Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Bài tập thảo luận dân sự lần hai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.72 KB, 24 trang )

VẤN ĐỀ 1. THỰC HIỆN CƠNG VIỆC KHƠNG CĨ ỦY QUYỀN
Nghiên cứu:
- Khoản 3 Điều 275, Điều 574 đến Điều 578 BLDS 2015 (khoản 3 Điều 281, Điều 594
đến Điều 598 BLDS 2005) và các quy định liên quan (nếu có);
- Tình huống: Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành xây dựng một cơng
trình cơng cộng. Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà không nêu rõ trong
hợp đồng B đại diện A và cũng khơng có ủy quyền của A trong khi đó, theo quy định, B
khơng được tự ký hợp đồng với C vì đây là công việc của chủ đầu tư A (thực tế Ban quản
lý dự án B khơng có nhiều tài sản để thanh toán cho C).
Và cho biết:
Câu 1. Thế nào là thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền?
Trả lời:
Căn cứ theo Điều 574 BLDS 2015 thì: “Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là
việc một người khơng có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện
cơng việc đó, vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện khi người này không biết
hoặc biết mà khơng phản đối.”
Như vậy, ta có thể hiểu, theo quy định của pháp luật thì thực hiện cơng việc khơng
có ủy quyền là việc một người tự ý thực hiện cơng việc của người khác, vì lợi ích của
người khác mà không dựa trên cơ sở hợp đồng thực hiện cơng việc đó. Người được thực
hiện cơng việc khơng biết hoặc biết nhưng khơng phản đối.
Ví dụ: Ơng C và ơng D là hàng xóm của nhau. Một hơm, sau khi ơng C phơi đồ
ngồi sân thì phải đi ra ngồi do có việc gấp cần phải giải quyết, khơng có nhà. Nhưng
hơm đó đột nhiên trời mưa, ơng D thấy vậy, chạy qua sân nhà ông C đem đồ của ông C
vào nhà để tránh đồ của ông C bị ướt.
Câu 2. Vì sao thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là căn cứ là phát sinh
nghĩa vụ dân sự?
Trả lời:
Căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự là những sự kiện xảy ra trong thực tế,
được pháp luật dân sự dự liệu, thừa nhận là có giá trị pháp lý, làm phát sinh quan hệ
nghĩa vụ dân sự.
Việc quy định chế định này tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa người thực hiện cơng


việc và người có cơng việc được thực hiện; nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo
quyền lợi của người thực hiện công việc cũng như đối với người có cơng việc được thực
hiện.
Do đó, thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là căn cứ làm phát sinh Nghĩa vụ
dân sự. Và trong thực tế cũng có các trường hợp thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền,
BLDS 2005 đã dự liệu điều này tại:


-

Chương XIX: Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền;
Khoản 7 Điều 13: Căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự là thực
hiện khơng có ủy quyền;
Khoản 3 Điều 281: Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là thực hiện cơng
việc khơng có ủy quyền.
BLDS 2015 quy định điều này tại:

-

Chương XVIII: “Thực hiện công việc khơng có ủy quyền”;
Khoản 3 Điều 275: “Căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là Thực hiện
không có ủy quyền”.

Ví dụ: Bà A và bà B là hàng xóm. Một hơm, bà C đến mua rau nhà bà A nhưng bà
A do có cơng việc đột xuất nên khơng có mặt ở nhà. Do đó, bà B đã thay mặt bà A bán
cho bà C bó rau:
Trường hợp 1: Việc bà B thực hiện công việc không có ủy quyền cho bà A (bán
rau) khơng gây phương hại và làm phát sinh lợi ích cho bà A. Bởi thế, việc bà A có nghĩa
vụ trả cơng cho bà B bằng tài sản hay bất cứ hình thức nào khác đều phù hợp với quy
định của pháp luật. Chiếu theo Khoản 1 Điều 576 BLDS 2015.

