Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TRÀNG TRONG VỢ NHẶT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.32 KB, 12 trang )

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT TRÀNG TRONG VỢ NHẶT
MỞ BÀI:
Nhiều lúc rảnh rỗi, ngồi suy nghĩ về nhân tình thế thái, tôi lại tự hỏi rằng: cuộc
đời con người vốn dĩ chỉ là một vòng lẩn quẩn với sinh lão bệnh tử, ai cũng giống ai,
ai rồi cũng sẽ chết, vậy thì mọi khổ đau lai vãng kiếp người có gì đáng phải bận tâm?
Thế nhưng, tơi đã nhầm. Chính bởi vì cuộc đời bắt đầu bằng chữ “sinh” và đặt dấu
chấm hết bằng một chữ “tử” . Nên theo lẽ tự nhiên, con người ai cũng có lịng ham
sống. Ham sống ở đây chẳng phải là vì sợ chết, mà đơn giản là vì ai cũng muốn có
một cuộc sống thật đủ đầy, ý nghĩa, trọn vẹn dù ngắn ngủi. Và vì thế,càng trong khổ
đau tăm tối,thì cái sức sống ấy, cái khao khát được vượt lên trên số phận ấy của con
người sẽ lại càng mãnh liệt. Trong văn học, “Tràng” chính là một nhân vật mà ở đó
Kim Lân đã xây dựng nên đại diện tiêu biểu cho những con người có sức sống diệu kì
và niềm tin mãnh liệt, những con người dù trong đau khổ đói khát, trong hoàn cảnh
cận kề cái chết “vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”, đặc biệt
là từ khi nhặt được vợ vào chiều hôm trước
Phân tích nhân vật Tràng trong truyện “Vợ nhặt” của Kim Lân
I. Mở bài::
Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt; nêu ý đồ sáng tác của tác giả; dẫn
dắt vào nhân vật Tràng.
II. Thân bài:
1. Câu chuyện nhặt vợ của Tràng được tác giả đặt trên nền một khung cảnh “tối
sầm vì đói khát”:
Người chết đói “nằm cịng queo bền vệ đường”, người đói từ các vùng “lũ lượt bồng
bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”. Khắp nơi “vẩn lên mùi ẩm thối
của rác rưởi và mùi gây của xác người”…
2. Phải cảm nhận được cảnh đói khát cùng cực ấy mới thấy hết sự “liều lĩnh”
trong hành động của Tràng:


– Anh nông dân nghèo khổ không khỏi cảm thấy “chợn” khi người đàn bà kia theo
về: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có ni nổi khơng, lại cịn đèo


bịng”. Nhưng niềm khao khát hạnh phúc đã lấn át nỗi sợ, nỗi lo.
– Sự kiện “nhặt vợ” đã mang đến những đổi thay lớn trong con người Tràng. Có lẽ
lần đầu tiên trong đời, anh con trai vụng về, thô kệch được biết đến cảm giác gắn bó,
yêu thương một “người dưng”. Trên con đường đưa cơ vợ nhặt về nhà, Tràng muốn
nói một lời tình tứ để làm thân mà khơng nói được, chỉ biết lúng túng “tay nọ xoa vào
vai kia”. Nhưng trong lòng Tràng trỗi dậy niềm vui sướng khiến anh ta “hình như
quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm
đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Lòng hắn bấy giờ chỉ cịn tình
nghĩa với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn
ơng nghèo khổ ấy, nó ơm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt
nhẹ trên sống lưng”…
– Cảm giác ngọt ngào, êm ái đó càng rõ nét hơn khi Tràng chứng kiến sự đổi thay
trong ngơi nhà “dúm dó, xiêu vẹo” của mình vào buổi sáng hơm sau:
+ Nhìn chỗ nào, Tràng cũng thấy mới mẻ, khác lạ: “Mấy chiếc quần áo rách như tổ
đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang
nước vẫn để khơ cong dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành
ngay lối đi đã hót sạch”.
+ Quan sát mẹ và vợ quét tước, dọn dẹp nhà cửa, Tràng bỗng thấy “thấm thìa cảm
động”. Bởi vì, cảnh tượng thật bình thường, đơn giản ấy chính là “bằng chứng” cho
một điều kì diệu: “Hắn đã có một gia đình”. Tràng bỗng thấy thương u, gắn bó với
cái nhà của hắn một cách lạ lùng vì bây giờ nó đã trở thành tổ ấm “Hắn sẽ cùng vợ
sinh con đẻ cái ở đây”. Tràng thực sự trưởng thành với ý thức về bổn phận của một
người đàn ơng trụ cột trong gia đình: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy
hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.
– Qua cách kể của Kim Lân, câu chuyện nhặt vợ tưởng là bi hài đã hóa thành khúc ca
về sức sống mãnh liệt trong tâm hồn người lao động:


