Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Các phương thức thâm nhập QT của honda và cách thức honda thâm nhậm thị trường VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.62 KB, 14 trang )

NHÓM 9: NGHIÊN CỨU CÁC PHƯƠNG THỨC THÂM NHẬP QUỐC TẾ CỦA
HONDA VÀ PHÂN TÍCH CÁCH THỨC HỌ THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG
VIỆT NAM
PHẦN I : TỔNG

QUAN VỀ TẬP ĐOÀN ĐA QUỐC GIA HONDA

1.1. Sơ lược về tập đoàn đa quốc gia Honda
1.1.1 Lịch sử hình thành
- Ngày 24/9/1948: Tập đồn đa quốc gia Honda được chính thức thành lập vào bởi
ông Soichiro Honda. Công ty khởi nghiệp với số vốn tương đương 9.200 USD và bắt đầu
bằng hoạt động sản xuất piston. Nhận thấy nhu cầu đi lại của nước Nhật sau Thế chiến
thứ hai, Soichiro Honda đã chủ trương gắn động cơ vào xe đạp nhằm tạo ra một phương
tiện đi lại hiệu quả và rẻ tiền.
- Tháng 8/1949: Một số dịng xe mơ-tơ như Dream D đời đầu được ra mắt.
- Năm 1952, hai mẫu ô tô đầu tiên của hãng là T360 và S500 ra đời.
- Cuối thập niên 1960, Honda trở thành công ty sản xuất xe máy hàng đầu thế giới.
- Năm 1972 Hãng bắt đầu thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ với dòng xe đầu tiên là
Civic và sau đó là dịng Accord. Dịng xe Civic tuy có thiết kế nhỏ hơn so với tiêu chuẩn
xe hơi ở Hoa Kỳ, nhưng lại được đưa vào thị trường này trong bối cảnh khủng hoảng
kinh tế giai đoạn 1970 và luật về chất thải được thông qua yêu cầu các nhà sản xuất xe
hơi Hoa Kỳ phải lắp đặt thêm bộ phẩn chuyển đổi chất xúc tác vào hệ thống xả. Với động
cơ CVCC (Compound Vortex Controlled Combustion) sẵn có, chiếc Civic đời 1975 đã
đáp ứng được đúng yêu cầu về khí thải hiện tại lúc đó mà khơng cần lắp thêm bộ phận
xúc tác, do đó giúp tiết kiệm chi phí và tạo ra lợi thế cạnh tranh tương đối so với các nhà
sản xuất xe hơi khác ở Hoa Kỳ.
- Năm 1976, Honda tiếp tục đưa dòng Accord vào thị trường Hoa Kỳ và bắt đầu
khẳng định chỗ đứng của mình với dịng xe này. Với đặc điểm tiết kiệm năng lượng và dễ
điều khiển, dòng xe Accord được nhiều người tiêu dùng Hoa Kỳ ưa chuộng.
- Năm 1982, Honda trở thành hãng xe hơi Nhật Bản đầu tiên xây dựng nhà máy sản
xuất tại Hoa Kỳ. Tính đến nay, hãng đã có bốn nhà máy sản xuất ở Ohio, Anna và Đông


Liberty. Hãng cịn có các nhà máy ở Lincoln, Alabama, Timmonsville, Nam Carolina và
Georgia. Sau đó, Honda cịn mở thêm cơ sở nghiên cứu và phát triển ở Raymond, Ohio.
- Năm 1989, Honda thực hiện cải tiến năng suất và hiệu suất động cơ bằng cách đưa
thêm hệ thống VTEC (động cơ piston tự động) vào sản xuất. Hệ thống này đồng thời
cũng giúp động cơ vận hành với vận tốc lớn hơn dựa trên nguyên tắc vận hành ở 2 chế độ
khác nhau tùy thuộc vào tải trọng.


- Năm 2007, Honda thực hiện tăng độ an toàn của xe bằng cách lắp thêm túi khí ở ghế
trước, túi bên cánh và bộ chống khóa cho thắng.
- Hiện nay, Honda là nhà sản xuất động cơ lớn nhất thế giới với số lượng hơn 14 triệu
chiếc mỗi năm và được biết đến như mọt trong những hãng xe hơi hàng đầu, đi tiên
phong trong công nghệ tiết kiệm nhiên liệu, an tồn nhưng khơng kém phần sang trọng,
tiện nghi với mức giá phải chăng và chủng loại đa dạng. Honda đã có mặt và hoạt động
mạnh mẽ trên khắp thế giới bao gồm nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản, Bắc Mỹ,
Nam Mỹ, Châu Âu, Trung Đông, Châu Phi, Châu Á, Trung Quốc và Châu Úc.
1.1.2. Viễn cảnh và sứ mệnh
a. Viễn cảnh: “Trở thành tập đoàn sản xuất ô tô, xe máy và các sản phẩm cơng nghệ
hàng đầu Thế Giới.”
b. Sứ mệnh: Honda duy trì một quan điểm toàn cầu là cung cấp sản phẩm chất lượng
cao nhất nhưng ở một mức giá hợp lý tạo ra sự hài lịng cho khách hàng trên tồn thế
giới.
Nhiệm vụ của Honda là:
- Tiếp tục tạo ra những tham vọng.
- Tôn trọng những nguyên tắc cơ bản, phát triển ý tưởng mới, và sử dụng thời gian
một cách hiệu quả nhất.
- Khuyến khích một mơi trường làm việc cởi mở, năng động.
- Tập trung vào các giá trị của việc nghiên cứu và phát triển.
c. Slogan: “The Power Of Dream”.
Mỗi người đều có một giấc mơ, một mục tiêu hoạt động làm cho cuộc sống của chúng