Trường hợp 2: Bà B bán bó rau cho bà C với giá thấp hơn bà A dự tính. Do đó,
gây thiệt hại cho bà A. Vì vậy, bà B phải bồi thường cho bà A theo Điều 577 BLDS
2015.
Câu 3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực
hiện cơng việc khơng có ủy quyền”.
Trả lời:

MỤC ĐÍCH CỦA NGƯỜI THỰC HIỆN CƠNG VIỆC
BLDS 2005

BLDS 2015

Điều 594 BLDS 2005:
“Thực hiện cơng việc khơng có uỷ
quyền là việc một người khơng có nghĩa
vụ thực hiện cơng việc nhưng đã tự
nguyện thực hiện cơng việc đó, hồn
tồn vì lợi ích của người có cơng việc
được thực hiện khi người này không biết
hoặc biết mà không phản đối.”

Điều 574 BLDS 2015:
“Thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền là việc một người khơng có nghĩa
vụ thực hiện cơng việc nhưng đã tự
nguyện thực hiện cơng việc đó vì lợi ích
của người có cơng việc được thực hiện
khi người này khơng biết hoặc biết mà
không phản đối.”



Nhận xét:
Điều 574 BLDS 2015 đã kế thừa gần như tồn bộ quy định tại Điều 594
BLDS 2005 chỉ có khác biệt là quy định tại Điều 574 BLDS 2015 bỏ đi từ “hoàn
toàn” để mở rộng phạm vi điều chỉnh của Điều 574 BLDS 2015.
BLDS 2005 quy định thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền là “hồn tồn
vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện” – “hồn tồn” có nghĩa nhấn
mạnh là vì lợi ích của một người. Cho nên việc thực hiện công việc đó phải hồn
tồn vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện, khơng có mục đích khác.
Trong khi đó, BLDS 2015 lại quy định: “Thực hiện cơng việc đó vì lợi ích
của người có cơng việc được thực hiện”, “vì lợi ích” của người có cơng việc được
thực hiện khơng cịn là “hồn tồn” như được quy định trong BLDS 2005, nên có
thể hiểu vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện nhưng cũng có thể vì mục
đích khác. Tuy nhiên việc thực hiện cơng việc này khơng được làm trái với lợi ích
của người có cơng việc được thực hiện và các chủ thể khác.

CHỦ THỂ
BLDS 2005

BLDS 2015

Khoản 3 Điều 595 BLDS 2005:
“Người thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền phải báo cho người có cơng việc
được thực hiện về q trình, kết quả
thực hiện cơng việc nếu có u cầu, trừ
trường hợp người có cơng việc đã biết
hoặc người thực hiện cơng việc khơng
có ủy quyền khơng biết nơi cư trú của
người đó”

Khoản 4 Điều 595 BLDS 2005:
“Trong trường hợp người có cơng việc
được thực hiện chết thì người thực hiện
cơng việc khơng có ủy quyền phải tiếp
tục thực hiện cơng việc cho đến khi

Khoản 3 Điều 575 BLDS 2015:
“Người thực hiện công việc khơng có ủy
quyền phải báo cho người có cơng việc
được thực hiện về q trình, kết quả
thực hiện cơng việc nếu có u cầu, trừ
trường hợp người có cơng việc đã biết
hoặc người thực hiện cơng việc khơng
có ủy quyền không biết nơi cư trú hoặc
trụ sở của người đó.”
Khoản 4 Điều 575 BLDS 2015:
“Trường hợp người có cơng việc được
thực hiện chết, nếu là cá nhân hoặc
chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân thì


người thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền phải tiếp tục thực hiện công việc
người thừa kế hoặc người đại diện của cho đến khi người thừa kế hoặc người
người có cơng việc được thực hiện đã đại diện của người có cơng việc được
tiếp nhận”
thực hiện đã tiếp nhận”
Nhận xét:
BLDS 2005 khơng quy định rõ người có cơng việc là cá nhân hay pháp nhân
nhưng với việc các nhà lập pháp sử dụng từ “chết” ở Khoản 4 Điều 595 BLDS

