Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THỜI KỲ 1975 – 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.39 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

----***----

TIỂU LUẬN NHÓM
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THỜI
KỲ
1975 – 1986


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................... 3
PHẦN NỘI DUNG....................................................................................................... 4
I. Nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thời
kỳ 1975 - 1981............................................................................................................................4
1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và Hội nghị Trung ương lần thứ VI 4
1.2. Kết quả của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976 - 1981).................................................. 6
1.3. Đánh giá về nhận thức của Đảng thời kỳ 1975 - 1981.................................................8

II. Nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thời
kỳ 1982 - 1986............................................................................................................................9
2.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và nhận thức của Đảng trong thời kỳ
1982 - 1986......................................................................................................................... 9
2.1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng................................................... 9
2.1.2. Nhận thức của Đảng trong thời kỳ 1982 - 1986..................................................11
2.2. Những thành tựu Đảng đạt được đến năm 1986........................................................ 12
III. Vận dụng những nhận thức của Đảng trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta
hiện nay.....................................................................................................................................14


3.1. Thực trạng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.................................... 14
3.1.1 Những thành tựu.................................................................................................. 14
3.1.2 Những hạn chế, yếu kém...................................................................................... 15
3.2. Những định hướng xây dựng CNXH ổn định, phát triển bền vững trong bối cảnh
hiện nay............................................................................................................................. 16

PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................... 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................... 20


PHẦN MỞ ĐẦU
Một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu quyết định đến vận mệnh của dân
tộc - đó là tư duy nhận thức của Đảng. Dựa trên cơ sở của một nhận thức nhất định,
Đảng sẽ vạch ra những đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những thành tựu nổi bật và độc
đáo trong tư duy về con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đã được chủ nghĩa Mác Lênin
giải quyết cơ bản về mặt lý luận. Dường như, sau khi giành được chính quyền, các
Đảng Cộng sản chỉ việc sử dụng kinh nghiệm của các nước đi trước, áp dụng sao cho
phù hợp với hồn cảnh nước mình. Nhưng trong thực tế, ở các nước xã hội chủ nghĩa
nói chung và Việt Nam nói riêng đã phải trải qua một q trình khó khăn, có cả những
sai lầm. Điều này đặt ra vấn đề cần đổi mới nhận thức về con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Hiểu được vai trò to lớn của tư duy, nhận thức của Đảng trong lịch sử và
bối cảnh ngày này, nhóm chúng em quyết định chọn đề tài: “Nhận thức của Đảng về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thời kỳ 1975 – 1986”.
Nội dung nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ 1975 - 1986 đã được nhiều học giả nghiên cứu, tổng kết
bằng những nhận định, tư liệu phong phú. Ở bài tiểu luận này nhóm chúng em muốn
đi sâu hơn về sự hình thành nhận thức của Đảng. Đó là q trình tìm tịi và khơng
ngừng đấu tranh để giữ vững lập trường cách mạng theo con đường đi lên chủ nghĩa

xã hội. Quá trình nhận thức được chia làm 2 thời kỳ và được đánh dấu bằng hai kỳ đại
hội thứ IV và V của Đảng. Từ 1975 - 1986 nhận thức của Đảng về con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội càng được củng cố và nâng cao hơn.
Phạm vi nghiên cứu của bài tiểu luận được giới hạn trong phạm vi vấn đề chủ
nghĩa xã hội trong thời kỳ 1975 - 1984. Các biện pháp nghiên cứu được sử dụng bao
gồm biện chứng duy vật và duy vật lịch sử. Ngoài ra các biện pháp như tập hợp hệ
thống tư liệu, logic, so sánh, phân tích,... cũng được sử dụng tại bài tiểu luận này.
Trong quá trình làm bài tiểu luận, nhóm chúng em có thể cịn những thiết sót.
Chúng em rất mong được các thầy cơ trong bộ mơn góp ý để hồn thiện hơn.


PHẦN NỘI DUNG
I. Nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội thời kỳ 1975 - 1981
1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và Hội nghị Trung ương lần
thứ VI
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập thống
nhất và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh những khó khăn ta có nhiều thuận lợi
cả trong nước lẫn quốc tế. Những thuận lợi là động lực để nhân dân ta đi vào khắc
phục hậu quả của mấy mươi năm chiến tranh để lại và xây dựng đất nước ta độc lập, tự
chủ, giàu mạnh trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong Hội nghị lần thứ hai Trung ương Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá
III) tháng 8/1975 đã chỉ rõ. Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết của nhân
dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của cách mạng và của lịch sử dân tộc Việt
Nam; nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã được thực hiện
khẩn trương. Vì vậy trong những năm 1975 - 1976, Đảng chủ trương tập trung hoàn
thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước và khẩn trương xây dựng đường lối đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội IV của Đảng họp từ ngày 14 đến 20-12-1976 tại Hà Nội đã nêu lên mơ
hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.

