Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Đánh giá quy định của pháp luật về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.21 KB, 11 trang )

MỞ ĐẦU
Nếu như kết hôn là việc xác lập quan hệ vợ chồng thì ly hơn là việc chấm dứt
quan hệ giữa hai bên vợ và chồng. Khi hôn nhân chấm dứt sẽ đặt ra vấn đề chia tài
sản chung giữa vợ và chồng. Việc chia tài sản chung khi ly hơn có điểm giống
nhưng cũng có rất nhiều điểm khác so với chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân
và chia tài sản chung khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã
chết. Để tìm hiểu rõ hơn về chia tài sản chung của vợ chồng khi ky hơn, nhóm em
xin chọn đề bài: “Đánh giá quy định của pháp luật về nguyên tắc chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn” làm bài tập nhóm của mình.
NỘI DUNG
I. Khái qt về nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Nguyên tắc được hiểu là những vấn đề cơ bản, mang tính chất xuất phát điểm
và các hoạt động có mục đích phải tn theo. Như vậy Các ngun tắc của Luật
Hơn nhân và gia đình là những nguyên lý, tư tưởng pháp lý chỉ đạo được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật định hướng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật
hôn nhân và gia đình.
Tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 33 Luật hơn nhân gia
đình năm 2014. Theo đó: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng
tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát
sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường
hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được
thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là
tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
“Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án”. Theo khoản 14 Điều 3 luật hơn nhân gia đình.
Vấn đề giải quyết tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là một vấn đề vơ
cùng phức tạp, vì thế Ngun tắc giải quyết tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn
chính là cơ sở để giải quyết vấn đề này. Việc thực hiện đúng nguyên tắc này sẽ giúp


việc giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng được thuận lợi, thống nhất, ngăn


chặn được những tiêu cực nảy sinh trong quá trình giải quyết việc chia tài sản
chung của vợ chồng, bảo đảm sự bình đẳng, cơng bằng cho các bên.
II. Ngun tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn
Việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hơn là một vấn đề phức tạp vì thế các
nhà lập pháp đã quy định rõ về Nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn tại Điều 59 luật hơn nhân gia đình năm 2014 để chia và kết hợp với từng
trường hợp cụ thể tại Điều 60, 61,62,63. Cùng với đó Điều 7 Thơng tư liên tịch số
01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 cũng đã
hướng dẫn chi tiết về nguyên tắc giải quyết tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Theo nguyên tắc việc giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn phụ thuộc vào chế độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn theo Điều 59.
1. Vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận
Theo nguyên tắc tại điều 59 và Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP đã khẳng định “Vợ chồng khi ly hơn có quyền tự thỏa
thuận với nhau về tồn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản”. Theo
đó dù lựa chọn chế độ tài sản nào thì vợ chồng đều có quyền tự thảo thuận về việc
phân chia tài sản khi ly hôn, quy định này đề cao quyền tự định đoạt của vợ chồng
và sự thỏa thuận, định đoạt này phải phù hợp với các ngun tắc của luật hơn nhân
và gia đình.
Trong trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì việc
giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo nội dung đã thỏa thuận của hai vợ
chồng, phải xem xét văn bản thỏa thuận lựa chọn chế độ tài sản công chứng, chứng
thực để giải quyết. Trong trường hợp vợ chồng thỏa thuận không đầy đủ hoặc
khơng rõ ràng thì Tịa án áp dụng quy định tương ứng như chế độ tài sản theo quy
định của pháp luật để giải quyết.
Thêm vào đó Thơng tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTCBTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 đã quy định Trường hợp vợ chồng không thỏa
thuận được mà có u cầu thì Tịa án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ
tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định, tùy từng trường hợp cụ thể

mà Tòa án xử lý như sau:
- Trường hợp khơng có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
hoặc văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tịa án tun bố vơ hiệu