ta thêm sâu sắc và có ý nghĩa hơn. Khi chúng tơi theo đuổi ước mơ, chúng tôi cảm thấy
được sức mạnh. Từ sức mạnh này, chúng tôi liên kết với nhau để cùng thực hiện một giấc
mơ lớn. Giấc mơ ấy cho chúng tôi sức mạnh để vượt qua những thách thức, nó thúc đẩy
chúng tơi chia sẻ niềm vui và hạnh phúc cho những người khác. Cuối cùng, sức mạnh của
giấc mơ ấy là khả năng tạo ra những ý tưởng cơng nghệ cách mạng.
Honda khuyến khích tất cả các thành viên cùng liên kết với nhau để theo đuổi ước mơ
của họ. Đó là lý do tại sao chúng tối nói rằng Honda là một cơng ty xây dựng trên những
giấc mơ. Sức mạnh từ những giấc mơ của Honda sẽ tiếp tục dẫn đến những hiểu biết mới
về công nghệ ô tô, xe máy, các sản phẩm điện, và robot công nghệ thế hệ mới.
PHẦN II

CÁC PHƯƠNG THỨC THÂM NHẬP QUỐC TẾ CỦA HONDA
1. Giai đoạn cuối thập niên 1960 đến thập niên 1970: Chiến lược KINH DOANH
QUỐC TẾ-INTERNATIONAL STRATEGY (sản phẩm được sản xuất ở Nhật và bán ra
thị trường các quốc gia khác với sự điều chỉnh tối thiểu yêu cầu địa phương)


a) Sản phẩm xe máy: những năm 70 Honda trở thành nhà sản xuất xe máy lớn nhất
thế giới. Giai đoạn đầu xe máy được sản xuất theo quy chuẩn nhất định tại Nhật và bán ra
các quốc gia khác. Trụ sở chính tại Nhật nắm quyền kiểm sốt mọi hoạt động trong và
ngồi nước.
- Năm 1948, ơng Soichiro Honda đã nhân cơ hội nước Nhật có nhu cầu đi lại nhiều,
cho dù nền kinh tế Nhật vốn bị hủy hoại sau Thế chiến thứ hai. Công ty đã gắn động cơ
vào xe đạp tạo ra một phương tiện đi lại hiệu quả và rẻ tiền.
- Honda bắt đầu sản xuất xe máy, và sau đó là tay ga. Những phương tiện như đã nói
ở trên, tương đối rẻ tiền, phù hợp với một đất nước đông dân, chật chội, nghèo nguyên
nhiên liệu và bị gánh chịu hậu quả nặng nề từ chiến tranh.
- Cuối thập niên 1960, Honda chiếm lĩnh thị trường xe máy thế giới. Đến thập niên
1970 công ty trở thành nhà sản xuất xe máy lớn nhất thế giới
b) Sản phẩm ô tô: Hãng bắt đầu sản xuất xe hơi vào năm 1960 với dự định dành cho

thị trường Nhật Bản là chủ yếu. Dù đã tham dự nhiều cuộc đua xe máy quốc tế nhưng xe
hơi của hãng vẫn rất khó bán được ở Mỹ. Vì xe được thiết kế cho người tiêu dùng Nhật
nên nó khơng thu hút được sự chú ý của người tiêu dùng Mỹ.
Trong giai đoạn đầu khi thành lập, Honda sử dụng chiến lược chuẩn hóa cho tồn
bộ sản phẩm của mình, do:
- Thứ nhất, thị trường xe máy giai đoạn thập niên 60 - 70 rất ít đối thủ cạnh tranh,
cường quốc có thể cạnh tranh về chế tạo xe với Nhật là Mỹ đang tập trung sản xuất ô tô
nhiều hơn. Bên cạnh đó giá rẻ trong thời gian này cũng là lợi thế cạnh tranh của xe máy
Honda.
- Thứ hai, giai đoạn thập niên 60 - 70, Nhật vừa mới khôi phục kinh tế sau khi thua
cuôc thế chiến II, do đó trình độ kỹ thuật khơng thể nào cạnh tranh với Hoa Kỳ trong lĩnh
vực sản xuất ơ tơ, chỉ có thể sản xuất những chiếc xe nhỏ, đơn giản, khó lịng địa phương
hóa để đáp ứng nhu cầu sử dụng một chiếc ô tô với đầy đủ tính năng hiện đại như Hoa
Kỳ và một số nước Châu Âu. Việc xuất khẩu xe sang Hoa Kỳ chỉ là bước đệm cho những
chiến lược lâu dài mà Honda hướng đến.
2. Giai đoạn thập niên 80 đến nay: chiến lược KINH DOANH XUYÊN QUỐC
GIA-TRANSNATIONAL STRATEGY (giải quyết được chi phí và đáp ứng nhu cầu từng
thị trường)
Honda sử dụng chiến lược thích nghi hóa sản phẩm theo từng thị trường riêng
biệt.Trong những năm đầu thành lập, Honda là cơng ty địa phương với tầm nhìn quốc tế.
Ngược lại, ngày nay Honda là một công ty quốc tế với tầm nhìn điạ phương. Trước đây,
chính sách của Honda là sử dụng chung một quy chuẩn kỹ thuật duy nhất cho thị trường