Đại hội xác định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai
đoạn mới ở nước ta là: “Nắm vững chun chính vơ sản, phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan
hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hố, trong đó
cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa
là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm
chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc
lột người, xố bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên
củng cố quốc phịng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công tổ
quốc Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội”.
Về đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, Đại hội nêu rõ phải “Đẩy
mạnh cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội
chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả
nước thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát
triển kinh tế địa


phương; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác,
tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội
chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững
độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước
xã hội chủ nghĩa có kinh tế cơng - nơng nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học - kỹ
thuật tiên tiến, quốc phịng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc”.
Trên cơ sở đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, Đại hội
đã xác định các nội dung về:

1. Phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 phát triển
và cải tạo kinh tế, văn hoá, phát triển khoa học kỹ thuật.
2. Đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá, xây dựng và phát triển nền
văn hoá mới.
3. Tăng cường nhà nước Xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trị của các đồn
thể, làm tốt cơng tác quần chúng.
4. Nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng.
5. Nâng cao vai trò và sức chiến đấu của Đảng.
Như vậy, so với Đại hội III thì Đại hội IV có sự điều chỉnh từ “đồng thời” thành
“trên cơ sở” trong quan điểm phương châm cơng nghiệp hố.
Sau đại hội IV, có nhiều Nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị về kinh tế,
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế miền nam sau ngày giải phóng, dù đã vận
dụng những kinh nghiệm cải tạo xã hội chủ nghĩa và hợp tác hoá của miền Bắc, song
vẫn khơng có nhiều tiến triển. Đặc biệt, những khó khăn, do hai cuộc chiến tranh biên
giới Tây Nam và phía Bắc kết hợp sự cắt giảm đột ngột phần lớn viện trợ đã dẫn đến
tình trạng khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng trong những năm 1978 - 1979. Điều
này yêu cầu phải nhìn nhận lại đường lối chung và đường lối kinh tế của Đảng, thực
chất là quan niệm, nhận thức của Đảng về cách thức giải quyết những nhiệm vụ của
thời kỳ quá độ và dẫn đến giải pháp tình thế cho sản xuất “bung ra”. Ở Hội nghị Trung
Ương VI (8/1979), từ trọng tâm bàn về công nghiệp, hàng tiêu dùng, công nghiệp địa
phương, đồng thời giải quyết những nhiệm vụ cấp bách về kinh tế và đời sống. Hội
nghị đã có sự quan trọng trong tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Đó là chủ trương phải sửa chữa các khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý
xã hội, nhất là đổi mới cơng tác kế hoạch hố và cải tiến một cách cơ bản chính sách
kinh tế làm cho sản xuất “bung ra” theo phương hướng kế hoạch của nhà nước. Hướng
đổi mới là chống tập trung quan liêu, bảo đảm quyền làm chủ về kinh tế của các
ngành, các cấp, kết hợp kế hoạch hóa với sử dụng thị trường, xóa ngay chính sách kinh
tế đã lỗi thời. Các chính sách mới phải kết hợp chặt chẽ lợi ích của cá nhân với lợi ích
của tập thể và của người lao động.

Những giải pháp mà Hội nghị đưa ra tuy chưa dựa trên một quan niệm nhất
quán và rõ ràng về lí luận, nhưng đã đánh dấu một cái mốc quan trọng. Nó là sự kế
tiếp khó


khăn những tư tưởng đổi mới từ trước. Và dù chưa đi đến đổi mới chính thức, nó cũng
đã làm rạn nứt những quan niệm cũ, đã thừa nhận các yếu tố mới trong nhận thức về
thời kỳ quá độ, bên ngồi những yếu tố vốn có của “chủ nghĩa xã hội - Nhà nước”. Nó
mở đầu cho q trình đổi mới của Đảng về nhận thức lý luận và thực tiễn, trước hết
trong lĩnh vực kinh tế.
1.2. Kết quả của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976 - 1981)
Hội nghị 24 (9-1975) có nói: Trong một thời gian nhất định, ở miền Nam cịn
có nhiều thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa, kinh tế tập thể xã
hội chủ nghĩa, kinh tế công tư hợp doanh nửa xã hội chủ nghĩa, kinh tế cá thể, kinh tế
tư bản tư doanh. Nhiệm vụ bức thiết là cần ra sức sử dụng mọi khả năng lao động, kỹ
thuật, tiền vốn, kinh nghiệm quản lý, để đẩy mạnh sản xuất. Đến Đại hội IV, Đảng chủ
trương: xoá bỏ triệt để quyền chiếm hữu phong kiến về ruộng đất và những tàn tích
bóc lột phong kiến. Bên cạnh đó, xây dựng kinh tế quốc doanh lớn mạnh nhanh chóng,
chiếm ưu thế trong sản xuất và lưu thơng phân phối.
Đối với xí nghiệp tư doanh, phải cải tạo xã hội chủ nghĩa chủ yếu bằng con
đường công ty hợp doanh, xoá bỏ thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, chuyển phần lớn
tiền thưởng sang sản xuất. Đại hội nêu cao mục tiêu là đến năm 1980 cơ bản hoàn
thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam. Miền Bắc cần củng cố và hoàn thiện quan
hệ sản xuất mới, cải tiến quản lý và chế độ phân phối, mở rộng và củng cố kinh tế
quốc doanh về mọi mặt.
Với phương hướng đó, ta đẩy mạnh cải tạo ở miền Nam, nhất là trong năm 1977
- 1978, trọng điểm là thương nghiệp. Với cơng nghiệp tư bản tư doanh: có 3560 cơ sở,
25 vạn cơng nhân. Cải tạo bằng hình thức công quản, tịch thu của tư sản mại bản, lập
thành xí nghiệp quốc doanh, có 1.354 cơ sở, với 13 vạn công nhân, bàng 34% dơ sở và
55% số công nhân, 65% giá trị sản lượng loại này.

