Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.05 KB, 30 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
-------

BÀI THU HOẠCH
MƠN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN

Tên đề tài:

“CHỨC NĂNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA HIỆN NAY”

Người thực hiện : Lê Minh Trí
Mã số học viên : FF200856
Lớp
: Hồn chỉnh chương trình CCLLCC,
hệ KTT K71-C11 (2020-2021)

quan
cơng
tác
:
Sở Lao động – Thương
DANH MỤC TỪ Đảng
VIẾTủyTẮT
binh và Xã hội Tp. Hồ Chí Minh

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2020


Stt



TỪ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐẦY ĐỦ

1.

KTTT

Kinh tế thị trường

2.

NSLĐ

Năng suất lao động

3.

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

4.

XHCN

Xã hội chủ nghĩa



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1..........................................................................................................2
CHỨC NĂNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM.................2
1.1. Nhận thức chung về chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN...............................................................2
1.1.1. Kinh tế thị trường................................................................................2
1.1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.................................2
1.1.3.Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.....................................................................................3
1.2. Những chức năng của quản lý Nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam...........................................................4
1.2.1. Tạo lập môi trường..............................................................................5
1.2.2. Định hướng, hướng dẫn......................................................................7
1.2.3. Tổ chức................................................................................................8
1.2.4. Điều tiết...............................................................................................8
1.2.5. Kiểm tra và xử lý vi phạm...................................................................8
Chương 2............................................................................................................10
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ NỀN KINH TẾ ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY..........................10
2.1. Vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam...........................................................................10
2.2. Một số thành tựu và hạn chế của quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.......................................13
2.2.1. Thành tựu..........................................................................................13
2.2.2. Một số hạn chế..................................................................................15


Chương 3............................................................................................................19

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM....................................................................19
3.1. Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến quản lý nhà nước
.........................................................................................................................19
3.2. Một số giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay........................21
KẾT LUẬN........................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................26


1

MỞ ĐẦU
Lịch sử đã chứng minh rằng, các nền kinh tế thị trường thành công nhất
đều không thể phát triển một cách tự phát nếu thiếu sự can thiệp và hỗ trợ của
Nhà nước. Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng dưới tác động bên ngoài ngày
một phức tạp nên sự can thiệp của Nhà nước xuất hiện như một yêu cầu tất
yếu cho sự hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa: “Theo đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh
tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại
và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Cụ thể hơn, Nhà nước đóng vai trị
định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh
tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà

nước và cơng cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã
hội trong từng bước, từng chính sách phát triển cũng như phát huy vai trò làm
chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, tơi chọn đề tài
“Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường theo
định hướng Xã hội chủ nghĩa hiện nay” làm đề tài tiểu luận kết thúc mơn
Kinh tế chính trị Mác-Lênin của mình.


2

CHƯƠNG 1
CHỨC NĂNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
1.1. Nhận thức chung về chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
1.1.1. Kinh tế thị trường
Theo C. Mác, KTTT là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà
bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con
đường phát triển và nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị trường phát
triển đến trình độ phổ biến và hồn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền
kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế XHCN. Để chuyển
lên nấc thang này, nền KTTT phải phát triển hết mức, phải trở thành phổ biến
trong đời sống kinh tế - xã hội.
1.1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế đặc
thù trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Khái niệm nền
KTTT định hướng XHCN được khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng (năm 2001): “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định

hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đưa ra khái
niệm về kinh tế thị trường định hướng XHCN về cả nội hàm, mục tiêu và
cách thức thực hiện, đó là: “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của
kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện
đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ


3

nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
1.1.3. Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức, bằng pháp luật
và thơng qua hệ thống các chính sách với các công cụ quản lý kinh tế lên nền
kinh tế nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, trên cơ sở sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước trong điều kiện mở cửa và hội
nhập kinh tế quốc tế.
Trong quản lý nhà nước về kinh tế, Nhà nước sử dụng hệ thống các
công cụ cần thiết để thực hiện chức năng quản lý của mình như cơng cụ định
hướng (kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế ...), công cụ kinh tế,
tài chính tiền tệ (chính sách đầu tư, thuế, chi tiêu ngân sách, hệ thống ngân
hàng, lãi suất, tín dụng...), cơng cụ pháp lý (pháp luật, các văn bản pháp
quy...), các công cụ tổ chức và giáo dục...
Trước thời kỳ đổi mới kinh tế, Nhà nước ta quản lý nền kinh tế bằng cơ
chế kế hoạch hóa tập trung mang nặng tính hành chính, quan liêu, bao cấp. Cơ
chế quản lý này đã đưa đến sự thụ động, trơng chờ, khơng cần tính tốn hiệu

quả, phục tùng triệt để những quy định xơ cứng của cấp trên, thủ tiêu tính chủ
động, sáng tạo của cấp dưới, của các chủ thể kinh tế.
Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đã chủ trương phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
dựa trên việc sử dụng phương pháp quản lý bằng kinh tế là chủ yếu. Các đại
hội tiếp theo của Đảng tiếp tục cụ thể hóa đường lối phát triển kinh tế trên,
chủ trương phát triển nền kinh tế nước ta theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN. Quản lý nhà nước về kinh tế căn bản
được đổi mới về chức năng, nội dung và phương thức quản lý.