toàn thế giới. Hiện nay, chiến lược này được thay thế bằng chính sách địa phương hóa sản
phẩm. Mới chỉ cách đây một vài năm thôi, Honda từng được ca ngợi như là nhà sản xuất
của những mẫu xe tốt nhất thế giới và vì thế ln chiếm được vị trí bền vững trong lịng
khách hàng mua xe. Tuy nhiên thực tế đã thay đổi, đặc biệt là do sự lớn mạnh vượt trội
của các hãng xe Châu Á khác, như Hyundai – Kia, sản phẩm của Honda vẫn được đánh
giá rất cao về chất lượng, tuy nhiên giá thành không thay đổi nên ngày càng bị các mẫu

xe giá rẻ của Hyundai lấn sân.
Theo Giám đốc bộ phận mua của Honda, sở dĩ xe của Honda đang bị Hyundai chiếm
dần vị trí là do chính sách sản xuất của tập đồn đến từ Nhật khơng cịn phù hợp với tình
hình hiện tại nữa. Hiện tại Honda vẫn áp dụng chính sách sử dụng chung một nguồn linh
kiện và thống nhất về thơng số kỹ cho thị trường tồn thế giới.
Để khắc phục yếu điểm này, Honda cho biết sẽ bắt đầu thực hiện chính sách sản xuất
mới, đó là địa phương hóa sản phẩm. Xe bán tại khu vực nào sẽ được thiết kế phù hợp
duy nhất với khu vực đó mà thơi. Các nguồn linh kiện đầu vào sẽ được đa dạng hóa nhằm
giảm giá thành sản phẩm.
Triết lý của Honda hiện nay là “địa phương hóa” với ý nghĩa là mang sản phẩm thích
hợp cho từng đối tượng khách hàng. Sự thành cơng của Honda chính là q trình ra đời
và phát triển của của ý chí, gắn liền với tham vọng vô cùng to lớn. Honda đã giành được
nhiều cái nhất trong sản xuất: có dây chuyền chế tạo ôtô nhanh nhất thế giới, tiết kiệm
công nhân nhất (chỉ 2,05 người sản xuất 1 ôtô). Honda hiện có 65 nhà máy tại 34 nước
trên thế giới. Honda đã có mặt và thành cơng trên hơn 30 quốc gia với chiến lược kinh
doanh xuyên quốc gia của mình.
PHẦN III

PHÂN TÍCH CÁC CÁCH THỨC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG
VIỆT NAM
I. Thị trường vĩ mơ của Việt Nam
1. Tình hình chính trị
Kể từ sau độc lập năm 1975, Việt Nam đã duy trì được lợi thế ổn định chính trị trong
suốt gần 40 năm. Theo nhận định của Phillipe Delalande, một nhà nghiên cứu và kinh tế
học người Pháp, thì ổn định chính trị chính là “một trong những yếu tố khơng thể thiếu,
góp phần giúp Việt Nam có thể kiên trì chính sách phát triển kinh tế.”.
Biểu đồ 1: Tính ổn định chính trị của Việt Nam


(Nguồn:


Efic – Australian

Government)
Việt Nam là

một

quốc

gia

theo thể chế xã hội chủ nghĩa, trong đó Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cơ quan
chính phủ tối cao và là trụ cột của hệ thống chính trị, đại diện cho nhân dân và hoạt động
vì lợi ích của nhân dân. Đảng Xã hội là đảng duy nhất, đại diện cho lợi ích của toàn quốc
gia. Việc thành lập bất kỳ đảng phái chính trị nào khác đều bị nghiêm cấm và vi phạm
pháp luật Việt Nam. Việc duy trì chế độ đơn đảng cũng là một nhân tố quan trọng giúp
Việt Nam ổn định chính trị. Theo đánh giá của World Bank, chỉ số hiệu quả hoạt động
của chính phủ Việt Nam là tương đương so với mức chỉ số trung bình của khu vực, mặc
dù vẫn cịn thấp hơn chỉ số của các quốc gia OECD.
Năm 1987, Chính phủ Việt Nam thơng qua Luật đầu tư nước ngồi, đánh dấu cho
động thái “mở cửa kinh tế” của quốc gia này sau quyết định Đổi mới (1986). Năm 1995,
Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN. Việt Nam có một quan hệ ngoại giao tốt đẹp và
luôn chủ động hợp tác với nhiều quốc gia trong khối. Nhất là kể từ khi tham gia vào khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với lợi thế về giảm thuế nhập khẩu đối với các quốc
gia thành viên và cam kết tham gia vào lộ trình giảm thuế CEPT, Việt Nam đang mở ra
nhiều cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Việt Nam cũng đã thiết lập mối quan hệ tốt với nhiều quốc gia ngoài khối ASEAN,
đặc biệt là Nhật Bản và Hoa Kỳ. Việt Nam và Nhật Bản đã bắt đầu ký kết nhiều hiệp ước
về hợp tác kinh tế kể từ năm 1973, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Nhật Bản tham gia