Cải tạo bằng hình thức cơng tư hợp doanh: 498 cơ sở với 1,3 vạn công nhân,
chiếm 14,5% số cơ sở, 5,5% số công nhân, 15% giá trị sản lượng. Cải tạo bằng xí
nghiệp hợp tác gia cơng, đặt hàng, quy tụ thành nhóm sản phẩm: 1600 cơ sở, 7 vạn
cơng nhân, chiếm 45% số cơ sở, 30% số công nhân, 15% giá trị sản lượng. Số cịn lại,
chưa cải tạo có 108 cơ sở, 3,2 vạn công nhân, chiếm 6,5% cơ sở; 9,5% công nhân, 5%
sản lượng (chủ yếu là đường mật, ép dầu, chế biến thực phẩm, chế biến nhựa, cao su
nhỏ, sửa chữa, máy móc nhỏ).
Với tiểu cơng nghiệp và thủ cơng nghiệp: lập được 400 tổ đồn kết, 5000 tổ hợp
tác, 500 hợp tác xã. Thu hút 70% lao động. Riêng ở thành phần Hồ Chí Minh thu hút
được 80%.
Với thương mại: 4 năm chuyển 5000 tư sản thương nghiệp, 9 vạn tiểu thương
sang sản xuất, đưa 1,5 vạn sang thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Song lại hình thành
số


tiểu thương kinh doanh lương thực, nông sản tới 10 vạn. Đến 1980, Nhà nước đã nắm
được công nghiệp, thương nghiệp. Như 100% năng lượng, 45% cơ khí, 45% xay xát
lương thực, 100% bia, nước ngọt, bột ngọt, thuốc lá, 45% chế biến đường, dầu thực
vật, 60% dệt, 100% giấy, 80% bột giặt, xà phòng. Thương nghiệp quốc doanh và hợp
tác xã đã nắm được 80% nguồn hàng công nghiệp, song nông sản chỉ nắm được 25 305%.
Sau này, đại hội VI đánh giá việc cải tạo xã hội chủ nghĩa thời kỳ này là nóng
vội, khơng thực hiện quan điểm nhiều thành phần kinh tế. Mặc dù 9-1975 Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 24 có nói là trong một thời gian nhất định, ở miền Nam còn tồn tại
nhiều thành phần kinh tế, song đến đại hội VI rút lại đến 1980 và Bộ Chính trị (31977) rút xuống chỉ trong 2 năm, cuối 1978 phải cải tạo xong, chỉ còn lại hai thành
phần. Tức là lặp lại thời kỳ 1959 - 1960 của miền Bắc.
Đại hội VI chỉ rõ nguyên nhân chính sách nhiều thành phần kinh tế khơng được
thực hiện ở miền Nam do tư tưởng nóng vội, chủ quan. Muốn nhận thức được sâu sắc
đặc điểm từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn là phải quá thời kỳ quá độ lâu dài, phải biết
sử dụng các hình thức trung gian, quá độ, biết sử dụng các thành phần kinh tế tư bản
có lợi cho chủ nghĩa xã hội. Tức là Đảng ta tuy đã biết: muốn có chủ nghĩa xã hội thì

phải tiến hành cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa để có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại.
Mà như vậy thì khơng để duy trì quá lâu thời kỳ nhiều thành phần kinh tế, vì như vậy
khơng có quan hệ sản xuất mới để tạo điều kiện mở đường cho phát triển lực lượng sản
xuất. Theo tinh thần đó, ta đã cải tạo thật nhanh để cơng nghiệp hố. Nóng vội từ đó
mà ra.
Với nơng nghiệp: miền Bắc đưa hợp tác xã lên quy mô lớn, đỉnh cao, theo
hướng tập trung, chuyên mơn hố, cơ giới hố. Nghĩa là áp dụng quy trình sản xuất
cơng nghiệp vào trong nơng nghiệp như lập các đội chuyên (đội 2020), các trạm, trại.
Năm 1979 miền Bắc tập trung các hợp tác xã nhỏ thành lớn, có 4.154 hợp tác xã quy
mơ tồn xã, có hợp tác xã lên tới 1000 ha. Năm 1980, quy mô đội lớn gấp đôi năm
1970 và bằng hợp tác xã năm 1958. Hàng năm, miền Bắc có 2,4 đến 8,7 vạn ha hoang
hoá. Thất thoát vốn, tài sản phổ biến, bộ máy cồng kềnh, xa rời sản xuất. Nông dân trễ
nải với công việc tập thể, chỉ lo cho đất 5% và tìm cách khốn chui… Khi hợp tác xã
miền Bắc lâm vào trì trệ thì ta lại áp dụng phổ biến, gấp rút vào miền Nam. Tháng
8/1977. Ban bí thư chỉ thị cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam.
Đến đầu 1979 miền Trung, Tây Nguyên cơ bản hợp tác xã xong. Nam Bộ đạt
35%. Đến 7-1980, miền Nam có 1.518 hợp tác xã, 9350 tập đoàn sản xuất, thu hút
35,6% hộ. Những nhược điểm của miền Bắc được thể hiện nặng hơn ở miền Nam, như
tập thể hoá tư liệu sản xuất cao, từ 50 đến 95% diện tích đất, 60% sức kéo. Quy mơ
hợp tác xã bình quan 312 ha, 519 hộ, 1005 lao động. Ta đầu tư cho nông nghiệp tới
30% ngân sách, song năng suất khơng tăng mà cịn giảm. 1976 là 22,3 tạ/ha, năm 1977
là 19,4/ tạ ha, năm 1978 là 17,5 tạ/ham ta phải nhập lương thực.