2005, chúng ta có thể ngầm hiểu rằng chủ thể được nhắc đến trong chế định này chỉ
là cá nhân. Trong khi đó, BLDS 2015 đã cụ thể hóa chủ thể, bao gồm cả cá nhân và
pháp nhân, được bổ sung ở Khoản 3 Điều 575 BLDS 2015 với cụm từ “nếu là cá
nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân”.
Sự bổ sung này là hợp lý vì người có cơng việc có thể là cá nhân hoặc pháp
nhân. Hơn nữa, đối với pháp nhân, khái niệm “chết” khơng tồn tại mà thay vào đó
là “chấm dứt tồn tại”. Điều này làm rõ hơn nghĩa vụ thực hiện công việc không
được ủy quyền, đảm bảo được quyền của của chủ thể có cơng việc được thực hiện
hơn so với BLDS 2005 cũng như mở rộng phạm vi chủ thể. Đây là một sự thay đổi
phù hợp với thực tiễn giải quyết tranh chấp.
Ngoài ra, với một pháp nhân thì sẽ khơng tồn tại khái niệm “nơi cư trú” như
ở Khoản 3 Điều 595 BLDS 2005 mà là khái niệm “trụ sở”, tức nơi đặt cơ quan
điều hành của pháp nhân đó, nên Khoản 3 Điều 575 BLDS 2015 phải bổ sung
thêm cụm từ “trụ sở” để phù hợp với thực tế này.

ĐIỂM MỚI BỔ SUNG
BLDS 2005

BLDS 2015

Không quy định về điều này

Điều 686 BLDS 2015
“Các bên được thỏa thuận lựa chọn pháp
luật áp dụng cho việc thực hiện cơng
việc khơng có ủy quyền. Trường hợp
khơng có thỏa thuận thì pháp luật áp
dụng là pháp luật của nước nơi thực hiện
cơng việc khơng có ủy quyền”


Nhận xét:
Phần 7 BLDS 2005 trước đây không quy định xung đột pháp luật (có nghĩa là
ấn định luật pháp nước nào cần áp dụng để giải quyết các quan hệ dân sự có yếu tố


nước ngồi mỗi khi có sự kiện pháp lý phát sinh cụ thể) đối với quan hệ nghĩa vụ
phát sinh từ việc thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền có yếu tố nước ngồi.
BLDS 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng nguyên tắc thoả thuận chọn luật đối với
quan hệ thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền. Việc mở rộng phạm vi áp dụng
của nguyên tắc thoả thuận chọn luật áp dụng là phù hợp với xu thế phát triển của tư
pháp quốc tế Việt Nam trong giai đoạn sắp tới, bởi lẽ nguyên tắc này đã được ghi
nhận rất rộng rãi trong pháp luật ở nhiều nước, đặc biệt là những nước đã ban hành
đạo luật riêng về tư pháp quốc tế.
Câu 4. Các điều kiện để áp dụng chế định “Thực hiện công việc không có ủy
quyền” theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
Trả lời:
Cơ sở pháp lý: Điều 574 BLDS 2015: “Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là
việc một người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc nhưng đã tự nguyện thực hiện
cơng việc đó vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện khi người này khơng biết
hoặc biết mà không phản đối.”
Căn cứ Điều 574 BLDS 2015 cần phải thỏa mãn các điều kiện sau mới được áp
dụng quy định pháp luật về thực hiện công việc khơng có ủy quyền:
(1) Người thực hiện là người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc đó.
Nghĩa vụ là gì?
Nghĩa vụ ở đây là nghĩa vụ pháp lý do luật định hoặc do các bên thỏa thuận với
nhau.
Trong thực tế có những trường hợp một người hồn tồn tự nguyện làm thay công
việc cho người khác trên tinh thần tương thân, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau, giữa họ khơng
có mối quan hệ pháp lý nào về cơng việc thực hiện. Công việc được thực hiện trong quan
hệ này khơng phải là một nghĩa vụ pháp lý có tính chất bắt buộc. Tức họ có thực hiện hay

khơng thực hiện cơng việc đó thì cũng khơng phải gánh chịu bất kỳ chế tài nào. Trước
thời điểm thực hiện cơng việc, giữa hai bên khơng có bất kỳ ràng buộc pháp lý hay thỏa
thuận nào. Trong BLDS 2015 hiện tại không quy định rõ về năng lực hành vi của người
thực hiện công việc nhưng trên thực tế người đó phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
phù hợp để thực hiện công việc không được ủy quyền mà khơng gây bất lợi có người có
cơng việc được thực hiện hoặc chủ sở hữu. Khi đã thực hiện thì người thực hiện phải có
thiện chí và phải tuân thủ quy định về Nghĩa vụ thực hiện công việc khơng có ủy quyền.