vào thị trường Việt Nam. Hiện nay, Nhật Bản là quốc gia tài trợ nguồn vốn ODA lớn nhất
cho Việt Nam. Đối với Hoa Kỳ, kể từ sau Hiệp định thương mại song phương BTA năm
2001, mối quan hệ ngoại thương giữa hai quốc gia đã phát triển nhanh chóng. Hoa Kỳ
cịn ký kết hàng loạt các thỏa ước về dệt may, không vận và hải vận với Việt Nam.
Nhìn chung, Việt Nam vẫn được xem là một trong những quốc gia có tính ổn định
chính trị cao với quan hệ ngoại giao tốt đẹp với nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là một


trong những lợi thế và cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành kinh doanh tại thị
trường Việt Nam.
2. Tình hình kinh tế
Trong cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997-1998, trong khi nhiều quốc gia
Đông Nam Á đã chịu ảnh hưởng nặng nề, Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì phát triển kinh tế.
Dù gặp khó khăn trong một số năm gần đây, Việt Nam vẫn là một thị trường đầy triển
vọng đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong thập kỷ vừa qua, Việt Nam ln là một trong số các quốc gia có tốc độ tăng
trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới. Giai đoạn 1991-1995, GDP của Việt Nam tăng trung
bình 8,2%. Thời điểm năm 1996 đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong thời kỳ
đổi mới, đẩy mạnh Cơng nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Dù nhiều cuộc khủng hoảng tài chính
– kinh tế khu vực và thiên tai nghiêm trọng diễn ra trong thời gian này, Việt Nam vẫn duy
trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trung bình là 7%/năm. Trong 5 năm 19962000, sản xuất công nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển ổn định và tăng trưởng với nhịp
độ cao. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1996 tăng 14,2%, năm 1997 tăng 13,8%, 1998
tăng 12,1%, 1999 tăng 10,4% và năm 2000 tăng 17,5%. Nếu so với năm 1990, giá trị sản
xuất công nghiệp năm 2004 tăng gấp 6,5 lần, nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm
đạt 14,3%.
Biểu đồ 2: GDP danh nghĩa của Việt Nam giai đoạn 1996-Q1/2014

(Nguồn: WorldBank)
Tuy hiện nay, theo Bloomberge, Việt Nam vẫn là qc gia có mức tăng trưởng lạm
phát nhanh nhất trong số 17 nền kinh tế châu Á – Thái Bình Dương. Vào thời điểm năm

1996, do độ mở cửa của nền kinh tế còn chưa cao, nên mức lạm phát quốc gia chỉ dừng
lại ở mức 4,5%, tỷ lệ thất nghiệp giảm mạnh còn 5,88%. Xét về cơ cấu kinh tế, năm
1995, ngành công nghiệp và xây dựng của Việt Nam chiếm tỷ trọng đến 30%, ngành dịch
vụ chiếm 43% và nông nghiệp chiếm 27%. Mất cân đối cán cân thương mại dần được cải


thiện và xuất siêu lần đầu vào năm 1992. Thu nhập bình quân đầu người vào thời gian
này đạt khoảng 360 USD/người/năm.
Nhìn chung, kể từ sau “Đổi mới” năm 1986, Việt Nam đã dần dần chuyển vị thế từ
nước kém phát triển sang nhóm nước đang phát triển, từ chỗ bị bao vây, cấm vận sang
bước đầu mở cửa hội nhập, tiếp nhận ODA (từ 1993 đến 1997, lượng vốn ODA cam kết
là 10,8 tỷ USD, giải ngân gần 3,85 tỷ USD), FDI (từ 1991-1996 thu hút 27,8 tỷ USD vốn
đăng ký, bình quân 1 năm trên 4,63 tỷ USD, cao gấp 8,7 lần mức bình quân trong 3 năm
trước đó, vốn thực hiện đạt trên 9,2 tỷ USD); lượng kiều hối gửi về nước từ 1993 đến
1997 đạt gần 1,55 tỷ USD,... Với lợi thế về tốc độ phát triển kinh tế và nỗ lực đổi mới của
chính phủ, Việt Nam vẫn là một trong những môi trường tài chính – thương mại năng
động và tiềm năng.
3. Tình hình văn hóa xã hội
Dân số của Việt Nam tăng nhanh và liên tục qua nhiều năm. Tính đến năm 2014, Việt
Nam đã chạm mức dân số là khoảng 92,6 triệu người, trở thành quốc gia đông dân thứ 14
trên thế giới. Vào thời điểm Honda gia nhập thị trường (năm 1996), dân số Việt Nam là
khoảng 76 triệu người.
Biểu đồ 3: Dân số Việt Nam năm 1996-2014