Với sản xuất công nghiệp: Than dự định 10 triệu tấn chỉ đạt 52%, điện 5 try
KW chỉ đạt 72%, xi măng dự kiến 2 triệu tấn chỉ đạt 32%, vải dự định 450 triệu mét
chỉ đạt


39%, giấy dự tính 13 vạn tấn chỉ đạt 37%… Xuất khẩu 320 triệu Rúp-Đô la, nhập

1.526 triệu. Giá năm sau so với năm trước: 1976 là 128%, năm 1977 là 117%, năm
1976 là 120,9%, năm 1979 là 119,4%, năm 1980 là 125%. Nghĩa là giá mỗi năm tăng
lên khoảng 20%. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp 1976 - 1980 chỉ là 0,6%.
Nền kinh tế có chiều hướng đi xuống. Lý do: hậu quả chiến tranh, nền kinh tế
sản xuất nhỏ, thiên tai, hai cuộc chiến tranh biên giới, viện trợ giảm. Chủ quan là
khơng có thời kỳ ổn định, nóng vội, lãng phí, duy ý chí…
1.3. Đánh giá về nhận thức của Đảng thời kỳ 1975 - 1981
Nhìn chung, thời kỳ 1976 - 1980, nền kinh tế nước ta ở trạng thái trì trệ, cơng
nghiệp chỉ tăng 0,6%, nơng nghiệp chỉ tăng 1,9%, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4%,
trong khi dân số tăng 4,5 triệu người. Mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, thu và
chi, xuất và nhập, hàng và tiền, đầu tư và hiệu quả. Đời sống giảm, tiêu cực tăng, giá
cả leo thang, thất nghiệp nhiều…
Nguyên nhân khách quan là: thiên tai, địch phá hoại, nhiệm vụ quốc tế, nền sản
xuất yếu kém… (như thời kỳ 1976 - 1980). Chủ quan là về lãnh đạo và quản lý: chưa
thấy hết khó khăn, phức tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chưa thấy hết hậu
quả chiến tranh và yếu kém của ta về quản lý kinh tế-xã hội, chưa lường hết phức tạp
quốc tế. Do đó đã chủ quan, nóng vội, nặng về quy mô lớn, tốc độ cao, thiếu cơ sở,
thiếu chuẩn bị. Đồng thời lại bảo thủ, trì trệ: khơng đánh giá đúng thuận lợi và khả
năng về lao động, đất đai, rừng, biển, hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng, khơng chịu suy
nghĩ tìm biện pháp phát huy thuận lợi, khả năng mà ỷ lại nước ngồi, duy trì q lâu
cơ chế quan liêu bao cấp, chậm thay đổi các chính sách và chế độ kìm hãm sản xuất.


II. Nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội thời kỳ 1982 - 1986
2.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng và nhận thức của Đảng trong
thời kỳ 1982 - 1986
2.1.1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng được triệu tập (tháng 3-1982),
trong tình hình đất nước đã lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tại đây, đại hội đã

kiểm điểm, tự phê bình về những sai lầm chủ quan, nóng vội trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; chỉ trích về tư tưởng bảo thủ, trì trệ, thể hiện ở
việc “duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính, bao cấp'', nên cơ sở đó đã điều chỉnh
một bước đường lối chung và đường lối kinh tế trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa
xã hội.
Xác định được nước ta đang ở chặng đường đầu của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, cùng nội dung cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa được chỉ ra theo Báo
cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội, trước mắt ta phải coi
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phải ra sức phát triển hàng tiêu dùng, v.v.. Cùng với
đó, Đại hội đã đề ra một số chủ trương về điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, để
phát triển kinh tế - xã hội, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền
Nam, thể hiện cụ thể trong kế hoạch 5 năm 1981-1985, nhằm cơ bản ổn định tình hình
kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Vũ trang cho toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân ta những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội khoa học, xây dựng ý thức kiên
cường, quyết tâm sắt đá và trình độ hiểu biết cần thiết để làm trịn cả hai nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc chính là nhiệm vụ cơ bản
của công tác tư tưởng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đã xác định. Các nhiệm
vụ cụ thể bao gồm: làm quán triệt đường lối các mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao lập
trường giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường. Báo cáo chính trị
trình bày tại Đại hội cũng chỉ rõ: công tác tư tưởng cần khắc phục các yếu kém, phải
hướng mạnh vào việc giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng
viên, chống chủ nghĩa cá nhân, chống chủ nghĩa cơ hội dưới mọi hình thức, kiên quyết
khắc phục những biểu hiện sa sút về phẩm chất chính trị, tự do vơ kỷ luật về mặt tổ
chức, thoái hoá về lối sống, mất dân chủ, quan liêu hố về tác phong, bảo thủ trong
cách nhìn nhận sự vật của một bộ phận cán bộ, đảng viên… Đặc biệt coi trọng việc tổ
chức học tập một cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong tồn Đảng.
Để cải tiến công tác tư tưởng phải sâu sát thực tế, nhạy cảm với cuộc sống,
nghiên cứu, tổng kết, phổ biến những điển hình tiên tiến, cổ vũ, vun xới cho những
nhân tích cực sớm được nhân lên. Tồn Đảng phải làm công tác tư tưởng. Mọi đảng

viên đều phải làm công tác tư tưởng. Phối hợp tất cả các cơ quan, các ban, ngành đồn
thể, sử dụng tất cả các cơng cụ thơng tin, văn hố, văn học, nghệ thuật, giáo dục, v.v..
để làm công


