Hạn mức rủi ro : tỷ lệ này biểu hiện một chỉ số so với vốn của ngân
hàng. Chỉ số này tính đến mức độ mà vốn của ngân hàng có thể
trang trải những khoản tổn thất phát dinh cho từng loại hoạt động tín
dụng. ở Việt nam chỉ tiêu này được quy định : một ngân hàng không
được phép cho vay một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của
ngân hàng, ở các nước khác là 10 – 40 % vốn tự có của ngân hàng.
1.4. Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng
1. 4.1. Đánh giá và nhận định khách hàng
Mục đích của đánh giá và nhận định khách hàng để xác định và hiểu rõ
người vay trên nhiều mặt. Một số ngân hàng xếp loại khách hàng căn cứ

theo quan hệ tín dụng trước đây: người vay có trả đúng hạn gốc và lãi các
lần vay trước hay không, ngoài ra còn nhìn nhận và đánh giá qua phẩm chất
đạo đức trong kinh doanh, tính trung thực trong quan hệ kinh tế, tính
nghiêm túc trong việc chấp hành các luật lệ của nhà nước. Thứ hai, đảm
bảo nguyên tắc người vay vốn phải có đủ năng lực pháp lý và năng lực tài
chính để sử dụng tiền vay và thực hiện các nghĩa vụ cam kết đối với các
khoản vay. Ngoài ra , phải đảm bảo nguyên tắc xây dựng được các phương
án dự phòng trả nợ vay ngân hàng của người vay.
1.4.2. Xem xét tính khả thi của phương án kinh doanh trước khi
quyết định cho vay.
23
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
Đây là một trong các quy tắc tín dụng mà ngân hàng nào cũng phải
đảm bảo thực hiện trước khi quyết định cho vay. Phương án khả thi là một
trong những yếu tố đảm bảo rằng khách hàng sản xuất kinh doanh có thể có
hiệu quả hay không, từ đó có khả năng hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng
theo đúng thời hạn. Hạn chế rủi ro tín dụng cũng đồng nghĩa với hạn chế,
giảm thiểu rủi ro tổn thất trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Một khi
người sản xuất kinh doanh không có hiệu quả, sản phẩm sản xuất ra không
ai tiêu thụ được, kinh doanh không có lãi dẫn tới tình trạng mất vốn do thua
lỗ sẽ là những nguyên nhân trực tiếp làm cho các khoản tín dụng không
được hoàn trả đúng hạn. Đó là lý do vì sao ngân hàng phải xem xét kỹ
lưỡng phương án sản xuất của người vay có hiệu quả hay không, mục đích
là để giảm thiểu rủi ro tín dụng.
1.4.3.Thực hiện phân tán rủi ro
Trong một số trường hợp, ngân hàng cần chủ động phân tán và hạn chế
rủi ro khi xét thấy không đủ căn cứ để có một nhận xét hoàn hảo về khách
hàng vay vốn, hoặc nhu cầu vốn của khách hàng quá lớn, hoặc lãi suất vay
vốn tuy hấp dẫn nhưng ngân hàng không thể giải quyết hậu quả nếu rủi ro

xảy ra.Việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua phân tán dư nợ và
đồng tài trợ, nó được biểu hiện dưới hình thức mỗi ngân hàng không nên
tập trung quá nhiều vốn cho một khách hàng vay. Những dự án lớn cần huy
động nhiều ngân hàng tham gia đồng tài trợ và cùng quản lý vốn cho vay sẽ
hạn chế và phân tán rủi ro, tránh rủi ro tập trung lớn vào một ngân hàng.
Bởi nếu một ngân hàng đổ vỡ sẽ ảnh hưởng tới môi trường kinh tế.
1.4.4. Thực hiện cơ chế đảm bảo tiền vay
Đây là giải pháp tối ưu trong đầu tư tín dụng, vì để có thể hạn chế rủi
ro không trả được nợ của người vay, các ngân hàng quy định các điều kiện
vay vốn. Đảm bảo tiền vay có nhiều loại : đảm bảo bằng cầm cố, thế chấp
tài sản của người vay, đảm bảo bằng tài sản và bảo lãnh của bên thứ ba,
24
Chuên đề tốt nghiệp khoa: ngân hàng tài
chính
đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay và đảm bảo bằng chính sự tín
nhiệm của người vay. Trong trường hợp xấu nhất khách hàng không có khả
năng trả vốn và lãi thì những tài sản đảm bảo đó được bán hoặc thanh lý để
hoàn trả cho ngân hàng.
1.4.5.Tham gia bảo hiểm tín dụng
Tham gia bảo hiểm tín dụng là một trong những giải pháp nhằm hạn
chế rủi ro tín dụng đã được áp dụng từ lâu trên thế giới nhưng ở Việt Nam
g ần đây mới được thực hiện, tuy nhiên các tổ chức tín dụng vẫn chưa áp
dụng nhiều. Sở dĩ vì phát sinh thêm phí bảo hiểm và thêm vào đó mức đền
bù còn chưa cao.
1.4.6. Chỉ mở rộng khối lượng tín dụng trên cơ sở nâng cao chất
lượng tín dụng
Việc mở rộng khối lượng tín dụng là hoạt động cần thiết đối với mỗi
ngân hàng nhằm tăng thu nhập thông qua lãi suất cho vay, song vấn đề chất
lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển thực chất
của ngân hàng. Nếu một ngân hàng gia tăng khối lượng tín dụng mà không

chú ý đến chất lượng của nó thì chẳng khác nào “xây nhà trên cát”. Chất
lượng tín dụng chính là kết quả của các khoản tín dụng được thực hiện trọn
vẹn, người vay thực hiện đúng cam kết vay tiền, ngân hàng thu được gốc
và lãi đúng hạn. Nâng cao chất lượng tín dụng được thực hiện thông qua
phân tích và đánh giá năng lực tài chính, khả năng sản xuất kinh doanh của
người vay để xem xét hiệu quả vốn tín dụng là đặc biệt quan trọng để quyết
định chất lượng vốn tín dụng.
25

×