(Nguồn: WorldBank)
Theo số liệu của Tổng cụ điều tra dân số và Nhà ở năm 1996, thì cơ cấu dân số của
Việt Nam là tương đối trẻ, tỷ lệ trẻ em chiếm đến 33%, trong khi tỷ lệ này ở Nhật Bản là
16%. Số dân trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi) chiếm
đa số. Năm 1996, Việt Nam có 35,187 triệu người lao động, với mức tăng về lực lượng
lao động trên dưới một triệu người mỗi năm. Năm 1990: nguồn lao động Việt Nam là

khoảng 1,448 nghìn người, đến năm 1995 thì con số này đã tăng lên 1,651 nghìn người.
Lực lượng lao động ở khu vực thành thị có quy mơ nhỏ hơn so với lao động nông
thôn. Năm 1996, lao động khu vực thành thị là 7,160 triệu người, chiếm 20,35% tổng lực
lượng lao động. Trong khi đó, lực lượng lao động ở khu vực nông thôn chiếm 79,65%
trong tổng số lao động cả nước. Tuy nhiên, xu hướng chung là tăng lao động thành thị và


giảm lao động ở nơng thơn. Theo giới tính, năm 1996, số lao động nam chiếm 49,43%,
nữ 50,57%. Xét về trình độ của người lao động, năm 1996, số người đã qua đào tạo nghề
bao gồm: đào tạo ngắn hạn, dài hạn (khơng phân biệt có hay khơng có chứng chỉ/bằng
nghề) và sơ cấp, chỉ chiếm có 11% trong tổng lực lượng lao động. Xét về mặt cơ cấu,
ngành nghề, cùng với q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa thì số lao động ở khu vực
nơng nghiệp có xu hướng giảm dần, cịn lao động ở khu vực cơng nghiệp, xây dựng và
dịch vụ lại có xu hướng tăng lên.
Nhìn chung, với quy mơ dân số khá lớn, cơ cấu dân số trẻ và lực lượng lao động dồi
dào, Việt Nam được xem là một trong những thị trường rộng lớn, hấp dẫn và nhiều tiềm
năng, đặc biệt là đối với các ngành thâm dụng lao động.
4. Tình hình cơng nghệ kỹ thuật
Trình độ khoa học và cơng nghệ của nước ta hiện nay nhìn chung cịn thấp so với các
nước trên thế giới và trong khu vực, năng lực sáng tạo cơng nghệ mới cịn hạn chế, chưa
đáp ứng u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Khoa học và
cơng nghệ nước ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, trước xu thế phát triển
mạnh mẽ của khoa học và công nghệ và kinh tế tri thức trên thế giới. So với các nước tiên
tiến nhất trên thế giới, trình độ kỹ thuật – công nghệ của chúng ta lạc hậu từ 50 đến 100
năm; so với các nước tiên tiến ở mức trung bình, chúng ta lạc hậu từ 1 đến 2 thế hệ. Đẩy
mạnh phát triển khoa học và công nghệ đối với nước ta không chỉ bắt nguồn từ địi hỏi
bức xúc của q trình đẩy mạnh cơng nghiệp khóa, hiện đại hóa và q trình phát triển
kinh tế thị trường, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
II. Cách thức Honda thâm nhập thị trường Việt Nam

1. Xuất khẩu trực tiếp
Với kinh nghiệm 50 năm sản xuất kinh doanh xe máy, Honda đã nghiên cứu và đánh
giá rất nghiêm túc môi trường kinh doanh Việt Nam trước khi thâm nhập thị trường này.
Cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90, nhận thấy những điều kiện thuận lợi, Honda quyết
định thâm nhập thị trường Việt Nam với bước đầu tiên là xuất khẩu trực tiếp. Honda đưa
vào Việt Nam các sản phẩm thương hiệu Cub, Super Cub, Dream, Dream II thơng qua
các văn phịng đại diện và các công ty thương mại nhập khẩu và phân phối sản phẩm
trong nước với quy mô ngày càng mở rộng. Mục tiêu chiến lược của hãng là nhằm vào
mọi phân khúc thị trường bởi các sản phẩm này có kiểu dáng phù hợp với hầu hết các đối
tượng có nhu cầu sử dụng dù là nam hay nữ, thanh niên hay người lớn tuổi, phục vụ mục
đích đi làm hay đi chơi…


Tình hình xuất khẩu giai đoạn 1995-1997
Năm
Lượng xe (chiếc)