tác tư tưởng; gắn chặt công tác tuyên truyền giáo dục với công tác tổ chức và tổng kết
thực tiễn để làm công tác tư tưởng...
Đối với lĩnh vực công tác khoa giáo, Báo cáo chính trị đã đề ra các nhiệm vụ:
- Đẩy mạnh công tác khoa học kỹ thuật, coi đây là một nội dung rất quan trọng
của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, cuộc cách mạng giữ vị trí then chốt trong ba
cuộc cách mạng: ứng dụng các thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và
đời sống kết hợp các ngành khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật
nhằm góp phần vào việc đổi mới quản lý kinh tế quản lý xã hội.
- Thực hiện cải cách giáo dục một cách tích cực và vững chắc. Vấn đề lớn
nhất hiện nay là chất lượng giáo dục giảm sút nghiêm trọng, cần hết sức coi trọng nâng
cao chất lượng giáo dục...
- Thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong cơng
cuộc xây dựng nền văn hố mới, con người mới. Đảng và Nhà nước phải chăm lo hơn
nữa phát triển thể dục thể thao…
- Nâng cao hơn nữa chất lượng cơng tác phịng chống dịch bệnh, tổ chức tốt
hơn việc khám chữa bệnh, kết hợp có hiệu quả hơn nữa y học cổ truyền dân tộc và y
học hiện đại. Khai thác mọi khả năng sẵn có trong nước về nguồn dược liệu, xây dựng
công nghiệp dược phẩm, khắc phục tình trạng thiếu thuốc...
- Mở rộng mạng lưới y tế, nhất là tuyến cơ sở và tuyến huyện. Đặc biệt chăm
lo phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hố, thơng tin, thể dục thể
thao. Xây dựng một số cơng trình văn hố ở các huyện lỵ và xã theo phương châm
''Nhà nước và nhân dân cùng làm''.
Nhìn chung, một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã đề ra từ
sau Hội nghị Trung ương 6 (khoá IV) đến Đại hội V đã bước đầu thể hiện sự chú ý hơn
tới việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đi đôi với việc phát triển văn hoá, xã hội phù hợp

với điều kiện cụ thể của đất nước. Bên cạnh đó có thể thấy, Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ V (1982), bước đầu đã có cách nhìn mới về nền kinh tế nhiều thành phần, thừa
nhận miền Bắc tồn tại ba thành phần kinh tế là quốc doanh, tập thể và cá thể; miền
Nam tồn tại năm thành phần kinh tế là quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, tư bản
tư nhân và cá thể. Đó là bước khởi đầu thay đổi cơ cấu các chủ thể sản xuất kinh
doanh, tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển kinh tế thị trường.
Ngay sau Đại hội, Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương
đã mở Hội nghị nhằm tuyên truyền, phổ biến và xây dựng chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng. Công tác tuyên truyền quán triệt Nghị quyết
Đại hội V đã góp phần 1àm rõ hơn cục diện cách mạng nước ta, nhìn nhận đúng đắn
hơn thành tựu và khuyết điểm, động viên toàn Đảng, toàn dân tập trung cao hơn vào
mặt trận


nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, phấn đấu thực hiện toàn diện các chỉ
tiêu, biện pháp của kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 1981-1985. Phân tích, khắc phục
các biểu hiện tư tưởng bi quan, hoài nghi, dao động về đường lối, thái độ bàng quan,
thiếu trách nhiệm, nói nhiều làm ít, chỉ kêu ca mà khơng gương mẫu hành động góp
phần khắc phục khó khăn, đẩy lùi tiêu cực.
2.1.2. Nhận thức của Đảng trong thời kỳ 1982 - 1986
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam từ điểm xuất phát là một nước nông
nghiệp lạc hậu lại trải qua chiến tranh giải phóng lâu dài nên cần được nhận thức và
vận dụng phù hợp với thực tiễn của đất nước. Từ những điều kiện như thế, khi miền
Bắc mới bước vào thời kỳ quá độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ quan điểm: "chủ
nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần" "tiến lên chủ nghĩa xã
hội, không thể một sớm một chiều". Người đặt vấn đề: chúng ta phải dùng những
phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác-Lênin để dùng lập trường, quan
điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng
ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta

mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra
được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa
thích hợp với tình hình nước ta".
Những vấn đề của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được
Đảng chú trọng tổng kết từ thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tiêu
biểu như Ở Đại hội V của Đảng (tháng 3-1982) đã xác định những nhiệm vụ của
chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, sửa chữa những khuyết điểm về chủ quan,
nóng vội, duy ý chí. Q trình tìm đường để đi đến hoạch định đường lối đổi mới tại
Đại hội VI (tháng 12-1986) là quá trình đổi mới tư duy lý luận kết hợp với khảo
nghiệm thực tiễn để nhận thức rõ những đặc trưng và quy luật khách quan của thời kỳ
quá độ. Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam, bài học từ sự biến động ở các nước Đông Âu
và Liên Xô càng đòi hỏi Đảng ta phải chú trọng tổng kết thực tiễn, nắm vững đặc điểm
của Việt Nam, phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ cần nhận thức đúng đắn vai trò của hệ thống chính trị.
C.Mác từng nhấn mạnh vai trị và sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của một chính đảng
của giai cấp vơ sản và một hình thức nhà nước đã tìm thấy qua bài học của Cơng xã
Pa- ri năm 1871. V.I.Lênin và Đảng Bơn-sê-vích đã lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách
mạng Tháng Mười, thiết lập Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Nga năm 1917. Nhà nước
đó do Đảng Cộng sản lãnh đạo và trở nên tuyệt đối cần thiết để tổ chức toàn dân xây
dựng chủ nghĩa xã hội, cải tạo và chuyển dần nền kinh tế theo con đường của chủ
nghĩa xã hội. V.I.Lê-nin nhấn mạnh: "danh từ nước Cộng hịa xơ-viết xã hội chủ nghĩa
có nghĩa là Chính quyền xơ-viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa xã
hội, chứ hoàn toàn khơng có nghĩa là đã thừa nhận chế độ kinh tế mới là chế độ xã hội
chủ nghĩa". Vì