Ví dụ: Đang vụ mùa thu hoạch, thóc lúa phơi trên sân nhà anh A chưa kịp dọn vào
nhà, trời lại sắp mưa, và anh A hiện khơng có ở nhà. Trong hồn cảnh đó, anh B là hàng
xóm của A đã sang nhà thu dọn thóc giúp anh A.
Trong ví dụ này, A hồn tồn khơng hề biết rằng B đã thu dọn thóc lúa cho A. A
cũng khơng hề nhờ vả, hay thuê mướn B làm công việc trên, mà B đã tự nguyện thực
hiện công việc để bảo vệ vật chất của A không bị mất mát.
(2) Người thực hiện cơng việc hồn tồn tự nguyện khi thực hiện cơng việc.
Điều kiện này có thể được hiểu rằng, việc thực hiện cơng việc đó khơng phải là
nghĩa vụ bắt buộc của người thực hiện công việc. Người thực hiện công việc đã tự
nguyện thực hiện công việc dù pháp luật không quy định và chủ công việc khơng u
cầu. Nói cách khác, việc thực hiện cơng việc đối với người thực hiện cơng việc khơng có
ủy quyền hồn tồn khơng phải là nghĩa vụ do các bên thỏa thuận cũng như do pháp luật
quy định.
Ví dụ: A mượn tiền B, đến hạn A phải trả đủ tiền cho B. Tuy nhiên, A khơng có đủ
khả năng chi trả số nợ mà A đã nợ B; B cũng đã nhiều lần đến nhà đòi và yêu cầu A phải
nhanh chóng trả tiền, nếu khơng sẽ kiện ra tịa. C là bạn của A đã đứng ra thay A trả số
nợ đó cho B, vì nếu khơng A sẽ chịu sự trừng trị của pháp luật, đồng thời ảnh hưởng đến
danh dự. Vậy, mặc dù C khơng có nghĩa vụ phải trả nợ thay A nhưng vì lợi ích của A, C
đã tự nguyện thực hiện cơng việc đó.
(3) Việc thực hiện cơng việc phải vì lợi ích của người có cơng việc.
Trước khi tiến hành cơng việc, người thực hiện công việc phải ý thức được nếu

công việc đó khơng có ai thực hiện có thể gây thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc người có
cơng việc. Chủ sở hữu hoặc người có cơng việc sẽ mất đi một số lợi ích vật chất nhất
định. Người thực hiện cơng việc phải xuất phát từ lợi ích của người có cơng việc để thực
hiện những hành vi phù hợp. Tuy nhiên, khi thực hiện công việc mà biết trước hoặc đốn
được ý định của người có cơng việc thì phải thực hiện đúng ý định đó.
BLDS 2015 đã bỏ cụm từ “hoàn toàn” khi quy định về thực hiện cơng việc khơng
có ủy quyền: “Thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện”.
Nên có thể hiểu bên cạnh vì lợi ích của người có cơng việc, người thực hiện cơng việc
cũng có thể vì mục đích khác.
Ví dụ: Trong kì nghỉ hè, ông Hiếu đã tranh thủ thời gian đến thăm nhà con cháu và
ở lại 1 tháng. Trong thời gian ông Hiếu vắng nhà thì có bão về, chính quyền địa phương
đã ban hành thơng báo mọi người nhanh chóng thực hiện các biện pháp phòng chống bão.