+ Ngay trong đói khổ cùng cực – khi người ta ngỡ chỉ còn nghĩ được đến miếng ăn,
chỉ còn sống với nỗi lo âu về cái chết, thì Tràng vẫn khát khao được sống như một

con người thực sự.
+ Khát vọng hạnh phúc bình dị mà tha thiết, mãnh liệt ấy khiến người đọc không hề
bất ngờ khi ngồi bên mâm cơm ngày đói, Tràng chợt nghĩ đến những người đói đi phá
kho thóc của Nhật. Đó cũng là hình ảnh nhà văn chọn để kết thúc tác phẩm: “Trong
óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Nó gieo vào lịng
người đọc niềm tin rằng, trong dòng người “như nước vỡ bờ” của những ngày tháng
Tám năm 1945, khơng thể khơng có Tràng.
III. Kết bài:
– Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân đã khẳng định, ngợi ca khát vọng hạnh phúc,
niềm tin vào sự sống tiềm ẩn trong tâm hồn người lao động. Những phẩm chất quý
giá đó là “điểm sáng” ngời lên ngay giữa cuộc sống tăm tối, cùng khổ.
– Kim Lân quả thực là nhà văn của những thuần hậu nguyên thủy“một lịng đi, về với
đất với người”.
Tham khảo:
Phân tích nhân vật Tràng
Mở bài:
Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của nhà văn Kim Lân và của nền văn học hiện thực phê
phán. Lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945, Kim Lân đã phát hiện và ngợi
ca vẻ đẹp tình người. Trong đói khổ, đứng ở lằn ranh giữa sự sống và cái chết, con
người ta vẫn sẵn sàng cưu mang, đùm bọc lẫn nhau, hướng đến tương lai hạnh phúc.
Nhân vật Tràng là một trong ba nhân vật chính của truyện ngắn, cũng là chủ thể của
hành động nhặt vợ hi hữu và cảm động, Tràng đã được Kim Lân khắc họa tương đối
đậm nét trong cả ngoại hình, dáng vẻ, tâm trạng và tính cách.


Thân bài:


Tràng xuất hiện ngay từ đầu truyện ngắn với dáng vẻ thô tháp, vụng về của một anh
chàng xấu trai và hơi dở tính với khn mặt thơ kệch, đơi mắt gà gà đắm vào bóng

chiều. Sự ám ảnh của cái đói đã hiện rõ trong mỗi buổi chiều về khi Tràng không con
vừa đi vừa ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch nữa, bây giờ, hắn đi từng bước mệt mỏi,
chiếc áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước.
Tính cách Tràng bộc lộ rõ nhất trong tình huống nhặt vợ. Từ việc chia sẻ miếng ăn
với một người đàn bà đang đói khát đến việc nhặt vợ bị động, bất ngờ, Tràng đã thể
hiện những nét tính cách đầu tiên của con người liều lĩnh, chất phác, nhân hâu và hào
hiệp. Thoạt nhìn, việc mời một người đàn bà xa lạ giữa đường ăn bốn bát bánh đúc
ngay khi bản thân mình đang đói khổ có vẻ như bốc đồng và việc đưa thị về nhà làm
vợ có vẻ như liều lĩnh; nhưng cũng có thể thấy sâu xa trong sự bốc đồng là một tấm
lịng nhân hậu, một tính cách hào hiệp và sâu xa trong sự liều lĩnh khơng chỉ là tình
thương mà cịn là những khát vọng âm thầm về một tổ ấm gia đình.
Tràng đã hồn tồn ý thức được hồn cảnh của mình q đói nghèo, biết có ni được
thân mình khơng và thậm chí khi nghĩ đến sự đèo bòng, Tràng cũng thấy chợn, nhưng
rồi sau cái tặc lưỡi là một quyết định bất chấp tất cả để có một cuộc sống lứa đơi, một
mái ấm gia đình, một người vợ, dẫu có là vợ nhặt! Cái liều lĩnh của tràng đầy tính
nhân bản, và xét cho cùng, nó là cội nguồn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
Vẻ đẹp trong tâm hồn, tính cách và cả nỗi bất hạnh trong thân phận Tràng đã được
Kim Lân thể hiện sinh động qua diễn biến tâm trạng và hành động của anh ta khi
nhặt vợ.
Sau quyết định bất ngờ, đột ngột của chính mình, Tràng vẫn ngờ ngợ….sờ sợ…..,
khơng tin nổi mình đã lấy được vợ một cách quá dễ dàng, chóng vánh đến thế, lại
trong một tình cảnh đói khát éo le đến thế, khơng thể tin nổi mình – một anh chàng
từng nói một cách thản nhiên: Làm đếch gì có vợ, nay bỗng nhiên lại có một người
vợ thực sự, thậm chí tới sáng hơm sau tỉnh dậy, Tràng vẫn ngờ ngàng như đang trong
một giấc mơ. Cảm giác ngạc nhiên đến mức tội nghiệp ấy là nét tâm lí chân thực của
một người đàn ơng q nghèo khổ, bất hạnh đến mức không dám tin vào hạnh phúc
bất ngờ của mình