4

Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 (Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI) đã nêu rõ tiếp tục phát huy quyền tự do kinh doanh theo
pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng góp cho xã hội.
Mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia thị trường đều được coi trọng,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và văn
minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN là những hoạt động tổng quát nhất về phương diện quản lý
nền kinh tế mà Nhà nước phải thực hiện để đạt mục tiêu đã đề ra. Chức năng
quản lý nhà nước về kinh tế trả lời cho câu hỏi: Nhà nước phải làm những gì?
Chức năng đó do bản chất của Nhà nước, do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị,
kinh tế - xã hội của từng giai đoạn lịch sử quy định. Đồng thời, chức năng của
Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường là căn cứ để xác định các
nhiệm vụ cụ thể, là cơ sở khách quan để xây dựng hệ thống bộ máy quản lý
nhà nước về kinh tế và bố trí cán bộ, cơng chức quản lý kinh tế cho phù hợp.
Chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là căn cứ để đánh giá, khen thưởng, kỷ luật các tổ chức và cá

nhân cán bộ, công chức trong hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế.
Chức năng quyết định vị trí, mối quan hệ của mỗi tổ chức và cá nhân cán bộ
công chức trong hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế.
1.2. Những chức năng của quản lý Nhà nước về kinh tế trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Nội dung cụ thể của các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không cố định mà có vận
động, phát triển cho phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của các giai đoạn. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nhấn mạnh các chức
năng quản lý nhà nước về kinh tế trong kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là:


5

“Nhà nước tạo mơi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh
nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và chính sách kết hợp với sử dung lực lượng vật chất của Nhà nước để
định hướng phát triển kinh tế - xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất
nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, kiểm
soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
Trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã nêu: “Nhà nước quản lý điều
hành nên kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết
trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường”.
Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “Nhà nước đóng vai trị định
hướng, xây dựng và hồn hiện thể chế kinh tế, tạo mơi trường cạnh tranh bình
đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính sách và các nguồn
lực của Nhà nước để định hướng và điều tiến nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong
từng bước, từng chính sách phát triển”1

Như vậy, theo tinh thần Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII
có thể khái quát thành 5 chức năng quản lý nhà nước về kinh tế ở nước ta hiện
nay như sau: tạo lập môi trường; định hướng, hướng dẫn; tổ chức; điều tiết;
kiểm tra và xử lý các vi phạm. Tùy theo yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị
và kinh tế - xã hội của từng giai đoạn mà việc sắp xếp thứ tự ưu tiên và nội
dung cụ thể của các chức năng có thể thay đổi.
1.2.1. Tạo lập mơi trường

Các doanh nghiệp và tồn bộ nền kinh tế chỉ có thể hoạt động tốt khi có
mơi trường thuận lợi. Bằng quyền lực và sức mạnh kinh tế của mình. Nhà
nước có trách nhiệm chính trong việc xây dựng và bảo đảm mơi trường thuận
lợi, bình đẳng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, đồng thời cịn bảo đảm
mơi trường phù hợp cho chính cơ chế mới đang hình thành, phát triển và phát
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016, tr.103


6

huy tác dụng. Có nhiều loại mơi trường, trong đó bao gồm các mơi trường
chính sau:
Một là, xây dựng mơi trường chính trị ổn định, thật sự phát huy các
nguồn lực và sáng tạo của nhân dân, của các doanh nghiệp. Xây dựng hệ
thống pháp luật ổn định, thuận lợi, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế
thị trường và hội nhập quốc tế, thực thi pháp luật phải nghiêm minh, xây dựng
mơi trường văn hóa pháp luật cho mọi công dân, mọi tổ chức…
Hai là, xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế vận
động và phát triển thuận lợi. Hệ thống kết cấu hạ tấng có ý nghĩa sống cịn với

nền kinh tế, bao gồm nhiều loại như: hệ thống giao thông đường bộ, đường
sắt, đường không, sân bay, bến cảng, điện; nước, kết cấu hạ tầng văn hóa, xã
hội, kết cấu hạ tầng thông tin…
Ba là, xây dựng môi trường văn hóa xã hội phù hợp với nền kinh tế thị
trường, xã hội ngày càng tôn trọng và tôn vinh nghề kinh doanh và người kinh
doanh.
Bốn là, bảo đảm môi trường an ninh trật tự, kỷ luật, kỷ cương, mọi cá
nhân và tổ chức đều phải tuân thủ pháp luật. Nhà nước phải bảo vệ những
doanh nghiệp và doanh nhân hoạt động đúng pháp luật.
Năm là, xây dựng và hoàn thiện môi trường thông tin. Nhà nước phải là
trung tâm cung cấp thông tin tin cậy nhất cho các doanh nghiệp một cách
thường xuyên, kịp thời và chính xác…
Tất cả những môi trường, điều kiện cần thiết không thể thiếu được
không chỉ cho hoạt động kinh tế mà còn cho sự phát triển toàn diện của một
quốc gia cả về kinh tế, văn hóa, xã hội. Khi có các điều kiện, mơi trường
thuận lợi thì các nhà kinh doanh mới có thể yên tâm bỏ vốn đầu tư và phát
triển kinh doanh thuận lợi, ổn định, đồng thời q trình đó tiếp tục bồi đắp,
phát triển môi trường ngày càng cao hơn, phát triển xã hội ngày càng toàn
diện và văn minh hơn.