1995
228960

1996
322640

1997
360000

2. Đầu tư trực tiếp thông qua việc thành lập liên doanh

2.1. Liên doanh Honda Việt Nam - những năm đầu
2.1.1. Môi trường kinh tế

2.1.1.1. Thuận lợi
So với giai đoạn xuất khẩu, giai đoạn này có rất nhiều thay đổi cả về môi trường kinh
doanh và vị thế của Honda trên thị trường Việt Nam. 10 năm sau đổi mới, Việt Nam đã có
một bước tiến khá dài trên con đường phát triển. Từ một nước không đủ ăn, thường
xuyên phải xin viện trợ, Việt Nam đã vươn lên thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên
thế giới, các chỉ số kinh tế có những chuyển biến tích cực. Tỷ lệ lạm phát giảm xuống tới
mức gần như khơng có (cịn 0,1% năm 1999 và 0% năm 2000), tốc độ phát triển kinh tế
giai đoạn 1995-2000 là 7% so với 3,9% giai đoạn 1986-1995. Chất lượng cuộc sống của
người dân ngày càng cao, nhu cầu về hàng hoá và phương tiện đi lại cũng tăng lên nhanh
chóng.
Trước xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường, Chính phủ Việt nam đã đưa ra những
chính sách thơng thống nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, để tạo môi
trường pháp lý đồng bộ, ổn định cho hoạt động đầu tư, tăng cường tính hấp dẫn và cạnh
tranh của môi trường đầu tư, mở rộng hợp tác với nước ngoài, tranh thủ nhiều hơn nguồn
vốn và kỹ thuật tiên tiến, mở rộng thị trường xuất khẩu, phát triển nền kinh tế quốc dân,
ngày 12 tháng 11 năm 1996, Quốc hội đã thơng qua Luật đầu tư nước ngồi tại Việt nam.
Luật này có bao gồm những quy định về bảo đảm tránh quốc hữu hoá và bảo đảm về việc
mang lợi nhuận ra nước ngoài. Số vốn đăng ký đầu tư vào Việt Nam năm 1996 đạt 8667
triệu USD, tăng 31% so với năm 1995.
Bên cạnh việc hoàn thiện kiến trúc thượng tầng, Chính phủ Việt Bam đã cố gắng đầu
tư vào cơ sở hạ tầng, mạng lưới giao thơng ngày càng được cải thiện, tính đến cuối năm
1997 cả nước có 106048 km đường bộ. Cơ sở hạ tầng phát triển mang lại thuận lợi cho
các nhà kinh doanh trong việc phân phối sản phẩm, giảm chi phí giao thông vận tải. Và
đặc biệt là mở ra cơ hội lớn cho các nhà kinh doanh xe gắn máy bởi khi đường xá đi lại
thuận lợi thì việc tăng nhu cầu sử dụng phương tiện đi lại này là tất yếu.
2.1.1.2. Khó khăn


Tuy nhiên, nhằm bảo hộ ngành công nghiệp xe máy trong nước, Chính phủ áp dụng
các chính sách thuế quan và hạn ngạch hạn chế lượng xe máy nhập khẩu. Chính sách này

khiến cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và cả người tiêu dùng Việt Nam đều phải
chịu thiệt thịi. Đây là khó khăn chính mà Honda phải đối mặt lúc bấy giờ.
2.1.2. Vị thế của Honda trên thị trường Việt Nam
Việc xuất khẩu giúp Honda có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, với các trung
gian phân phối, nhờ đó sự hiểu biết về văn hố, tập quán, tâm lý của người tiêu dùng tăng
lên, khả năng đáp ứng nhu cầu cũng trở nên dễ dàng hơn. Honda thực sự đã chiếm lĩnh
thị trường xe gắn máy Việt Nam và 80% thị phần là con số điển hình cho thấy vị thế vững
chắc của hãng tại thị trường. Trước những khó khăn và thuận lợi của môi trường kinh
doanh và của bản thân công ty, Honda đưa ra quyết định thực hiện bước thâm nhập sâu
hơn, đó là thành lập liên doanh sản xuất xe gắn máy trực tiếp tại thị trường Việt Nam.
Có thể thấy quyết định của Honda vào thời điểm này là hoàn tồn thích hợp bởi so với
xuất khẩu thì đầu tư trực tiếp có những ưu điểm nổi trội. Thứ nhất, cơng ty có thể tiết
kiệm được chí phí về nhân cơng và chi phí vận tải, từ đó có thể giảm giá thành sản phẩm.
Thứ hai, công ty tạo được hình ảnh tốt do tạo thêm được việc làm cho người lao động tại
nước sở tại. Thứ ba, công ty thiết lập được quan hệ chặt chẽ với chính quyền sở tại, khách
hàng, các nhà cung cấp và các nhà phân phối bản xứ làm cho sản phẩm thích nghi tốt hơn
với điều kiện thị trường ở đó. Thứ tư, cơng ty kiểm sốt được tồn bộ hoạt động đầu tư và
kinh doanh và do đó có thể triển khai các chính sách marketing phục vụ mục tiêu lâu dài.
Như vậy quyết định này đã giúp Honda biến khó khăn thành thuận lợi và phát huy thuận
lợi thành thế mạnh trong kinh doanh.
Vào tháng 3 năm 1996, liên doanh Honda Việt Nam được thành lập, ý tưởng mong
muốn được sản xuất riêng cho người tiêu dùng Việt Nam được Honda ấp ủ trong một thời
gian dài đã trở thành hiện thực. Honda Việt Nam là liên doanh trị giá 31,2 triệu USD giữa
Tổng cơng ty cơ khí và máy nơng nghiệp Việt Nam và hãng Honda Motor Co.Ltd., của
Nhật bản. Là một trong năm liên doanh sản xuất xe gắn máy ở Việt nam và là nhà máy có
cơng suất sản xuất và lắp ráp lớn nhất, công ty bắt đầu đi vào sản xuất xe máy hàng loạt
từ tháng 12 năm 1997.
Ngày 11 tháng 3 năm 1998, lễ khánh thành Nhà máy sản xuất xe Super Dream thuộc
công ty Honda Việt nam đã được tổ chức long trọng tại nhà máy cách thị xã Phúc Yên
thuộc tỉnh Vĩnh phúc 1km. Honda Việt Nam là một trong 27 nhà máy sản xuất xe máy