Sau sự ngạc nhiên, lo lắng, Tràng bay bổng trong cảm giác hạnh phúc. Trên đường

đưa vợ về nhà, Tràng như trở thành một con người khác hẳn: Mặt hắn có vẻ gì phớn
phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh – hạnh
phúc như một thứ ánh sáng kì diệu từ bên trong tâm hồn Tràng, rạng ngời trên khuôn
mặt đang nở ra vì sung sướng, trong ánh mắt lấp lánh khơng kiềm chế được niềm hân
hoan. Trước những tị mị, ngạc nhiên phỏng đoán của dân làng, Tràng càng hãnh
diện, sung sướng, hắn lấy vật làm thích ý lắm, cái mặt cứ vênh vênh tự đắc.
Kim Lân đã miêu tả thật tinh tế và trìu mến cảm giác hạnh phúc tràn ngập trong lịng
người đàn ơng nghèo khổ: Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối
hàng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những ngày trước mặt.
Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ơm ấp,
mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng. Buổi
sáng đầu tiên khi có vợ. Tràng thức dậy với cảm giác êm ái, lửng lơ như người vừa ở
trong giấc mơ đi ra, thậm chí anh cịn thấy xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi
mới mẻ, khác lạ. Tràng mơ ước hạnh phúc, liều lĩnh vì hạnh phúc và cuối cùng anh đã
tìm thấy hạnh phúc ngay trong tận cùng đói khát, khổ đau.
Hạnh phúc đã làm Tràng biến đổi sâu sắc. Từ anh con trai vô tâm, ngộc nghệch
trước đây nay đã nên người, đã trở thành một người đàn ơng sống có trách nhiệm ,
nghĩa tình.
Sự biến đổi đầu tiên của Tràng được thể hiện trong thái độ đối với người vợ nhặt. Khi
dẫn vợ về nhà, Tràng đã thấy trong lòng hắn bấy giờ chỉ cịn tình nghĩa giữa hắn với
người đàn bà đi bên… Với Tràng, người đàn bà khốn khổ, đói khát, lăn xả vào hắn để
kiếm miếng ăn, bám chặt lấy hắn để chạy trốn cái đói tuyệt nhiên không phải vợ theo,
vợ nhặt mà là người vợ thực sự theo đúng ý nghĩa thiêng liêng nhất. Vì thế, dù nghèo
khổ, Tràng cũng muốn đánh dấu cái ngày đặc biệt trọng đại trong cuộc đời mình,
muốn thể hiện sự trân trọng với vợ bằng một lần được coi thường đồng tiền, một lần
được xa xỉ với hai hào dầu cho sáng sủa trong ngày đón vợ về. Từ việc làm có vẻ hơi
bốc đồng khi mua cho vợ cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một
bữa thật no nê trước khi về nhà, đó là thái độ trân trọng cuộc sống, cũng là sự trân