tồn bộ thì áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tài sản của
vợ chồng khi ly hơn.
- Trường hợp có văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng và văn
bản này khơng bị Tịa án tun bố vơ hiệu tồn bộ thì áp dụng các nội dung của văn
bản thỏa thuận để chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Đối với những vấn đề
không được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng hoặc bị vơ hiệu thì
áp dụng các quy định tương ứng trong Luật hơn nhân và gia đình để chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn.
Khi giải quyết ly hôn nếu có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận về chế độ tài sản
của vợ chồng bị vơ hiệu thì Tịa án xem xét, giải quyết đồng thời với yêu cầu chia
tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
Khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn, Tịa án phải xác định vợ,
chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ
ba vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường
hợp vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có u cầu giải
quyết thì Tịa án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp
vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba khơng u cầu giải quyết
thì Tịa án hướng dẫn họ để giải quyết bằng vụ án khác.
2. Vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo luật định
Như đã giải thích ở trên dù lựa chọn chế độ tài sản nào thì vợ chồng đều có
quyền tự thỏa thuận về việc phân chia tài sản khi ly hơn, vì thế việc vợ chồng lựa
chọn chế độ tài sản theo luật định thì vợ chồng cũng có quyền tự thảo thuận về việc
phân chia tài sản khi ly hôn. Trong tường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản
theo luật định thì khi ly hơn nếu vợ chồng có thể thỏa thuận thì việc thỏa thuận đó
có thể lập thành văn bản hoặc khơng lập thành văn bản và việc cơng nhận của Tịa

án cũng khơng phải bắt buộc.
Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp, vợ chồng đều có thể đi đến
thống nhất về việc thỏa thuận chia tài sản khi ly hôn đặc biệt là khi họ có xích mích
mâu thuẫn lớn với nhau. Vì vậy trong trường hợp này với phần tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn mà vợ chồng không thảo thuận được với nhau, mà có yêu cầu
của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng mà tòa án giải quyết theo các nguyên tắc sau:
* Nguyên tắc chủ đạo của việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn


Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 59 và Thơng tư liên tịch số
01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì việc giải quyết tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn tuân thủ ngun tắc chia đơi nhưng có tính đến các yếu tố để xác
định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia trong mỗi trường hợp cụ thể để đảm bảo
quyền lợi chính đáng của mỗi bên, củ thể Tịa án dựa vào những yếu tố sau đây để
có quyết định khác với ngun tắc chung là chia đơi:
- “Hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình trạng về năng lực pháp luật,
năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly
hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng
có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hơn nhân và gia
đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hơn được chia phần tài sản nhiều hơn so với
bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống
của họ nhưng phải phù hợp với hồn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng;
- “Cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối
tài sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, cơng việc gia đình và lao
động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung.
Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà khơng đi làm được tính là
lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có
cơng sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn;
- “Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập” là việc chia tài sản

chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được
tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp
tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần
giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản
xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện
sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất
năng lực hành vi dân sự;
- “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ
hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly
hôn. Lỗi ở đây xác định là bao hàm cả lỗi nhân thân như ngoại tình, có con riêng
khi đang có quan hệ vợ chồng, bạo lực gia đình…So với luật cũ, đây là một nguyên
tắc mới rất quan trong trong việc phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hơn là tính
đến việc xét lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ vợ chồng


* Quy định về tài sản chung được chia bằng hiện vật, trong tường hợp nếu không
chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị, bên nào nhận phần tài sản bằng hiện
vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh tốn cho bên kia phần
chênh lệch giá trị đó (theo khoản 3 Điều 59 luật hơn nhân và gia đình năm 2014)
Quy định này nhằm đảm bảo tính cơng bằng cho các bên bởi nếu chia theo
hiện vật thì bên nhận hiện vật có thể sử dụng và hưởng giá trị lớn hơn bên kia, vì
vậy pháp luật quy định bên nhận hiện vật có giá trị lớn hơn sẽ phải trả khoảng giá
trị chênh lệch cho bên còn lại.
* Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản
để tự ni mình (theo khoản 5 Điều 59 luật hơn nhân và gia đình năm 2014)
Đây là ngun tắc giúp tạo ra các điều kiện cần thiết để các thành viên trong
gia đình có thể khắc phục được khó khăn, đảm bảo được cuộc sống bình thường
sau khi vợ chồng ly hôn.
3. Hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng

ly hôn
Sau khi bản án hoặc quyết định ly hơn của tịa án có hiệu lực pháp luật thì
quan hệ tài sản giữa vợ và chồng cũng hoàn toàn chấm dứt. Tài sản riêng của người
nào thì vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó nhưng phải chứng minh nếu khơng thì
sẽ được coi là tài sản chung.
Đối với tài sản chung sau khi được chia thì mơi bên sẽ sở hữu một phần tài
sản và hoàn toàn độc lập với bên còn lại. Việc chiếm hữu, sử dụng định đoạt với tài
sản đó các bên được tồn quyền quyết định.
III. Đánh giá quy định của pháp luật về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ
chồng khi vợ chồng ly hôn
1. Những ưu điểm của nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ
chồng ly hôn
Quy định về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn của luật
hơn nhân và gia đình 2014 đã kế thừa quy định của các luật hôn nhân và gia đình
trước đây. Đây là một quy định quan trọng, từng bước đi vào cuộc sống, phát huy
được hiệu quả điều chỉnh, góp phần xây dựng và củng cố chế độ Hôn nhân và gia