Ơng Ngun là hàng xóm nhà ơng Hiếu để ý cây nhãn nhà ông Hiếu tán rộng chum qua
đường dây điện của cả xóm. Ơng Ngun sợ bão to nếu cành nhãn gãy có thể làm đứt dây
điện gây nguy hiểm nên ông Nguyên đành phải chặt hộ cành nhãn ở nhà ông Hiếu để
tránh nguy cơ cành nhãn gãy làm đứt dây điện. Nếu ông Nguyên không chặt cành nhãn
nhà ông Hiếu, khi cành nhãn làm đứt dây điện khơng chỉ gây nguy hiểm cho nhà ơng
Hiếu mà cịn cho nhà ơng Ngun và các nhà hàng xóm xung quanh.
(4) Người có cơng việc khơng biết hoặc biết mà không phản đối về việc thực hiện
công việc
Bản chất của việc thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là sự giúp đỡ người khác
vượt qua những khó khăn, tránh những thiệt hại khơng đáng có. Trong đó, người có cơng
việc có thể rơi vào hai trường hợp:
- Khơng có mặt tại nơi thực hiện công việc nên không thể thực hiện cơng việc đó.
- Có mặt và biết việc người khác thực hiện cơng việc có lợi cho họ – mà ngay tại
thời điểm đó họ khơng thể tự thực hiện cơng việc, thì phần lớn có thể sẽ khơng phản đối.
Tuy nhiên, trong trường hợp người có cơng việc phản đối, thì người thực hiện cơng
việc khơng được tiếp tục thực hiện nữa. Nếu cố tình thực hiện sẽ bị coi là vi phạm và phải

chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật tại Khoản 1 Điều 577 BLDS 2015.
(5) Việc thực hiện công việc phải thực sự cần thiết.
Thông thường, công việc được thực hiện mà khơng có ủy quyền là những cơng việc
có tính chất khẩn cấp và cần thiết cho việc bảo toàn các quyền lợi của người có cơng việc
được thực hiện.
“Sự cần thiết” thể hiện ở chỗ: Trước khi tiến hành công việc, người thực hiện công
việc phải ý thức được nếu cơng việc đó khơng có ai thực hiện có thể gây thiệt hại cho chủ
sở hữu hoặc người có cơng việc. Chủ sở hữu hoặc người có cơng việc sẽ mất đi một số
lợi ích vật chất nhất định. Người thực hiện cơng việc coi đó là bổn phận của mình và phải
xuất phát từ lợi ích của người có công việc để thực hiện những hành vi phù hợp.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp chủ thể thực hiện cơng việc mà người có cơng
việc khơng biết và làm phát sinh các chi phí mà người có cơng việc phải thanh tốn,
nhưng chính bản thân người có cơng việc khơng đồng ý vì họ khơng có mong muốn để
chủ thể khác thực hiện cơng việc thay mình. Do đó, chủ thể chỉ được thực hiện cơng việc
khơng có ủy quyền khi cảm thấy việc thực hiện đó thực sự cần thiết.


Kết luận: Nếu thỏa mãn được năm điều kiện trên đây sẽ được áp dụng chế định
thực hiện công việc khơng có ủy quyền. Nếu vi phạm một trong năm điều kiện trên thì
khơng được áp dụng chế định này.
Câu 5. Quy định về “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền” của một hệ thống
pháp luật nước ngoài.
Trả lời:

Theo chương thứ hai “xác lập nghĩa vụ” mục 1.3.2 trang 61, 62 “Giáo trình Luật La
Mã” của TS. Nguyễn Ngọc Điện 1 đã trình bày như sau:
Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền
Khái niệm:
Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là việc một người can thiệp vào công việc
của người khác vì lợi ích của họ trong điều kiện giữa hai người khơng có hợp đồng ủy

quyền.
Điều kiện:
Quan hệ thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền được xác lập khi có một cơng việc
được thực hiện (chứ khơng chỉ đơn giản là có một ý định thực hiện cơng việc hình thành
trong đầu một người). Người có lợi ích trong việc người khác thực hiện cơng việc đó có
thể biết hoặc khơng biết sự việc; nhưng quan trọng là người này không phản đối việc
người khác thực hiện cơng việc cho mình. Người thực hiện cơng việc, về phần mình, phải
Nguồn: />%E1%BA%A7n-Th%C6%A1-2009.pdf
1


thực hiện công việc với ý thức làm phát sinh một nghĩa vụ của người có lợi ích trong việc
thực hiện cơng việc đó, nghĩa vụ đối với mình. Nếu người thực hiện cơng việc hồn tồn
vì lịng hảo tâm, thì khơng có quan hệ thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền.
Hiệu lực:
Người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền phải thực hiện công việc như là công
việc của mình; phải báo cáo cho người có cơng việc được thực hiện về kết quả công việc
và phải giao lại cho người sau này tất cả những gì thu được từ công việc. Khác với người
được ủy quyền, người thực hiện cơng việc vẫn có thể tiếp tục thực hiện cơng việc sau khi
người có cơng việc được thực hiện chết.
Người có cơng việc được thực hiện phải hồn trả cho người thực hiện cơng việc các
chi phí, mà người này đã bỏ ra để thực hiện công việc và phải đảm nhận tất cả những
nghĩa vụ, mà người thực hiện cơng việc đã xác lập trong q trình thực hiện cơng việc
phù hợp với lợi ích của mình.