trọng hạnh phúc của chính mình, đó cũng là cách ứng xử chu đáo, nghiêm túc của
một con người đã thực sự trưởng thành.
Vốn vô tâm, bộc tuệch, vậy mà bây giờ, Tràng cứ băn khoăn, áy náy đến xót xa vì vẻ
buồn bã của vợ khi thị ngồi bần thần trong gian nhà lạ rúm ró. Có tới hai lần. Tràng tự
hỏi: Sao nó buồn thế nhỉ? Sao hơm nay nó buồn thể nhỉ? Có lẽ sâu xa trong lịng
mình, Tràng cũng phần nào hiểu được ngun nhân nỗi buồn tủi, chua xót của người
vợ mới đang thất vọng, bẽ bàng khi nhận thức sâu sắc tình cảnh thê thảm của cả hai
người. Nỗi xót xa của Tràng vì thế khơng chỉ là tình thương và sự quan tâm mà đã
hàm chứa cảm giác có lỗi của một người chồng ý thức được trách nhiệm của mình
với gia đình, vợ con mà lực bất tòng tâm. Tràng đã bồn chồn lo lắng chờ mẹ về, đã
giới thiệu người vợ nhặt với mẹ một cách trân trọng, thậm chí hàm ơn: Nhà tơi nó
mới về làm bạn với tơi…, Tràng đã thở phào nhẹ nhõm trước câu nói đầu tiên của mẹ,
câu nói chấp nhận người vợ mình nhặt về một cách đường đột, éo le – đó là những
trạng thái tâm lí chân thực và cảm động thể hiện thái độ trân trọng cùng tình thương
yêu của Tràng với người đàn bà mới sáng nay vẫn còn xa lạ, cịn từ bây giờ gắn bó
với hắn suốt đời.
Sự biến đổi của Tràng cịn thể hiện qua tình cảm, thái độ đối với cuộc sống gia đình.
Trong buổi sáng hơm sau thức dậy, Tràng đã thấm thía cảm động trước cảnh tượng
đầm ấm của gia đình khi nhìn thấy mẹ và vợ cùng thu dọn nhà cửa, sân vườn. Ngôi
nhà sạch sẽ, quang quẻ, những đống rác mùn trong sân đã được hót gọn, dây quần áo
vắt khươm mươi niên được phơi hong khô ráo, hai cái ang khô cong bây giờ nước
đầy ăm ắp… đó là hình ảnh của sự sống, là cái sinh khí mới mẻ của một mái ấm gia
đình mà lần đầu tiên Tràng được cảm nhận. Khơng khí ấy khiến Tràng thấy mình như
trưởng thành, với những ý thức sâu sắc về tình cảm, bổn phận, trách nhiệm: Bỗng
nhiên, hắn thấy hắn thương yêu gắn bó….lạ lùng với cái tổ ấm nơi hắn sẽ cùng vợ
sinh con đẻ cái…bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải
lo lắng cho vợ con sau này.
Thậm chí, khơng dừng lại trong cảm giác vui sướng, phấn chấn khi được sống trong
sự ấm áp của khơng khí gia đình, cũng khơng dừng lại trong những ý nghĩ về bổn



phận, trách nhiệm với vợ con sau này, ngay lập tức, Tràng muốn biến cảm xúc và ý
thức thành những hành động cụ thể, Tràng muốn biến cảm xúc và ý thức thành những
hành động cụ thể, Tràng đã bừng thức, một sức sống mới mẻ tràn ngập trong lòng
người đàn ông đang sống bên vực thẳm của cái chết.
Biến đổi lớn lao, mới mẻ nhất của Tràng được Kim Lân miêu tả trong chi tiết: khi
nghe vợ kể về những đồn người đói rách đi theo Việt Minh phá kho thóc Nhật,
Tràng có cảm giác tiếc rẻ vẩn vơ – cảm giác của Tràng cho thấy từ nay, khi có một
gia đình phải lo, chắc chắn Tràng sẽ khơng bao giờ bỏ lỡ cơ hội đến với cách mạng,
đi theo cách mạng để lo miếng cơm, manh áo cho vợ con. Và ở cuối truyện, ngay khi
Tràng đang cố nuốt miếng cháo cám đắng chát vào miệng thì hình ảnh lá cờ đỏ bay
phấp phới trong tâm trí Tràng vẫn đem lại niềm tin sâu sắc cho người đọc: những
người như Tràng sẽ đến với cách mạng một cách tích cực, nhanh chóng, triệt để nhất
bởi chỉ có cách mạng mới có thể giúp họ thay đổi cuộc đời, mới có thể đem lại hạnh
phúc và cuộc sống ấm no cho gia đình, vợ con họ.