7

Với chức năng này, nhà nước có vai trị như một bà đỡ giúp cho các cơ
sơ sản xuất kinh doanh phát triển, đồng thời bảo đảm các điều kiện tự do, bình
đẳng trong kinh doanh. Nói cách khác, nhà nước có chức năng tạo ra các dịch
vụ cơng về mơi trường chính trị, pháp lý, an ninh, thủ tục quản lý, điều kiện
kinh doanh, thơng tin, an tồn xã hội... Trong cơ chế thị trường, muốn có một
mơi trường sản xuất - kinh doanh ổn định, tiến bộ, cần phải có bàn tay của
Nhà nước từ việc ban hành và bảo đảm thi hành pháp luật đến bảo đảm các

điều kiện và nguyên tắc cơ bản như quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh,
xử lý tranh chấp theo pháp luật, bảo đảm một xã hội phát triển lành mạnh, có
văn hóa.
1.2.2. Định hướng, hướng dẫn
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước định hướng xã
hội chủ nghĩa, nhà kinh doanh và các tổ chức kinh tế được tự chủ kinh doanh
nhưng không thể nắm được hết tình hình và xu hướng vận động của thị
trường, do đó thường chạy theo thị trường một cách bị động, dễ gây ra thua
lỗ, thất bại và đổ vỡ, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Hơn nữa, Nhà nước
còn phải định hướng nền kinh tế phát triển theo quỹ đạo và mục tiêu kinh tế xã hội đã được Đảng và Nhà nước định ra cho mỗi giai đoạn. Do đó, Nhà
nước có chức năng định hướng phát triển kinh tế và hướng dẫn các nhà kinh
doanh, các tổ chức kinh tế hoạt động hướng đích theo các mục tiêu chung của
đất nước. Nhà nước định hướng và hướng dẫn bằng các công cụ như chiến
lược, quy hoạch, chính sách, kế hoạch, thơng tin và các nguồn lực cùa Nhà
nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để thực hiện
chức năng định hướng, hướng dẫn, Nhà nước không can thiệp thô bạo bằng
mệnh lệnh hành chính vào nền kinh tế thị trường mà chủ yếu sử dụng cách
thức và phương pháp tác động gián tiếp, theo các nguyên tắc của thị trường.
Cách thức tác động gián tiếp mang tính chất mềm dẻo, uyển chuyển, vừa bảo


8

đảm tính tự chủ của các chủ thể kinh tế, vừa thực hiện mục tiêu chung.
1.2.3. Tổ chức
Nhà nước phải sắp xếp, tổ chức lại các ngành, các lĩnh vực, các vùng
kinh tế quan trọng, trong đó có sắp xếp, củng cố lại các tập đồn, tổng cơng ty
nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức các khu công nghiệp, khu chế
xuất, các đặc khu hành chính - kinh tế... Đây là những công việc nhằm tạo cơ

cấu kinh tế hợp lý.
Nhà nước phải bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế thị trường như
cân đối tổng cung - tổng cầu, cân đối xuất khẩu - nhập khẩu, cân đối thu - chi
ngân sách... bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô của nền kinh tế thị trường.
Nhà nước phải bảo hộ và bảo vệ cho các chủ thể kinh doanh đúng pháp
luật, can thiệp vào nền kinh tế thị trường khi có những biến động lớn như
khủng hoảng, suy thối kinh tế...
Nhà nước có trách nhiệm tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan quản lý của
nhà nước về kinh tế từ Trung ương đến cơ sở, đổi mới thể chế và thủ tục hành
chính, đào tạo và đào tạo lại, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà
nước và quản lý doanh nghiệp nhà nước, thiết lập mối quan hệ kinh tế với các
nước và các tổ chức quốc tế...
1.2.4 Điều tiết
Trong khi điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước vừa phải tuân thủ và vận dụng các quy luật khách quan đảm
bảo cho kinh tế phát triển ổn định, cơng bằng và có hiệu quả. Để điều tiết,
Nhà nước phái sử dụng hệ thống các cơng cụ, bao gồm cả các cơng cụ mang
tính hành chính và kinh tế. Các cơng cụ phổ biến thường được sử dụng là
thuế, tín dụng… Phạm vi, mức độ sử dụng các công cụ để điều tiết phụ thuộc
vào từng hoàn cảnh, lĩnh vực cụ thể…
1.2.5. Kiểm tra và xử lý vi phạm
Nhà nước thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm


9

nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, phát hiện và ngăn
ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật, sai phạm chính sách, bảo vệ tài sản
quốc gia và lợi ích của nhân dân, góp phần tăng trường kinh tế và từng bước
thực hiện công bằng xã hội.