liên doanh của Tổng Công ty Honda được xây dựng khắp thế giới và theo các nhà lãnh


đạo của Honda Việt Nam thì nhà máy tại Việt Nam là nhà máy hiện đại nhất Đông Nam
Á.
Vào thời gian đầu mới sản xuất, do thói quen và thị hiếu người tiêu dùng Việt Nam
thích các sản phẩm ngoại nhập, sản phẩm sản xuất trong nước còn rất mới lạ mặc dù giá
cả thấp hơn nhiều so với sản phẩm xe máy nhập khẩu. Honda đã tiến hành chiến dịch
quảng cáo rầm rộ trên thị trường về sản phẩm với những tính năng ưu việt được sản xuất
phù hợp với tình hình địa hình và khí hậu Việt Nam cùng với mạng lưới dịch vụ sửa chữa
và bảo hành trên toàn quốc. Khẳng định chất lượng sản phẩm của công ty, ông Hiroshi
Sekiguchi muốn gửi đến người tiêu dùng Việt Nam một thơng điệp: “Dù sản xuất ở đâu
thì công nghệ vẫn là của Honda, chất lượng cũng được đảm bảo bằng uy tín của Honda”.
Ơng Hiroshisato, chun gia tại Trung tâm nghiên cứu và phát triển Honda tại khu vực
Đơng Nam Á cịn nhấn mạnh: “Do mơi trường khí hậu và tiếng ồn ở Việt Nam nên tiêu
chuẩn chất lượng của Honda Việt Nam thậm chí cịn cao hơn Honda Nhật Bản”.
Chiến dịch quảng cáo đã đưa Honda Việt Nam đến gần hơn với người tiêu dùng Việt
Nam. Tính đến năm 2001, tổng số xe máy được sản xuất và bán ra là 500 nghìn chiếc,
riêng năm 2001 cơng ty đã bán ra khoảng 170 nghìn xe bao gồm 105 nghìn chiếc Future
và 65 nghìn chiếc Super Dream. Trong năm 2002, công ty dự định đưa ra thị trường 500
nghìn chiếc xe các loại. Bằng phương châm kinh doanh “ln tràn ngập ước mơ và lịng
nhiệt thành”, Honda Việt Nam đã đạt được những thành công trong giai đoạn đầu.
2.2. Phản ứng của Honda trước những thay đổi của thị trường
Năm 1992, Việt Nam mới có khoảng 0,5 triệu xe máy trên toàn quốc, đến năm 1998
khi Honda Việt Nam chính thức đi vào sản xuất thì số xe máy tăng lên đến 3 triệu chiếc.
Năm 1999, lượng xe máy tiêu thụ ở thị trường Việt Nam vào khoảng nửa triệu chiếc/năm,
người ta cho rằng còn lâu mới đạt 1 triệu xe/năm, cuộc đổ bộ ào ạt của xe Trung Quốc đã
bất ngờ nâng con số này lên đến 1,8 triệu chiếc trong năm 2000. Xe máy giá rẻ tràn ngập
thị trường, tạo ra sức ép, buộc các hãng lớn trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh xe máy
phải hạ giá. Thị phần của Honda trên thị trường giảm sút, việc kinh doanh của hãng thực