đình nước ta. Thực tiễn đã cho thấy viêc luật hơn nhân và gia đình 2014 ra đời đánh
dấu một bước ngoặt trong đó có những thay đổi tích cực trong nguyên tắc về giải
quyết tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là một nguyên tắc quan
trọng, đảm bảo tính ổn định và cơng bằng khi giải quyết việc chia tài sản sau khi ly
hôn của vợ chồng. Bởi đây là một vấn đề nhạy cảm và phức tạp khi việc chia tài
sản không chỉ đơn thuần là lợi ích tài sản mà cịn có yếu tố liên quan đến yếu tố
tình cảm, huyết thống giữa vợ chồng và với các thành viên khác trong gia đình trực
tiếp nhất là con cái.
Bởi vậy, nếu khơng có những ngun tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn do pháp luật quy định và được thực hiện thống nhất sẽ dẫn đến việc giải
quyết tài sản chung của vợ chồng càng trở nên phức tạp, dai dẳng đồng thời càng

làm mối quan hệ giữa cặp vợ chồng tiến hành ly hôn càng trở nên căng thẳng bởi
yếu tố tài sản là một yếu tố vô cùng nhạy cảm, gây tiêu cực xấu cho mối quan hệ
gia đình nói riêng và xã hội nói chung.
Việc luật hơn nhân và gia đình quy định nguyên tắc tự thỏa thuận là phù hợp
với nguyện vọng của các bên. Do đó, việc tự thỏa thuận theo mong muốn hai bên sẽ
tạo sự thoải mái, tránh được những ảnh hưởng tiêu cực như gây mâu thuẫn giữa hai
bên trong tường hợp giải quyết việc chia tài sản không phù hợp với nguyện vọng
của họ gây bất đồng với quyết định của tòa án, từ đó làm giảm niềm tin của họ đối
với cơ quan nhà nước. Hơn nữa việc vợ chồng tự thỏa thuận được sẽ giảm thiểu
cơng việc của tịa án cũng như của các cơ quan có thẩm quyền khác, tạo điều kiện
cho việc thi hành sau này diễn ra nhanh chóng, thuận lợi.
Về việc đề cao sự thỏa thuận, tự định đoạt của vợ chồng về việc giải quyết
chia tài sản khi ly hơn, luật hơn nhân và gia đình đã không bắt buộc yêu cầu văn
bản thỏa thuận của vợ chồng phải được sự cơng nhận của tịa án. Việc cơng nhận
của tịa án là tùy thuộc vào nhu cầu của vợ chồng mà có thể có hoặc khơng. Điều
này hướng tới việc đề cao nguyên tắc tự thỏa thuận này, bởi khi đã tôn trọng
nguyên tắc về quyền tự định đoạt thì việc định đoạt như thế nào là hồn tồn do vợ
chồng quyết định, vì thế họ khơng cần phải được sự cơng nhận của tịa đối với sự
thỏa thuận của mình.
Việc quy định như vậy giúp thủ tục giải quyết theo thỏa thuận được ngắn gọn
hơn, nhanh chóng hơn, khơng chỉ có lợi cho vợ chồng tiến hành giải quyết chia tài
sản mà còn giảm khối lượng cơng việc cho tịa án. Có nhiều ý kiến cho rằng việc


cho phép khơng cần sự cơng nhận của tịa án sẽ dẫn đến những hành động tiêu cực
như để tẩu tán tài sản, tuy nhiên theo nhóm em việc tự thỏa thuận này không thể
hiểu là tự do tuyệt đối mà là quyền tự do được đặt trong giới hạn, giới hạn ở đây
chính là sự thỏa thuận của vợ chồng phải phù hợp với các nguyên tắc của luật hơn
nhân và gia đình. Như vậy, quy định này là phù hợp.
Tuy nhiên không phải mọi trường hợp vợ chồng đều có thể thỏa thuận về