Kết bài:

Từ câu chuyện phá kho thóc mà người vợ nhặt kể và hình ảnh đám người đói, lá cờ
đỏ trong suy nghĩ của Tràng là những dấu hiệu của cuộc cách mạng, khiến người đọc
có thể tin tưởng vợ chồng Tràng sẽ có mặt trong đoàn người vùng lên tổng khởi
nghĩa. Tư tưởng nhân đạo hướng về quần chúng lao động, khẳng định phẩm chất và
sức sống bền bỉ của họ, đặt niềm tin vào những khát vọng bình dị mà chân chính để
sống, khát khao tình thương và sự gắn bó, nương tựa vào nhau đã cho họ niềm tin để
sống.

Tác phẩm “Vợ nhặt” được trích trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Truyện được viết
ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau
khi hịa bình lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm có ba nhân vật

chính là anh cu Tràng,người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Mỗi một nhân vật đều để lại cho


người đọc một ấn tượng khó phai về một kiếp người trong bối cảnh đại nạn của dân
tộc – nạn đói năm 1945.
Mở đầu tác phẩm “Vợ nhặt” là bức tranh ngày đói. Một bức tranh với đầy đủ
những nét đau thương, khốn cùng. Một bức tranh khiến người đọc phải rùng mình
xúc động vì những gì mà đồng bào ta phải trải qua trong những năm tháng đấu tranh
chống giặc ngoại xâm.Người sống thì “lũ lượt dắt díu, bồng bế nhau lên xanh xám
như những bóng ma”,dưới những gốc đa,gốc gạo xù xì, ”bóng những người đói đi lại
dật dờ lặng lẽ như những bóng ma”. Người sống mà tác giả lại mang ra so sánh với
những “bóng ma”, vậy là đủ hiểu cuộc sống của họ giờ đây chỉ là tạm bợ, cầm chừng,
là ngàn cân treo sợi tóc. Người sống là vậy, cịn người chết thì “như ngả rạ, không
một sáng nào đi làm đồng hoặc đi chợ người ta lại không thấy ba bốn cái thây người
nằm cịng queo ở bên vệ đường”. Khơng gian đặc một mùi tử khí nồng nặc, cõi âm
lăm le chỉ trực lấn át cõi dương. Khi mà cái chết đang dần thắng thế sự sống, liệu con
người có vì bất lực mà buông xuôi bản thân, bỏ mặc cho số phận đưa đẩy?
Nhưng khơng, dù trong đói khổ lay lắt, những nhân vật của Kim Lân vẫn mang
trong mình một sức sống diệu kì. Nhân vật Tràng của Kim Lân là một người nơng
dân ngụ cư xấu xí, nghèo khổ, làm nghề đẩy xe bò thuê. Anh sống với mẹ già, trong
một gia cảnh nghèo túng,cái được gọi là nhà thì ln “vắng teo đứng rúm ró trên
mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Với vài nét phác họa giản đơn, Tràng
hiện lên có phần giống với những thằng đần, thằng ngốc trong cổ tích. Cái lưng thì to
bè như “lưng gấu”, cái mặt thì ấn tượng bởi “hai con mắt nhỏ tý gà gà. Quai hàm
bạnh”. Tính cách lại có phần trẻ con nhiều hơn. Vì thế chẳng mấy ai thèm nói
chuyện,trừ lũ trẻ vẫn hay chọc ghẹo mỗi khi anh đi làm về.Thế nhưng, đằng sau cái
vẻ ngồi xấu xí, nghèo khổ ấy, Tràng lại là một người có phẩm chất hiền lành, tốt
bụng, anh sẵn sàng đùm bọc, cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng
khiếp-đó chính là nhân vật thị, cũng là người “vợ nhặt” của anh sau này. Nhân vật thị,
một người phụ nữ không tên không tuổi,không quê hương, không quá khứ. Phải

chăng nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt nổi cho thị một cái tên? Hay tác
giả muốn thơng qua đó xây dựng nên một hình tượng có tính quy luật, hình tượng của