Kiểm tra, kiểm sốt ln là hoạt động quan trọng của Nhà nước, ở Việt
Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường mới phát triển, thậm chí cịn sơ
khai, tình trạng rối loạn, tự phát, vơ tổ chức và các hiện tượng tiêu cực cịn
khá phổ biến, có nơi, có lúc rất trầm trọng và phức tạp, càng cần phải đề cao
chức năng của Nhà nước kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm đối với các chủ
thể kinh tế tham gia thị trường, đồng thời cũng kiểm tra, kiểm sốt, xử lý vi
phạm của chính các cơ quan và cán bộ, công chức quản lý kinh tế của Nhà
nước.
Hiện nay, các chức năng của Nhà nước phải thể hiện và bảo đảm thật sự
là Nhà nước kiến tạo, Nhà nước phục vụ doanh nghiệp, phục vụ nhân dân,
Nhà nước phải khích lệ, hỗ trợ, bảo hộ và bảo vệ cho các chủ thể kinh tế, cho
nhân dân kinh doanh đúng pháp luật.


10

Chương 2
VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ NỀN KINH TẾ
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong quản lý nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có những điểm tương đồng với các nhà nước
khác trong quản lý nền kinh tế thị trường, thể hiện ở việc thực hiện các mục
tiêu quản lý kinh tế vĩ mô cơ bản như: bảo đảm sự ổn định của nền kinh tế;
thực hiện công bằng xã hội; bảo đảm tăng trưởng nhanh và bền vững của toàn
bộ nền kinh tế...
Ngồi những vai trị chung đã nêu, Nhà nước Việt Nam hiện nay cịn có
các vai trị cụ thể:
- Khắc phục khuyết tật của thị trường. Nền kinh tế thị trường dù phát

triển ở trình độ cao vẫn có những hạn chế, khuyết tật, tự nó khơng khắc phục
được mà cần phải có vai trị của nhà nước. Nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta lại đang trong quá trình hình thành, phát triển vì
vậy những hạn chế, khuyết tật càng lớn và ảnh hưởng nặng nề, Nhà nước phải
dùng các công cụ, thực lực kinh tế mạnh để hạn chế, khắc phục những khuyết
tật đó.
- Hỗ trợ thị trường: Thị trường càng phát triển thì càng văn minh, hiện
đại, thị trường ở trình độ càng thấp sẽ càng sơ khai, yếu kém. Chúng ta
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch, chỉ huy sang nền kinh tế thị trường, q trình
chuyển đổi đó là một cuộc cách mạng sâu sắc và toàn diện, nếu cứ để tự phát
sẽ rất chậm và phải trả giá lớn. Nhà nước phải tác động mạnh mẽ và hiệu quả
để hỗ trợ thị trường phát triển ngày càng đầy đủ hơn, trình độ cao hơn, tốc độ
phát triển nhanh hơn.
- Định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường. Nhà nước


11

là một trong những nhân tố quyết định mục tiêu, tốc độ của quá trình chuyển
đổi, quyết định định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Nền
kinh tế thị trường là thành tựu của nhân loại, khơng tự nó đi lên chủ nghĩa xã
hội, mà phát triển trong quá trình nhận thức, phấn đấu rất cao của toàn xã hội
dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đó là q trình chuyển đổi
đặc biệt, chưa từng có trong lịch sử. Một mặt, đó là quá trình chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch chỉ huy tập trung (kỳ thị, tẩy chay thị trường) sang nền
kinh tế thị trường; mặt khác là quá trình phát triển theo xu hướng xã hội chủ
nghĩa. Hơn nữa, sự chuyển đổi lại đặt trong bối cảnh của toàn cầu hóa, thế
giới đang bước sang giai đoạn phát triển nền kinh tế tri thức và cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường đã
rất khó khăn, định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường cịn khó

khăn hơn, đòi hỏi sự nỗ lực rất cao của Nhà nước.
- Định hướng và thực hiện hội nhập ngày càng sâu, rộng, hiệu quả vào
nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế nước ta đã và đang hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và thế giới, đồng thời sẽ tiếp tục hội nhập sâu, rộng, hiệu quả hơn
nữa. Quá trình này đòi hỏi phải xác định đắn mục tiêu, lộ trình, cách thức,
bước đi cũng như sự chuẩn bị nội lực cho q trình hội nhập. Ở đây có vai trò
rất lớn của Nhà nước.
- Thực hiện nhà nước kiến tạo, phục vụ nhân dân, phục vụ doanh
nghiệp. Nhà nước ta do lịch sử để lại, nhiều năm quản lý nền kinh tế theo
cách thức cũ, năng về điều hành mọi hoạt động của nền kinh tế. Hiện nay,
Nhà nước đang chuyển mạnh từ nhà nước điều hành sang nhà nước kiến tạo,
lấy phục vụ nhân dân, phục vụ doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu của Nhà
nước.
Trong quá trình đổi mới, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước không hề
bị suy giảm mà ngày càng tăng lên. Cần nhận thức rằng, tăng cường vai trò
của Nhà nước trong quản lý kinh tế khơng có nghĩa là Nhà nước nắm tất cả,