GIẢI THÍCH THÊM NẾU CẦN
Luật La Mã là hệ thống luật cổ, được xây dựng cách đây khoảng hơn 2000 năm (năm 449
trước Công Nguyên), đánh dấu sự ra đời và phát triển của Nhà nước La Mã cổ đại. Đây là hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh nhất của nhà nước chiếm hữu nô lệ. Do vậy, Luật La Mã, đặc biệt là các chế
định pháp luật về dân sự của Luật La Mã đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của pháp luật và

các học thuyết pháp lý của các nước châu Âu lục địa.
Gắn liền với việc hình thành và phát triển Nhà nước là sự ra đời của Luật La Mã. Ở La Mã,
Luật dân sự (jus civile) là luật áp dụng đối với các công dân La Mã, phân biệt với Luật chung (jus
gentium) áp dụng cho tất cả những ai khơng có tư cách công dân La Mã. Cả Luật dân sự và Luật
chung đều tập trung giải quyết các vấn đề pháp lý phát sinh trong quan hệ giữa người và người. Luật
dân sự và Luật chung được bổ sung bởi các quy tắc được các thẩm phán rút ra từ hoạt động xét xử
và các quy tắc này tạo thành một hệ thống gọi là Luật thực hành (jus praetorium). Đến thời Justinian
(Hồng đế Đơng La Mã) khi mà những người khơng phải là cơng dân La Mã hồn tồn bình đẳng với
cơng dân La Mã về phương diện dân sự, thì jus civile và jus gentium được hợp nhất thành một hệ
thống duy nhất gọi là Luật dân sự La Mã.
Luật dân sự có nguồn từ luật 12 Bảng, luật cổ xưa nhất của La Mã, được ban hành vào khoảng năm
451 đến 449 trước cơng ngun. Đó là Bộ luật do các pháp quan xây dựng và được khắc trên 12 bảng
bằng đồng, là văn bản luật đầu tiên của Nhà nước La Mã. Luật 12 Bảng tập hợp một cách hệ thống


So sánh với quy định “Thực hiện công việc không có ủy quyền” theo Điều 574,
575 BLDS 2015 đang hiện hành ở Việt Nam hiện nay. Ta có thể thấy như sau:
- Dù có khác nhau về điều kiện và hoàn cảnh lịch sử, kinh tế - xã hội nhưng cả hai
chế định đều có một số điểm tương đồng như: điều kiện phát sinh, nghĩa vụ thực hiện,
hậu quả pháp lý…
- Có thể nói Luật La Mã ảnh hưởng sâu sắc đến pháp luật Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, những nhà làm luật của chúng ta không tiếp nhận hồn tồn một cách thụ động,
rập khn máy móc mà là tiếp thu có chọn lọc. Bên cạnh đó, ln tích cực bổ sung, đổi
mới một cách cụ thể và rõ ràng hơn để phù hợp với tình hình thực tiễn của xã hội Việt
Nam. Bằng chứng là BLDS 2015 đã của ta đã có sự mở rộng phạm vi chủ thể bao gồm cả
cá nhân và pháp nhân, so với Luật La Mã và cả BLDS 2005 trước đó.
 Xuất phát nguồn gốc của các nhà làm luật xưa các luật gia Việt Nam sẽ điều chỉnh
và phát triển hơn cho phù hợp với tình hình của Quốc gia. Hơn hết, thơng qua việc tìm
hiểu hệ thống pháp luật La Mã, một điều mà ta có thể ln khẳng định là sự tiến bộ của
các luật gia trong hành trình lập pháp lúc bấy giờ.