những con người vô danh,những cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, lập lờ khơng biết
ngày mai sẽ trơi dạt về đâu? Và với một mục đích nào đó, nhà văn đã để thị trôi dạt
vào cuộc đời của Tràng.Thị xuất hiện trước mặt Tràng vừa bằng ngoại hình vừa bằng
tính cách của một con người năm đói. Chân dung của thị hiện lên với những nét
“khơng dễ nhìn”. Đó là một người phụ nữ gầy vêu vao, ”áo quần tả tơi như tổ đỉa”,
”khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hốy”. Cái đói đã khiến
thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn. Thế nhưng, nguy
hiểm hơn, cái đói khơng chỉ tàn hại dung nhan thị, mà cịn tàn hại cả tính cách, nhân
phẩm của thị. Vì đói, vì khổ mà thị trở thành một người phụ nữ “chao chát”, ”chỏng
lỏn”, ”chua ngoa”, ”đanh đá”. Thị “cong cớn”, ”sưng sỉa” khi giao tiếp với một người
con trai là Tràng, sẵn sàng đòi ăn cho bằng được để lấp đầy cái bụng rỗng còn hơn là
việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Khi được Tràng cho ăn “thị sà
xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trị gì”. Thị rõ ràng
đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên cả nhân cách. Thậm chí, thị sẵn sàng
cho khơng bản thân mình cho một người đàn ơng xa lạ. Giá một người đàn bà “Ba
trăm một mụ đàn bà/ Mang về mà giải chiếu hoa cho ngồi” giờ lại “đại hạ giá” xuống
chỉ còn bốn bát bánh đúc. Nhưng thị không đáng trách, ta chỉ thấy thị thật đáng
thương. Giá trị con người năm đói thật rẻ mạt.
Và thế là, chỉ bằng một câu hò vu vơ, bốn bát bánh đúc, anh cu Tràng đã có
một người vợ. Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện thật độc đáo. Khơng ngờ
trong cái tình cảnh đói nghèo khổ cực ấy, người ta có thể dễ dàng lấy được vợ. Khơng
ngờ trong cái tình cảnh đói nghèo khổ cực ấy, người ta vẫn nghĩ đến việc lấy vợ. Đấy
chính là cái cách mà Kim Lân thổi vào nhân vật của ơng một sức sống diệu kì. Anh
cu Tràng sau khi có vợ, bỗng dưng như trở thành một con người khác. Một người
nông dân cục mịch, hiền lành nay đã trở nên tinh tế hơn khi dắt người vợ của mình
vào chợ “mua cho thị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt” vì ai lại để thị tay

khơng về nhà bao giờ. Tuy đã có lúc anh “chợn nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình
cũng chả biết có ni nổi khơng, lại cịn đèo bịng” nhưng rất nhanh sau đó, niềm
hạnh phúc đã lấn át đi nỗi lo sợ vẩn vơ ấy. Bởi “trong một lúc Tràng hình như quên
hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe dọa,


quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ cịn tình nghĩa giữa
hắn và người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn
ơng nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt
nhẹ dọc sống lưng”. Ai bảo đói nghèo thì người ta khơng thể có quyền được hạnh
phúc? Ai bảo trong hoàn cảnh cận kề cái chết người ta không được phép hướng tới sự
sống, tới tương lai?. Việc Tràng lấy vợ chính là biểu hiện của sự lạc quan, luôn hướng
tới những điều tốt đẹp bất chấp hoàn cảnh, số phận. Riêng về người vợ nhặt, sức sống
diệu kì của thị lại càng làm người đọc cảm động hơn nữa. Thị theo Tràng về nhà nào
phải vì bản tính thị lẳng lơ. Thị theo tràng về nhà chính là đi theo tiếng gọi của sự
sống. Thị muốn sống, ham sống, khao khát được sống. Dù trên bờ vực của cái chết,
người đàn bà ấy vẫn không hề có ý định bng xi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên
trên cái thảm đạm để xây dựng mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị quả
thật là một phẩm chất rất đáng quý.
Vì đâu mà những con người bé nhỏ ấy lại có được một sức sống diệu kì đến
vậy? Đó chính là nhờ niềm tin mãnh liệt của họ vào sự sống. Khi biết con mình đã có
vợ, bà cụ Tứ một phần hờn tủi vì chưa thể làm trịn trách nhiệm của một người
mẹ,một phần xót thương,lo lắng cho tương lai của con,nhưng bằng sự từng trải của
người mẹ, bà cũng khuyên nhủ,động viên con những điều chí tình, đơn hậu, tràn đầy
niềm lạc quan. Triết lý “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời” từ ngàn xưa nay được sống dậy
và đầy lạc quan nơi người mẹ nghèo khổ ấy. Bà đã mang lại hơi ấm cho cả nhà: “Nhà
ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông
giời cho khá…Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Chất chứa trong
câu nới ây của bà là niềm tin về cuộc sống phía trước.Khơng tàn lụi,khơng mất niềm
tin là đức tính quý báu của nhân dân ta mà tiêu biểu đó là bà cụ Tứ. Sau đêm tân