12

can thiệp vào tất cả mọi hoạt động kinh tế mà Nhà nước phải nắm những lĩnh
vực, những khâu, thực hiện những công việc quan trọng nhất mà thị trường và
nhân dân không làm được, biết sử dung cơ chế thị trường một cách khôn
khéo, hiệu quả để phục vụ cho mục tiêu quản lý của mình, biết phát huy
những mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế đó.
Để nhận thức đầy đủ hơn vai trị của Nhà nước Việt Nam hiện nay, cần
thấy rõ Nhà nước có vai trị trên hai phương diện, hai tư cách khác nhau trong
quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một là, với tư cách lả bộ máy hành chính, bộ máy kiến tạo, Nhà nước
phải quản lý toàn diện tất cả mọi mặt của đời sống kinh tế và xã hội như: văn

hóa, giáo dục, y tế, chính trị, quân sự, đối ngoại..., trong đó quản lý kinh tế là
trọng tâm. Lúc này, Nhà nước sử dụng pháp luật, chính sách, các cơng cụ
quan trọng khác để quản lý nền kinh tế. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế kể cả doanh nghiệp nhà nước hoạt động bình đẳng trước pháp
luật.
Hai là, Nhà nước Việt Nam đại diện cho toàn dân, thực hiện quyền sở
hữu đối với tài sản công như: tài nguyên, đất đai, vùng trời, vùng biển, nguồn
lực dự trữ, các tập đồn, tổng cơng ty nhà nước và các doanh nghiệp nhà
nước… Lúc này, Nhà nước đóng vai trị như chủ sở hữu, chủ đầu tư tham gia
hoạt động trong nền kinh tế thị trường như một chủ thể kinh tế lớn.
Với tư cách là bộ máy hành chính, bộ máy kiến tạo, nếu Nhà nước
khơng hồn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình thì tồn bộ nền kinh tế
thị trường sẽ khơng phát triển được, thậm chí cịn trở thành yếu tố cản trở sự
phát triển, càng không thể định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị
trường.
Với tư cách là đại diện cho toàn dân, Nhà nước quản lý một lượng rất
lớn tài sản quốc gia, nếu quản lý khơng tốt sẽ gây lãng phí, thất thoát lớn, vừa
thiệt hại về kinh tế, vừa làm suy giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà


13

nước, nghiêm trọng hơn nữa là giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà
nước.
Trong bối cảnh hiện nay, vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế ở
Việt Nam hết sức quan trọng và nặng nề, Nhà nước phải liên tục hồn thiện
phương pháp, cơng cụ và kỹ thuật điều hành nền kinh tế thị trường đang hình
thành lại đặt trong điều kiện mới của hội nhập quốc tế và đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời phải đảm bảo định hướng xa hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường. Một mơ hình kinh tế chưa từng có tiền lệ

trong lịch sử. Nhà nước phải huy động cao nhất mọi nguồn lực trong xã hội,
mọi sự sáng tạo trong nhân dân, trong doanh nghiệp vào phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
2.2. Một số thành tựu và hạn chế của quản lý Nhà nước đối với nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.2.1 .Thành tựu
Qua hơn 30 năm đổi mới, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết Trung
ương 6 khố X, Đảng ta ln quan tâm tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
rút ra các bài học kinh nghiệm, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển,
góp phần quan trọng đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành
quốc gia có thu nhập trung bình, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo
đảm an sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, bảo vệ môi
trường sinh thái, củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả đối ngoại,
hội nhập quốc tế.
Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong những năm qua, chúng ta đã giải
quyết tốt mối quan hệ nhà nước, xã hội và thị trường trong các hoạt động
quản lý nhà nước. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) giai đoạn
2016-2019 đạt khá cao, ở mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm 2020 kinh tế