lẽ đó, đến năm 1986, Đảng bắt đầu từ việc đổi mới tư duy, đó là “tư duy kinh tế”. Kinh
tế được điều tiết theo chuyển động thị trường - vấn đề tưởng như là nguyên lý nhưng
đặt vào bối cảnh khởi động Đổi mới năm 1986 khi đất nước đang lâm vào khủng

hoảng kinh tế - xã hội, mới thấy hết giá trị mang tính mở đường, tính mới mẻ và hiện
đại của những chủ trương chưa từng có trong tư duy của những người Cộng sản.
Thật vậy, Đảng đã nhận thức rõ hơn đặc trưng về chế độ kinh tế của thời kỳ quá
độ, khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối. "Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành
quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh". Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không
ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một
trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến
khích phát triển. Các loại thị trường từng bước được xây dựng, phát triển (thị trường
hàng hóa dịch vụ, thị trường tiên tệ tín dụng, thị trường bảo hiểm, thị trường lao động,
thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ). Đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với xây dựng, phát triển kinh tế tri thức.
2.2. Những thành tựu Đảng đạt được đến năm 1986
Tổng kết 10 năm 1975-1986, Đảng đã khẳng định 3 thành tựu nổi bật: Thực
hiện chủ trương thống nhất nước nhà về mặt nhà nước; đạt được những thành tựu quan
trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội; giành thắng lợi to lớn trong sự nghiệp bảo vệ
tô quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Những thành tựu trên đã tạo cho cách mạng nước ta
những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên.
Với việc bắt đầu ngay việc thực hiện hai kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội là
Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985).
Cho đến năm 1986 nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng: Khắc
phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh; Khôi phục phần lớn những cơ
sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông
thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá.
Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính
dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống dưới. Các doanh nghiệp hoạt
động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chỉ tiêu

pháp lệnh được giao. Tổng sản phẩm trong nước bình quân mỗi năm trong giai đoạn
1977- 1985 tăng 4,65%, trong đó: nơng, lâm nghiệp tăng 4,49%/năm; công nghiệp
tăng 5,54%/năm và xây dựng tăng 2,18%/năm. Theo loại hình sở hữu, sở hữu quốc
doanh tăng 4,29%; sở hữu tập thể tăng 10,26% và sở hữu tư nhân, cá thể tăng 0,71%.
Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ này thấp và kém hiệu quả. Nông, lâm
nghiệp là ngành kinh tế quan trọng (chiếm 38,92% GDP trong giai đoạn này), nhưng
chủ yếu dựa


vào độc canh trồng lúa nước. Công nghiệp được dồn lực đầu tư nên có mức tăng khá
hơn nơng nghiệp, nhưng tỷ trọng trong tồn nền kinh tế cịn thấp (chiếm 39,74%
GDP), chưa là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng.
Thương nghiệp quốc doanh phát triển nhanh chóng, hợp tác xã tuy ở thời kỳ
đầu xây dựng, nhưng đã có những bước vươn lên chiếm lĩnh thị trường, nhờ đó hạn
chế được nạn đầu cơ, tích trữ và tình trạng hỗn loạn về giá cả. Tổng mức bán lẻ hàng
hóa xã hội bình qn thời kỳ này tăng 61,6%/năm. Kinh tế tăng trưởng chậm làm mất
cân đối cung
– cầu (thiếu hụt nguồn cung), đồng thời do bị tác động bởi việc cải cách tiền lương vào
năm 1985, là những nguyên nhân dẫn đến chỉ số giá bán lẻ tăng rất cao, bình quân giai
đoạn 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ tăng 39,53%/năm.
Chính phủ chủ trương nhanh chóng xóa nạn mù chữ và đẩy mạnh bổ túc văn
hóa, xem đó là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Đầu năm 1978, tất cả các tỉnh và thành phố
miền Nam đã căn bản xoá nạn mù chữ. Trong tổng số 1.405,9 nghìn người được xác
định khơng biết chữ, có 1.323,7 nghìn người thốt nạn mù chữ. Cơng tác dạy nghề
phát triển cũng mạnh mẽ. Năm 1977, trên cả nước chỉ có 260 trường trung học chun
nghiệp, hơn 117 nghìn sinh viên và 7,8 nghìn giáo viên. Đến năm 1985, số trường
trung học chuyên nghiệp là 314 trường, với quy mô 128,5 nghìn sinh viên và 11,4
nghìn giáo viên (tăng 9% về số sinh viên và 44,9% về số giáo viên so với năm 1977).
Hệ thống y tế được mở rộng, xây mới và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Số
giường bệnh thuộc các cơ sở y tế tăng từ 89,4 nghìn giường năm 1976 lên 114,7 nghìn

giường năm 1985. Số nhân viên y tế tăng từ 110,9 nghìn người năm 1976 lên 160,2
nghìn người năm 1985, trong đó số bác sĩ tăng từ 9.104 người lên 19.029 người.
Ở miền Bắc, mặc dù thu nhập bình quân đầu người một tháng của gia đình cơng
nhân viên chức tăng từ 27,9 đồng năm 1976 lên đến 270 đồng năm 1984; thu nhập
bình quân đầu người một tháng của gia đình xã viên hợp tác xã nông nghiệp tăng từ
18,7 đồng lên đến 505,7 đồng, nhưng do lạm phát cao, nên đời sống nhân dân hết sức
khó khăn, thiếu thốn.