hơn,tâm trạng của cả ba nhân vật đều thay đổi theo một chiều hướng tích cực. Anh cu
Tràng đã trở nên có trách nhiệm, chín chắn hơn “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu
gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con
đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Còn người vợ nhặt, thị cũng
thay đổi so với những lần mà Tràng gặp ngoài chợ tỉnh: “Tràng nom thị hôm nay
khác lắm, rõ rang là người đàn bà hiền hậu, đúng mực khơng cịn vẻ gì chao


chát,chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Bà cụ Tứ cũng trở nên tươi
tỉnh nhẹ nhõm khác ngày thường,”cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hản lên”. Bà
cùng người con dâu dậy sớm dọn dẹp, thu vén nhà cửa những mong chào đón một
cuộc sống vui vẻ,ấm no hơn. Trong hoàn cảnh bấy giờ, có được một niềm tin như vậy
quả thực thật đáng quý biết bao! Câu chuyện kết thúc bằng hình ảnh của những người
nghèo đói “ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp” và đằng trước là “lá cờ đỏ thắm” đó cũng
chính là con đường sống mà tác giả mở ra cho những con người đang đứng trên bờ
vực của cái chết, là dòng nước mát lành sẽ gội sạch sự u ám chết chóc của bức tranh
nạn đói năm 1945.
Đọc “Vợ nhặt”, thấy được sức sống diệu kì và niềm tin mãnh liệt của con
người vào sự sống ,ta lại mơ hồ liên tưởng đến truyện ngắn “hai đứa trẻ” của Thạch
Lam. Ở nơi đó,nơi bối cảnh phố huyện tiêu điều cũng có những con người bé nhỏ
dưới đáy xã hội đang cố sức đưa tay với lấy sự sống. Họ là hai chị em Liên từng có
một cuộc sống vui vẻ ở chốn phồn hoa thị thành, là bác phở Siêu với ngon đèn trên
gánh hàng cứ tầm tối là xuất hiện, là vợ chồng bác hát xẩm, là bà cụ Thi điên, là mẹ
con chị Tý với ngọn đèn dầu leo lét nơi hàng quán tạm bợ. Ngọn đèn dầu leo lét chỉ
chực tắt ngấm như số phận của những người dân nơi đây. Thế nhưng, cũng giống như
Tràng, như người vợ nhặt, như bà cụ Tứ, họ chưa bao giờ ngừng hướng về tương lai,
về sự sống. Hình ảnh đồn tàu mang ánh sáng của một cuộc sống hiện đại, của một
“thế giới khác”, khát khao được nhìn thấy đồn tàu cũng chính là cái khao khát được
đổi đời của người dân nơi đây. Ánh sáng đồn tàu chỉ vụt sáng như một ngơi sao bắng
qua nơi tối tăm lạnh lẽo này nhưng lại mang theo bao hi vọng,bao ước mơ, bao niềm

tin về một sự đổi khác. Những con người Việt Nam, dù không ở trong cùng một hồn
cảnh, nhưng sức sống diệu kì và niềm tin mãnh liệt vượt lên số phận của họ đã được
các nhà văn phát hiện,trân trọng và ngợi ca.
Kim Lân đã thực sự tạo ra được một tác phẩm mang tính nhân văn sâu sắc và
khác biệt đúng như với mong muốn của ông: “Khi viết về con người năm đói người
ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết.Tôi muốn viết một truyện
ngắn với ý khác.Trong hoàn cảnh khốn cùng,dù cận kề bên cái chết nhưng những con


người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở
tương lai”.



×