14

chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19, nhưng tốc độ tăng trưởng
bình quân 5 năm 2016 - 2020 ước đạt khoảng 5,8% và thuộc nhóm các nước
tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới.
Năng suất lao động của Việt Nam có sự cải thiện đáng kể theo hướng
tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động cao
trong khu vực ASEAN. Năng suất lao động toàn nền kinh tế theo giá hiện

hành năm 2019 đạt 110,5 triệu đồng/lao động (tương đương 4.792 USD/lao
động), theo giá so sánh (năm 2010) tăng 6,28%, giúp duy trì mức tăng NSLĐ
tồn xã hội bình qn giai đoạn 2016-2019 đạt 5,8%/năm, cao hơn so với mức
tăng bình quân 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015. Hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư thể hiện qua chỉ số ICOR đang dần được cải thiện, từ mức 6,42 năm
2016 năm 2018. giảm xuống còn 6,11 năm 2017 và là 5,97 năm 2018.
Đến hết năm 2018, Việt Nam hiện có khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo, tăng gần gấp đôi so với số liệu năm 2015. Với sự
phát triển mạnh mẽ của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, trong năm
2020, dù ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 nhưng đã có 33 quỹ đầu tư trong
nước và quốc tế đã cam kết giá trị đầu tư vào doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo Việt Nam trị giá 815 triệu USD. Báo cáo về xếp hạng Chỉ số đổi
mới sáng tạo toàn cầu năm 2018 cho thấy, Việt Nam tiếp tục cải thiện vị trí,
giữ vị trí thứ 42 trong bảng xếp hạng đổi mới sáng tạo tồn cầu, giữ vị trí số
một trong nhóm 29 quốc gia cùng mức thu nhập. Việt Nam cũng thuộc tốp 50
nền kinh tế đạt được tiến bộ đáng kể nhất trong bảng xếp hạng theo thời gian.
- Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ngày càng đầy đủ hơn; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng
bước hình thành, có nhiều đặc điểm của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập. Hệ thớng pháp ḷt, cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện và phù
hợp hơn với luật pháp quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực
hiện cam kết hội nhập quốc tế. Chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế, loại


15

hình doanh nghiệp phát triển đa dạng. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản được
thể chế hoá tương đối đầy đủ. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế
được nâng lên. Việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước được đẩy mạnh; kinh tế tập thể được quan tâm đổi mới; kinh

tế tư nhân ngày càng được coi trọng; đội ngũ doanh nhân không ngừng lớn
mạnh; thu hút vốn đầu tư nước ngồi đạt được kết quả tích cực.
- Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ
hơn, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Hầu hết các loại giá hàng hoá,
dịch vụ được xác lập theo cơ chế thị trường. Môi trường đầu tư, kinh doanh
được cải thiện và thông thống hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh
bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm
hơn.
- Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa
dạng về hình thức, từng bước thích ứng với ngun tắc và chuẩn mực của thị
trường toàn cầu. Việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn
với cơ chế thị trường. Các cơ chế, chính sách đã chú trọng kết hợp giữa phát
triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người
dân tham gia và nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế. Phương
thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Nhà nước từng bước được đổi mới
phù hợp hơn với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
2.2.2. Một số hạn chế
Nghị quyết Trung ương 5 ngày 03 tháng 6 năm 2017 của Ban Chấp
hành Trung ương khóa XII về hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã chỉ rõ: quản lý nhà nước chưa đáp ứng kịp yêu cầu
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, hiệu lực,hiệu quả chưa cao;
kỷ luật, kỷ cương không nghiêm, cụ thể, Đảng ta đã nhìn nhận:
Thứ nhất, thể chế quản lý nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị


16

trường vẫn cần tiếp tục được hoàn thiện. Nhiều vấn đề mới phát sinh mà hoạt
động quản lý nhà nước chưa dự liệu, chưa tạo ra hành lang pháp lý cần thiết

để quản lý. Các vấn đề phát sinh trong quản lý doanh nghiệp FDI, những yếu
kém của các tập đoàn kinh tế nhà nước cho thấy khung thể chế về kinh tế thị
trường chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Các hạn chế của khung thể chế ở Việt Nam có thể nhận thấy ở các khía
cạnh: tính cụ thể, tính dự báo trước trong các quy định chính sách cần tiếp tục
được cải thiện, năng lực xây dựng pháp luật chưa hoàn toàn đáp ứng yêu cầu
của sự phát triển đời sống xã hội; nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật ngày
càng cao của xã hội; nhu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế, tính khả thi và hiệu quả của pháp luật cịn thấp, tình trạng văn bản
thiếu tính khả thi vẫn tồn tại, làm giảm niềm tin của người dân, doanh nghiệp
vào tính nghiêm minh của pháp luật. Văn bản hướng dẫn chậm được ban
hành, làm chậm quá trình triển khai thực hiện.
Thứ hai, nhịp độ tăng trưởng của Việt Nam tương đối cao nhưng chưa
thực sự tương xứng với tiềm năng, thực lực hiện có.Hoạt động quản lý nhà
nước chưa tạo ra thể chế đủ sức hấp dẫn để thu hút nguồn lực đầu tư cho phát
triển. Thu ngân sách nhà nước vẫn chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố bên
ngoài, các khoản thu từ tài nguyên, các khoản thu đặc thù và các khoản thu
phát sinh do yếu tố khách quan dẫn đến một số năm không đạt dự tốn. Chính
sách thu cịn chưa bao qt hết các khoản như thu từ hoạt động thương mại
(bán hàng qua mạng), từ quản lý tài nguyên, môi trường, tài sản…
Việc huy động nguồn lực từ đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài sản nhà
nước hiệu quả chưa cao, chưa đáp ứng được nguồn lực phục vụ phát triển
kinh tế-xã hội; vẫn cịn tình trạng thất thu ngân sách nhà nước do gian lận,
chuyển giá; nợ đọng thuế làm ảnh hưởng tới tỷ lệ huy động thu ngân sách nhà
nước…
Thứ ba, vấn đề phân bổ ngân sách cho phát triển vẫn cịn những khó