III. Vận dụng những nhận thức của Đảng trong công cuộc xây dựng CNXH ở
nước ta hiện nay
3.1. Thực trạng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
3.1.1 Những thành tựu
Đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, phát triển
mạnh mẽ, toàn diện so với trước đổi mới.
- Quy mơ, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất
và tinh thần được cải thiện rõ rệt.
- Có tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế lớn mạnh hơn. Đây là niềm tự hào, là
động lực, là nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn
diện, đồng bộ, phát triển nhanh và bền vững đất nước”.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình
thành, phát triển; cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước được đẩy mạnh.
- Kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, chất
lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô và tiềm lực kinh tế đất nước tăng lên. Quy
mô nền kinh tế Việt Nam đạt 343 tỷ USD, trong tốp 40 nền kinh tế lớn của thế giới và
đứng thứ 4 trong ASEAN; GDP bình quân đầu người năm 2020 đạt trên 3.500 USD;
nằm trong tốp 10 quốc gia tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới và là một trong 16 nền
kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới.
- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, phát

triển con người, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu
được coi trọng và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
- Các chính sách, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, chính sách dân
tộc, tơn giáo được thực hiện có kết quả.
- Chính trị xã hội ổn định; quốc phịng, an ninh được tăng cường; quan hệ đối
ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật. Sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, dân chủ xã hội chủ nghĩa được tăng cường.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng
được hồn thiện. Cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy
mạnh tồn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt.


Nhìn một cách tổng thể, mọi lĩnh vực trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội
của đất nước được thực hiện một cách đồng bộ, mạnh mẽ, hiệu quả, được cán bộ, đảng
viên và nhân dân đồng lòng ủng hộ, tin tưởng, bạn bè quốc tế tín nhiệm.
3.1.2 Những hạn chế, yếu kém
Trong gần 30 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, Việt nam
cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém. Nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam còn một số vấn đề chưa rõ, chưa sâu sắc hoặc
chưa cụ thể.
- Trong những năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, song kinh tế phát
triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, chưa thật sự bền vững, đặc biệt
trong 10 năm gần đây. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động và năng lực cạnh
tranh quốc gia của nền kinh tế còn thấp.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được hồn thiện,
hệ thống thị trường hình thành và phát triển chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực
còn nhiều hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và hiện đại đang cản trở sự phát triển;
việc tạo nền tảng để trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại cịn chậm và
gặp nhiều khó khăn.

- Trên lĩnh vực phát triển văn hóa, giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ mơi
trường, cịn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Nhiều vấn đề bức
xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý phát triển xã hội chưa được nhận
thức và giải quyết có hiệu quả. Đạo đức xã hội có một số mặt xuống cấp; văn hóa
phẩm độc hại, lai căng tác động tiêu cực đến đời sống tinh thần của xã hội
- Tài nguyên bị khai thác bừa bãi, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, biến đổi khí
hậu tồn cầu ngày càng tác động đến Việt Nam gây hậu quả nặng nề
- Trên một số mặt, một số lĩnh vực, người dân chưa được thực hưởng đầy đủ,
cơng bằng thành quả đổi mới.
- Trên lĩnh vực chính trị và hệ thống chính trị, đổi mới chính trị còn chậm, chưa
đồng bộ với đổi mới kinh tế, nhất là đổi mới về tổ chức, thể chế, cơ chế, chính sách.
Hệ thống chính trị cịn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn thấp, chưa ngang
tầm với nhiệm vụ.Biên chế của hệ thống chính trị ngày càng tăng lên, nhưng chất
lượng cơng vụ thấp.
- Việc xây dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tuy có
nhiều tiến bộ song cũng cịn nhiều hạn chế. Ngun tắc kiểm sốt quyền lực nhà nước
cịn nhiều bất cập. Số văn bản luật ngày càng tăng nhưng hiệu lực pháp luật chưa cao,
việc phát huy dân chủ chưa đi liền với bảo đảm kỷ cương, kỷ luật, pháp luật. Hiệu lực,
hiệu


quả quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn chế, cải cách hành chính cịn chậm trễ, cải
cách tư pháp còn lúng túng.
Mặc dù Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã ra nhiều nghị quyết, chỉ thị
về tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, song cơng tác xây dựng Đảng chưa có nhiều chuyển biến cơ
bản trong tình hình mới. Chưa có những giải pháp hiệu quả để ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực xã hội cịn diễn ra nghiêm
trọng. Công tác tư tưởng- lý luận, công tác tổ chức- cán bộ, công tác kiểm tra, giám

sát, công tác dân vận còn nhiều bất cập. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chậm đổi mới. Năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng còn thấp, quản lý đảng viên chưa chặt chẽ; chế
độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là của người đứng đầu.
Những hạn chế trên đây làm cho Đảng chưa thật sự trong sạch, vững mạnh,
chưa ngang tầm nhiệm vụ, làm ảnh hưởng đến lòng tin của cán bộ, đảng viên, nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa
3.2. Những định hướng xây dựng CNXH ổn định, phát triển bền vững trong bối
cảnh hiện nay
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược cơ
bản, xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam, là vấn đề có tính quy luật của sự tồn
tại và phát triển đất nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, nắm
vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn này có ý nghĩa định hướng cho việc xử lý các mối
quan hệ khác nhằm đưa đất nước trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN).
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Trong nhận thức và giải
quyết các mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề
lý luận cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng, cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt
các mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN(1).
Quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là mối quan hệ cơ
bản, lớn nhất và có tính chất bao trùm, xun suốt tồn bộ sự nghiệp đổi mới, phát
triển đất nước. Đây là mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt
Nam phản ánh quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam là dựng nước phải đi
đôi với giữa nước.
Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN là khách quan, tất yếu,
thống nhất, gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề, điều kiện cho nhau, cùng hướng tới
một mục tiêu chung là độc lập, tự do, hạnh phúc. Xây dựng và bảo vệ là hai yếu tố, hai