sự gặp khó khăn. Tuy nhiên bằng kinh nghiệm và phản ứng nhanh nhạy, Honda một lần
nữa đã khẳng định được vị trí của mình với người tiêu dùng Việt nam. Tận dụng những
ưu thế của việc đầu tư trực tiếp mang lại, cùng với việc nhập khẩu một số linh kiện có
sức cạnh tranh nhất về giá cả và chất lượng, Honda đã tiến hành chiến lược giảm giá để
cạnh tranh. Trước sự biến động của thị trường, Honda đã kịp thời tung ra dịng xe Wave
Alpha có giá xấp xỉ 11 triệu đồng Việt Nam, cao hơn giá xe Trung quốc đôi chút vào thời
điểm nhu cầu mua sắm đang lên. Cũng vào thời điểm này xe Trung quốc bắt đầu bộc lộ


nhược điểm, đó là chất lượng khơng bảo đảm gây tai nạn cho người tiêu dùng. Việc xuất
hiện loại xe mới chất lượng Honda với giá dễ mua đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt
từ phía khách hàng. Tính đến cuối tháng 5 năm 2002, Honda đã bán ra 74 nghìn chiếc
Wave Alpha và dự định sẽ bán tới 200 nghìn chiếc trong năm nay. Cơng suất sản xuất
trên 2000 chiếc xe một ngày vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng, giá bán xe trên thị
trường có khi lên tới 15 triệu mà người tiêu dùng vẫn phải đặt hàng từ trước.
Không chỉ dừng lại ở việc đáp ứng nhu cầu trong nước, Honda Việt Nam còn thực
hiện việc xuất khẩu sang thị trường nước ngoài và cũng như ở Việt Nam, sản phẩm của
hãng được người tiêu dùng đánh giá rất cao. Cuối tháng 8 năm 2002, Honda Việt Nam đã
xuất sang thị trường Philippines được 2000 xe máy nhãn hiệu Wave Alpha và dự kiến
xuất khẩu 5000 chiếc trong những tháng cuối năm. Điều này khơng chỉ khẳng định được
uy tín và chất lượng sản phẩm của Cơng ty Honda Việt Nam mà cịn cho thấy vai trị
quan trọng của cơng ty trong ngành cơng nghiệp xe máy của Việt Nam. Ông Hiroshi
Sekiguchi, tổng giám đốc Honda Việt Nam cũng thừa nhận “ý nghĩa trước mắt của
thương vụ này khơng nhiều”, ơng giải thích thêm “Việc xuất khẩu sẽ làm tăng uy tín của
Honda Việt Nam, để khi Việt Nam tham gia AFTA, sản phẩm của Honda Việt Nam có thể
cạnh tranh được”.
2.3. Hướng phát triển của Honda Việt Nam trong thời gian tới
Đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, Honda Việt Nam quyết định đầu tư
thêm 16 triệu USD để mở rộng dây chuyền sản xuất, nâng công suất lên 2650 chiếc xe
một ngày. Kế hoạch sản xuất năm 2002 công ty đã đăng ký với Sở thương mại Vĩnh phúc

là 587 nghìn chiếc xe.
Kế hoạch đầu tư của cơng ty cũng hồn tồn phù hợp với chính sách khuyến khích và
ưu đãi đầu tư của Chính phủ. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ghi rõ: đối với nhà đầu
tư nước ngồi góp vốn pháp định hoặc vốn để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh từ
10 triệu USD trở lên phải nộp 3% thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Tuy nhiên nếu
nhà đầu tư nước ngoài dùng lợi nhuận thu được và các khoản thu hợp pháp khác từ hoạt
động đầu tư ở Việt Nam tái đầu tư thì được hồn lại một phần hoặc tồn bộ số thuế thu
nhập doanh nghiệp đã nộp của lợi nhuận tái đầu tư.
Ngồi ra nhà nước cịn quy định đối với các sản phẩm xe máy đạt tỷ lệ nội địa hố
trên 40 % thì áp dụng mức thuế ưu đãi 15% trở xuống vào các linh kiện nhập khẩu so với
mức thuế tối đa là 60%. Trước những quy định về thuế, một yếu tố kinh tế hết sức quan
trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của doanh nghiệp như vậy thì Honda đang tiến
hành mở rộng quy mô kinh doanh và phấn đấu đạt tỷ lệ nội địa hoá phù hợp. Song song


với sản xuất các loại xe đáp ứng nhu cầu của bộ phận dân cư có thu nhập trung bình,
Honda còn tiến hành xuất khẩu các loại xe kiểu mới, thời trang như Spacy, Avenis, @ …
đáp ứng nhu cầu của bộ phận dân cư có khả năng thanh tốn cao.
III. Bài học kinh nghiệm từ thành công của Honda tại Việt Nam
1. Phản ứng nhanh nhạy trước sự thay đổi của môi trường.
2. Không ngừng nghiên cứu và đáp ứng nhu cầu khách hàng.
3. Tận dụng và phát huy thuận lợi vốn có.
IV. Đề xuất cho các doanh nghiệp nước ngoài khi gia nhập thị trường Việt Nam
1. Nghiên cứu kỹ thị trường.
2. Xây dựng các mối quan hệ hợp tác tin cậy.
3. Đầu tư vào nguồn nhân lực và triển khai mối quan hệ đối tác với các nhà cung cấp
dịch vụ ở địa phương.




×