17


khăn. Trong giai đoạn 2011-2019, nguồn lực dành cho đầu tư của khu vực nhà
nước mang tính ngắn hạn và còn bị động. Trong những năm gần đây nguồn
lực nhà nước dành cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng nhưng tính bình
qn thì giai đoạn 2011-2019, tỷ trọng chi đầu tư phát triển chỉ đạt khoảng
20%, có xu hướng giảm so với giai đoạn 2006-2010 (28%). Hiệu quả đầu tư
vốn nhà nước chưa cao, còn lấn át đầu tư tư nhân, nghĩa là đầu tư công gia
tăng khiến đầu tư tư nhân thu hẹp lại. Tỷ trọng đầu tư công vào các ngành xã
hội như giáo dục, y tế, hay ngành nơng, lâm, thủy sản cịn khá thấp và có xu
hướng giảm…
Thứ tư, tăng trưởng ở Việt Nam hiện nay còn chủ yếu trên chiều rộng,
trên cơ sở gia tăng các yếu tố đầu vào như tăng cường đầu tư vốn và sử dụng
nhiều lao động, trong khi việc đổi mới công nghệ, cải tiến sản xuất, quản lý,
nâng cao trình độ cơng nhân (gọi chung là các nhân tố tổng hợp – TFP) còn
rất hạn chế dù đã được cải thiện tích cực qua các năm. Đóng góp của TFP ở
Việt Nam hiện nay mới đạt khoảng 40% và vốn vẫn là yếu tố đóng góp xấp xỉ
50% vào số điểm phần trăm tăng trưởng năm 2016, dẫn tới mơ hình tăng
trưởng vẫn mang đặc trưng thâm dụng vốn.
Thứ năm, thực tế nền kinh tế nước ta vẫn cịn nhiều “điểm nghẽn” ở
tiến trình cổ phần hố, thoái vốn tại doanh nghiệp nhà nước, chậm triển khai
các dự án, cơng trình trọng điểm quốc gia, doanh nghiệp có vốn mỏng, “tín
dụng đen” vẫn hồnh hành, cải thiện môi trường kinh doanh chưa theo kịp với
thực tiễn của đời sống kinh tế và vẫn còn rủi ro trong ứng phó với những
thách thức từ bên ngồi.
Thứ sáu, nhiều vấn đề của nền kinh tế thị trường chưa được luận giải và
quản lý có hiệu quả. Các biện pháp xử lý đối với hoạt động chuyển giá của
một số doanh nghiệp FDI, việc lợi dụng kẽ hở trong các quy định của luật liên
quan đến nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa Made in Vietnam… đang làm giảm
niềm tin của người dân vào hàng hóa trong nước, ảnh hưởng đến nguồn thu



18

ngân sách nhà nước.
Nguyên nhân của tình trạng này đã được chỉ rõ: Nhận thức về nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa đủ rõ. Tư duy bao cấp còn ảnh
hưởng nặng nề. Năng lực xây dựng và thực thi thể chế còn nhiều bất cập,
chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc quán triệt, tổ
chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
ở các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu thiếu quyết liệt, hiệu quả thấp và
chưa nghiêm.
Vai trò, chức năng, phương thức hoạt động của các cơ quan trong hệ
thống chính trị chậm đổi mới, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường trong điều kiện hội nhập quốc tế.Sự suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên làm giảm hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước.


19

Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ KINH TẾ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
3.1. Tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến quản lý
nhà nước
Một là, về đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với đặc trưng của công nghệ vật lý,
công nghệ số, công nghệ sinh học… xích lại gần nhau, liên kết, giao thoa,
hình thành nên những cơng nghệ mới giúp nâng cao năng suất lao động, hiệu