mặt thống nhất của một quá trình phát triển. Bất kỳ ở đâu và lĩnh vực nào có hoạt động
xây dựng thì ở đó đều có hoạt động bảo vệ và ngược lại, ở đâu và lĩnh vực nào có hoạt
động bảo vệ, thì ở đó có hoạt động xây dựng.
Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được mới có đất nước
để xây dựng; có giữ vững được mơi trường hịa bình, ổn định mới có điều kiện để xây
dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đất nước; bảo vệ được Đảng, Nhà nước, chế
độ XHCN, bảo vệ nhân dân, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ nền văn hóa dân tộc mới
có tiền đề, điều kiện để xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN. Đồng
thời, ngược lại, có xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao sức mạnh
tổng hợp, thế và lực của đất nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân
mới có nguồn lực để đầu tư củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất
nước; tăng cường được sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc, thế trận quốc phịng tồn
dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc; tạo được sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè
quốc tế... Đây là những yếu tố có vai trị và ý nghĩa quyết định đối với việc bảo vệ Tổ
quốc XHCN.
Xây dựng là một phương thức hữu hiệu để bảo vệ Tổ quốc. Phát huy vai trò xây
dựng để bảo vệ Tổ quốc, nêu cao trách nhiệm mọi lực lượng trong bảo vệ trong xây
dựng đất nước; khắc phục tụt hậu về kinh tế là một trong những phương thức bảo vệ
chế độ XHCN quan trọng nhất; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống những biểu hiện “tự
diễn biến”, "tự chuyển hóa" trong nội bộ và tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, tham nhũng là ngăn chặn, đẩy lùi, đi đến triệt tiêu những “nhân tố tự
huỷ” ngay trong lòng chế độ là một trong những phương thức bảo vệ Tổ quốc có hiệu
quả nhất để giữ bản chất chế độ XHCN. Xây dựng các yếu tố của CNXH, làm cho nó
phát triển vững chắc, thể hiện rõ tính ưu việt và tiến bộ của CNXH, không để đất nước
đi chệch định hướng XHCN chính là một mục tiêu quan trọng của bảo vệ Tổ quốc
XHCN.
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh hội
nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế trước hết và cơ bản là hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Hội nhập quốc tế chính
là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm đạt được một mục tiêu hoặc

lợi ích chung nào đó. Đây là q trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia, vùng lãnh
thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác
quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo
thành sức mạnh giải quyết những vấn đề chung mà các quốc gia, các lực lượng xã hội
cùng quan tâm.
Hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã và đang phát triển sâu, rộng trên nhiều
cấp độ, đa dạng về hình thức,bằng việc ký kết nhiều hiệp định thương mại song
phương, đa phương thế hệ mới; xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngồi tăng
mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước.Trong
hội nhập quốc tế thì hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập các lĩnh vực khác tạo điều
kiện thuận lợi


cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhằm củng cố mơi trường hịa bình,
tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền
vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; bảo tồn và phát huy bản sắc
dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của
đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới.
Trải qua 35 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, tư duy lý
luận, nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc XHCN đã phát triển toàn diện và sâu sắc hơn, góp phần đưa sự nghiệp đổi
mới giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn tiếp tục đổi mới cả về chiều rộng và chiều
sâu mạnh mẽ hơn, toàn diện, triệt để hơn và hội nhập sâu rộng hơn, ở một tầm cao có
tính bước ngoặt nhằm thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững. Trong bối cảnh
hội nhập quốc tế, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn

quân ta, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, đã và đang đặt ra những yêu cầu mới và
đứng trước khơng ít khó khăn, thách thức cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng
và an ninh, đối ngoại.
Để tiếp tục nhận thức và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc trong bối cảnh tồn cầu hố và hội nhập quốc tế hiện nay, cần phải nắm vững và
thực hiện tốt các vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, tiếp tục nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đối tác và đối
tượng, giữa hợp tác và đấu tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Hai là, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc
phòng và an ninh.
Ba là, kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Bốn là, kịp thời thể chế hóa quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc cho phù hợp với bối cảnh mới của hội nhập quốc tế.


PHẦN KẾT LUẬN
Trong thế giới tồn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc
khơng thể biệt lập, đứng bên ngồi những tác động của thế giới và thời đại, của thời
cuộc và cục diện của nó. Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương
hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước
và dân tộc mình, mà cịn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế
giới và thời đại. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế,
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển, đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền,
tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có
lợi. Và điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng
tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của
giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang
được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ cịn tiếp tục phát triển và

có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa
học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và
sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết
của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở
của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Ngô Đăng Tri, Bài giảng: Đường lối đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa của Đảng.
2. Tổng Bí Thư Nguyến Phú Trọng, 2021, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí
Cộng Sản.
3. Lịch sử 80 năm ngành Tuyên giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 2010)
Hồ Chí Minh Tồn tập - Tập 8.
4. Tạp chí Lịch sử Đảng số 4/1993.
5. Giáo trình lịch sử Đảng - NXB Chính trị Quốc gia.
6. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh - NXB Chính trị Quốc gia.
7. Văn kiện Đảng toàn tập/ Đảng Cộng sản Việt Nam - T19.
8. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học.



×