việc giải quyết tài sản chung khi ly hơn. Vì thế luật hơn nhân và gia đình đã cho các
bên tìm đến một nơi có thể phân xử cho họ đó là Tịa án. Việc quy định Tòa án giải
quyết chia tài sản chung trong trường hợp này thông qua việc dựa vào các nguyên
tắc chia tài sản chung mà luật hôn nhân và gia đình đã quy định là nhằm bảo vệ
quyền lợi chính đáng về tài sản của mỗi bên vợ chồng cũng như của những thành
viên khác trong gia đình.
Với trường hợp vợ chồng không thể đi đến thỏa thuận thống nhất về việc
chia tài sản chung khi ly hôn và yêu cầu Tòa giải quyết, về nguyên tắc trong tường
hợp này nguyên tắc chủ đạo mà luật hôn nhân và gia đình quy định để giải quyết tài
sản chung của vợ chồng là ngun tắc chia đơi có tính đến các yếu tố khác để xác
định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng. Quy định này phù hợp với nguyên tắc tài sản chung
của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia, phần của vợ,
chồng trong khối tài sản chung của vợ chồng là bằng nhau, xuất phát từ tính chất
của quan hệ hơn nhân là cùng chung ý chí, cùng chung cơng sức trong việc tạo nên
khối tài sản nhằm xây dựng gia đình.
Vì thế, ngun tắc chủ đạo là chia đơi hồn tồn phù hợp với những ngun
tắc mà luạt hơn nhân và gia đình đã xây dựng trước đó, đồng thời phù hợp với đạo
đức xã hội. Tuy nhiên việc tuân thủ ngun tắc chia đơi phải có tính đến các yếu tố
khác để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia trong mỗi trường hợp cụ thể
như: hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; Cơng sức đóng góp của vợ, chồng
vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; Bảo vệ lợi ích chính đáng
của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp
tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ
chồng. Việc các nhà lập pháp quy định phải xem xét các yếu tố này khi chia tài sản
chung của vợ chồng là hồn tồn chính xác, bởi tính chất của mỗi quan hệ mỗi gia
đình là khác nhau, về cơng sức, về trách nhiệm xây dựng gia đình cũng khác nhau.
Vì thế không thể đồng nhất việc chia tài sản chung của vợ chồng trong mọi trường
hợp tòa án giải quyết đều chia đôi, việc xem xét các yếu tố này sẽ như một cơng cụ
để đảm bảo quyền lợi chính đáng của mỗi bên.



Quy định xem xét yếu tố “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng ; Cơng
sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản
chung; Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; Lỗi của mỗi bên
trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng hay xem xét để bảo vệ quyền lợi của
vợ, con trong trường hợp có khó khăn khi ly hơn trong một số trường hợp” chính là
cơ sở để Tịa án lấy đó làm căn cứ để xác định tính chất của quan hệ thơng qua đó
có nhận định về tỉ lệ chia tài chung của vợ chồng một cách hợp lý.
Ngoài việc chia sao cho cơng bằng thơng qua nhìn nhận về cơng sức đóng
góp luật hơn nhân và gia đình cịn quy định để làm sao bảo vệ lợi ích của những
thành viên có khó khăn trong gia đình có lợi thế hơn để giúp họ có một cuộc sống
dễ dàng hơn sau khi vợ, chồng ly hôn.
Đặc biệt phải kể đến việc xem xét yếu tố “lỗi” để làm căn cứ chia tài sản của
vợ chồng khi ly hôn. Đây là điểm mới của luật hơn nhân và gia đình năm 2014 so
với luật hơn nhân và gia đình năm 2000. Việc căn cứ vào yếu tố “lỗi” để làm căn cứ
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn cũng chính là một biện pháp răn đe,
trừng trị bên gây lỗi, từ đó giáo dục pháp luật để người dân tự ý thức được việc
thực hiện pháp luật giúp giữ giàn tính ổn định và hạnh phúc của gia đình nói riêng
và xã hội nói chung. Có thể thấy quy định này hướng phần lớn đến bảo vệ người
phụ nữ bởi họ thường là nạn nhân của bạo lực gia đình.
Đồng thời Tòa án phải xem xét việc chia tài sản chung để bảo vệ quyền lợi
của vợ, con trong trường hợp có khó khăn khi ly hơn trong một số trường hợp đó là
quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng
lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni
mình sau khi ly hôn. Trong những trường hợp này, người vợ, người con đều có khó
khăn nhất là khi mất đi vai trị của người chồng, người cha họ sẽ khó lịng duy trì,
đảm bảo cuộc sống bình thường vì thế nguyên tắc giúp tạo ra các điều kiện cần
thiết để các thành viên trong gia đình có thể khắc phục được khó khăn sau ly hơn.
Như vậy có thể thấy nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn

của luạt hơn nhân và gia đình 2014 đề cao nguyên tắc tự định đoạt, thỏa thuận về
tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, đồng thời quan tâm đến việc phân chia tài
sản sao cho công bằng, phù hợp với đạo đức xã hội, quan tâm đến những thành
viên bị yếu thế và có khó khăn, đặc biệt là phụ nữ và con chưa thành niên hoặc đã
thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả năng tự ni mình.


2. Những vướng mắc, bất cập của nguyên tắc chia tài sản chung của vợ
chồng khi vợ chồng ly hôn
Nguyên tắc tự thỏa thuận về tài sản là nguyên tắc quan trọng và cơ bản,
nguyên tắc này đảm bảo việc tự định đoạt của vợ chồng đồng thời thể hiện thái độ
tôn trọng của Nhà nước đối quyền tự định đoạt.
Tuy nhiên thực tiễn áp dụng nguyên tắc này cho thấy, nhiều trường hợp các
cặp vợ chồng lợi dụng nguyên tắc này với mục đích xấu đó là định đoạt để tẩu tán,
phân tán tài sản khiến những chủ thể liên quan như chủ nợ thậm chí Nhà nước bị
thiệt hại trong một số trường hợp. Tình trạng này sẽ gây thiệt hại nhất định thậm
chí rất lớn cho chủ thể liên quan. Nếu với trường hợp chia tài sản của vợ chồng
trong thời kỳ hơn nhân pháp luật có quy định về vô hiệu ở Điều 42 Luật hôn nhân
và gia đình thì ở chia tài sản khi ly hơn lại khơng có quy định vơ hiệu. Vì vậy để
đảm bảo tính cơng bằng thì việc thỏa thuận, định đoạt tài sản của vợ chồng cũng
cần thiết áp dụng vô hiệu.
Với nguyên tắc chủ đạo là chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố để xác định,
thì việc xác định các yếu tố này về phần khác nhau, tỉ lệ đều phụ thuộc vào việc
Thẩm phán đánh giá và tồn quyền quyết định, vì thế rất nhiều trường hợp mang ý
chí chủ quan, có những vụ cùng tính chất nhưng các thẩm phán có quan điểm khác
nhau và áp dụng khác nhau. Thêm vào đó thực tế khơng phải thẩm phán nào cũng
có chun mơn, nghiệp vụ cao nên việc giải quyết cịn thiếu cơng bằng. Đồng thời
hiện tại về việc xác định này chưa có văn bản hướng dẫn về việc đánh giá cụ thể về
tỉ lệ như thế nào và gần như khơng có án lệ về việc giải quyết tỉ lệ phân chia như
thế nào nên thực tế việc xảy ra nhiều ý kiến trái chiều về quyết định thẩm phán vẫn

đang diễn ra rất nhiều.
Việc khó khăn nhất trong việc áp dụng nguyên tắc chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hơn chính là việc xác định các yếu tố khác để chia. Chúng ta có thể
thấy rõ khó khăn này qua 2 yếu tố tiêu biểu là cơng sức đóng góp của vợ, chồng
vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng
trong gia đình được coi như lao động có thu nhập và lỗi của mỗi bên trong vi phạm
quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Về nguyên tắc xem xét yếu tố “Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc
tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia
đình được coi như lao động có thu nhập”, việc xác định yếu tố này để chia thế nào
cho phù hợp là điều không hề đơn giản bởi hầu hết việc xác định “thu nhập và công