quả hoạt động của con người tăng nhanh. Sự hiện hữu của vạn vật kết nối,
giao thoa thực - ảo, điện toán đám mây, liên kết chuỗi (blockchain) và trí tuệ
nhân tạo đã tạo nền tảng cho sự vận động và phát triển các quan hệ kinh tế,
quan hệ xã hội, quan hệ quốc tế… theo hướng thông minh, tốc độ cao, năng
suất lao động cao.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng mang đến sự thay đổi về
phương thức giao tiếp, năng lực kiểm tra, giám sát của các chủ thể trong xã
hội hiện đại ở các cấp độ người dân - doanh nghiệp - chính phủ - các tổ chức
chính trị, tổ chức xã hội, nghề nghiệp, giữa các quốc gia.
Trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ưu thế trong đời sống
kinh tế, xã hội thuộc về các cá nhân, tổ chức, quốc gia có tri thức, năng lực
sáng tạo về ứng dụng công nghệ mới, đồng thời nguy cơ bị “bỏ rơi”, “bỏ lại
phía sau” càng cao đối với nhóm cịn lại. Phân hóa xã hội về kinh tế, chênh
lệch về trình độ phát triển của các vùng, miền của một quốc gia và giữa các
quốc gia đang dần bắt nguồn từ sự chênh lệch về tri thức, sáng tạo, khả năng
thích ứng với cơng nghệ hiện đại (thay vì ưu thế truyền thống về vốn, tài
nguyên, vị trí địa lý, nhân công giá rẻ…).


20

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang đến cơ hội phát triển, nhưng
cũng đặt ra những vấn đề mới về an ninh, quốc phòng, đặc biệt những vấn đề
an ninh phi truyền thống. Những hình thức tội phạm mới theo đó cũng được
hình thành và phát triển. Điều này đòi hỏi cần đổi mới tư duy chiến lược về an
ninh, quốc phòng, cần tập trung phát triển nhân lực an ninh, quốc phịng chất
lượng cao, phát triển cơng nghiệp quốc phịng, phát triển khoa học và cơng
nghệ qn sự, đủ năng lực triển khai các loại hình tác chiến chiến lược, nhất
là trong các môi trường trên không, trên bộ, trên biển và không gian mạng…
Hai là, những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến

quản lý nhà nước.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động mạnh mẽ đến đời sống
kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, trong đó có lĩnh vực quản lý nhà nước. Sự
thay đổi về đối tượng quản lý, khách thể quản lý, phạm vi quản lý đòi hỏi
quản lý nhà nước cần phải thực sự thích ứng, thậm chí đi trước một bước
trong các hoạt động quản lý.
Thể chế quản lý nhà nước cần phải được đổi mới để tạo hành lang pháp
lý thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, phát triển các sản phẩm số hóa, trí tuệ nhân tạo,
quản lý các giao dịch trên môi trường số, quản lý thông minh, quản lý điện tử.
Cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư địi hỏi bộ máy quản lý nhà
nước cần phải thực sự tinh gọn, với khả năng đưa ra những quyết định kịp
thời trên nền tảng dữ liệu đủ mạnh, được chia sẻ. Đó là nền hành chính điện
tử thời gian thực mà độ trễ của chính sách được giảm xuống tối đa.
Nhân sự quản lý nhà nước cũng đối mặt với thách thức về năng lực.
Quản lý nhà nước khơng thể là q trình quản lý sáng tạo nếu những cán bộ,
công chức - chủ thể quản lý không phải là những chủ thể sáng tạo, năng động,
có tầm nhìn, biết nhận ra cơ hội và biết lường trước những thách thức để có
thể tham gia có hiệu quả vào q trình quản trị nhà nước.


21

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm phát sinh những vấn đề mới và
làm thay đổi bản chất của những vấn đề cũ đòi hỏi quản trị nhà nước phải
nâng tầm để thực hiện chức năng quản trị. Vấn đề chênh lệch giàu nghèo
trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với sự chênh lệch về tri
thức, sáng tạo. Những người có tri thức, kỹ năng thấp hơn có xu hướng sẽ bị
bỏ rơi xa hơn trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong khi đó,
những người có tri thức, sức sáng tạo sẽ bứt phá ngày càng xa hơn không phải
cấp số cộng mà sớm trở thành cấp số nhân. Quản trị nhà nước phải lường

trước được điều này để đưa ra những giải pháp, để những người chưa có đủ tri
thức và kỹ năng khơng bị bỏ lại bên lề của q trình phát triển, tạo ra khả
năng thích ứng với những nghề nghiệp mới khi những nghề nghiệp cũ sẽ sớm
mất đi trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
3.2. Một số giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay
Một là, các cơ quan quản lý nhà nước cần tích cực tìm ra điểm nghẽn
trong tiến trình phát triển thơng qua việc lắng nghe các ý kiến từ xã hội, từ
cộng đồng doanh nghiệp, các diễn đàn trao đổi, các ý kiến tư vấn, gợi ý chính
sách... Thể chế quản lý nhà nước cần đảm bảo huy động và quản lý có hiệu
quả các nguồn lực cho phát triển, đặc biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên,
nguồn đầu tư tài chính, nguồn ngân sách nhà nước… Cần hoàn thiện thể chế
phân bổ nguồn lực đầu tư cho phát triển thực sự hiệu quả, khắc phục sự đầu tư
dàn trải, đầu tư mà cơ sở xác định hiệu quả chưa thực sự rõ ràng. Sự phân bổ
nguồn lực cho phát triển cần dựa vào tín hiệu của thị trường, cải thiện khả
năng tiếp cận tín dụng của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiếp cận vốn của
nơng dân, các nhóm thiểu số trong xã hội.


×