sức” là rất khó trên thực tế, nhất là khi 2 người vợ và chồng đang có mâu thuẫn và
tranh chấp. Vì vậy trên thực tế có thể thấy các trường hợp áp dụng yếu tố này để
xem xét và giải quyết là rất ít.
Hay một trong những quy định mới là xem xét yếu tố “lỗi” là một trong
những quy định quan trọng đảm bảo tính cơng bằng đặc biệt là người vợ cũng vẫn
chưa được áp dụng một cách phổ biến. Mặc dù theo thống kê tỉ lệ ngoại tình và bạo
lực gia đình ở nước ta chiếm tỉ lệ rất cao nhưng khi giải quyết vụ việc ly hơn thì
việc chứng minh cho các hành vi “lỗi” ở đây là rất khó, ví dụ như phổ biến là
trường hợp người bị thiệt thòi ở đây là người phụ nữ không biết cách để chứng
minh những hành vi mà người chồng đã gây ra như bạo lực gia đình thì họ nên xin
giấy chứng nhận của bệnh viện…Hơn nữa vẫn chưa có các hướng dẫn cụ thể về
cách xác định lỗi nên tòa án vẫn còn lúng túng trong việc áp dụng quy định này. Vì
vậy khi mà tịa án giải quyết, họ khơng thể chứng minh được lỗi của người kia, dẫn
đến việc tịa án khơng có căn cứ để áp dụng yếu tố lỗi và thực tế cho thấy tỉ lệ xử
chia đôi tài sản chung vẫn đang chiếm phần lớn.
Như vậy có thể thấy mặc dù nguyên tắc về chia tài sản chung của vợ chồng
trên thực tiễn đã khá đầy đủ nhưng việc áp dụng vẫn gặp phải nhiều vướng mắc và

khó khăn khi áp dụng.
3. Một số kiến nghị, giải pháp trong việc phân chia tài sản chung của vợ
chồng khi vợ chồng ly hôn
Để tránh trường hợp vợ chồng thỏa thuận chia tài sản nhằm thực hiện ý đồ
xấu như định đoạt để tẩu tán, phân tán tài sản chúng em kiến nghị xem xét bổ sung
quy định: Vợ chồng có nghĩa vụ kê khai toàn bộ tài sản chung và riêng của vợ,
chồng tại thời điểm vợ, chồng nộp đơn xin ly hơn tại Tịa án để bảo đảm việc phân
chia tài sản cơng bằng khi vợ, chồng có u cầu, ngăn ngăn chặn hành vi giấu
diếm, tẩu tán tài sản chung của vợ chồng trong quá trình giải quyết ly hơn. Ngồi
ra, có thể xem xét xử lý trường hợp một hoặc hai bên tẩu tán tài sản chung trước
khi ly hôn, tương tự như cơ chế phá sản doanh nghiệp.
Để tránh trường hợp lợi dụng nguyên tắc tự thỏa thuận về tài sản nhằm mục
đích xấu như là định đoạt để tẩu tán, phân tán tài sản chúng em nghĩ cần bổ sung
thêm điều luật về việc vô hiệu đối với trường hợp này như Điều 42 đối với trường
hợp chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân để đảm bảo tính cơng bằng.


Cần tăng cường đào tạo và nâng cao trình độ của đội ngũ thẩm phán để khi
giải quyết việc chia tài sản chung của vợ chồng nói riêng và giải quyết các tranh
chấp khác nói chung có kết quả cơng bằng, nhanh chóng phù hợp với pháp luật và
đạo đức xã hội. Từ đó củng cố niềm tin của người dân với Nhà nước.
Đối với trường hợp cần xem xét yếu tố “Cơng sức đóng góp của vợ, chồng
vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng
trong gia đình được coi như lao động có thu nhập” các nhà lập pháp cần đưa ra
những hướng dẫn cụ thể trong việc xem xét “cơng sức đóng góp, thu nhập” của vợ
chồng. Có như vậy mới đảm bảo được sự công bằng giữa quyền lợi của vợ, chồng
khi giải quyết chia tài sản khi ly hôn theo đúng tư tưởng mà các nhà lập pháp đặt
ra.
Đối với trường hợp xem xét “lỗi” như đã phân tích ở trên, chúng em thấy nên
có những hướng dẫn cụ thể về cách xác định “lỗi” để giúp tịa án có căn cứ để xác

định “lỗi” trong trường hợp này một cách nhanh chóng, hiệu quả và phù hợp. Đồng
thời nên kết hợp với các cơ quan ở địa phương phổ biến cho người dân để trong
những trường hợp này, người vợ, người chồng có thể đưa ra các chứng cứ chứng
minh cho lỗi của bên kia.

KẾT LUẬN
Với những quy định của pháp luật ta nhận thấy được ưu diểm và bất cập về
việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hơn nhân. Từ đó đặt ra được
những biện pháp khắc phục để giải quyết những vấn đề trên. Trên đây là bài tập
nhóm của nhóm em, bài làm khơng tránh được sự sai sót, mong thầy cơ và các bạn
đóng góp ý kiến để bài tập của nhóm em hồn thiện hơn. Em xin chân thành cảm
ơn.



×