Các quy định về việc “thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền” thường được biết tới
trong các hệ thống pháp luật nước ngoài bằng cụm từ “Negotiorum gestio”, hay ở bộ luật
Dân sự Nhật Bản (1986)1, các điều luật mang tính chất “thực hiện cơng việc khơng có
ủy quyền” được quy định tại phần III, chương III, từ Điều 697 tới Điều 702 với cái tên
“事務管”, nghĩa là “Quản lý công việc kinh doanh”.
Chapter 3 Negotiorum Gestio (Management of Business))
Chương III. Quản lý công việc kinh doanh
(事務管理)
(Negotiorum Gestio (Management of Business))
第六百九十七条 義務なく他人のために事務の管理を始めた者(以下この章にお
いて「管理 者」という。)は、その事務の性質に従い、最も本人の利益に適合
する方法によって、その事 務の管理(以下「事務管理」という。)をしなけれ
ばならない。
Article 697 
(1) A person who commences the management of a business for another
person without being obligated to do so (hereinafter in this Chapter referred to as
"Manager") must manage that business (hereinafter referred to as "Management of


Business") in accordance with the nature of the business, using the method that be
st conforms to the interests of that another person (the principal)
Điều 697
(1) Một người bắt đầu quản lý công việc kinh doanh cho người khác mà khơng có
nghĩa vụ thực hiện công việc (sau đây gọi tắt trong chương này là “người quản
lý”) phải quản lý công việc kinh doanh đó một cách phù hợp với bản chất của
cơng việc, sử dụng các phương pháp mang lại lợi ích tốt nhất cho bên còn lại (sau
đây gọi tắt là “người ủy quyền”).
(管理者の通知義務)
(Obligation of Managers to Give Notice)
第六百九十九条 管理者は、事務管理を始めたことを遅滞なく本人に通知しなけ

ればならな
い。ただし、本人が既にこれを知っているときは、この限りでない。
Article 699
A Manager must notify the principal that the Manager has commenced the
Management of Business; provided, however, that this shall not apply if the
principal already knows of the same.
Điều 699 (Nghĩa vụ thông báo của người thực hiện)
Người thực hiện phải thông báo cho người ủy quyền ngay lập tức việc người thực hiện tự
nguyện tham gia vào công việc kinh doanh của người ủy quyền; Tuy nhiên điều lệ trên sẽ
không được không áp dụng nếu người ủy quyền đã biết về việc thực hiện đó.


Câu 6. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong cơng trình, nhà thầu C có
thể u cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế
định “thực hiện công việc khơng có ủy quyền” trong BLDS 2015 khơng? Vì sao? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Tình huống:
Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành xây dựng một cơng trình cơng cộng.
Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với nhà thầu C mà không nêu rõ trong hợp đồng B đại
diện A và cũng khơng có ủy quyền của A trong khi đó, theo quy định, B không được tự
ký hợp đồng với C vì đây là cơng việc của chủ đầu tư A (thực tế Ban quản lý dự án B
khơng có nhiều tài sản để thanh toán cho C).
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 574 BLDS 2015 về thực hiện công việc khơng có ủy
quyền thì: “Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là việc một người khơng có nghĩa vụ
thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của người có
cơng việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối.” cho ta
thấy được các điều kiện để áp dụng chế định thực hiện công việc không có ủy quyền:
1. Người thực hiện là người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc đó.
Việc xây dựng một cơng trình cơng cộng là cơng việc của chủ đầu tư A và nhà thầu C

khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc đó.
2. Người thực hiện cơng việc hồn tồn tự nguyện khi thực hiện cơng việc.
Người thực hiện cơng việc là C và hồn tồn tự nguyện khi thực hiện cơng việc đó.
3. Việc thực hiện cơng việc phải vì lợi ích của người có cơng việc.
Việc thực hiện cơng việc xây dựng cơng trình cơng cộng là mong muốn của bên chủ đầu
tư A và nhà thầu C là người thực hiện cơng trình.
4. Người có cơng việc không biết hoặc biết mà không phản đối về việc thực hiện
cơng việc.
Chủ đầu tư A có thể khơng biết hoặc đã biết nhưng không phản đối việc xây dựng cơng
trình này của nhà thầu C.


Trong trường hợp trên, nhà thầu C đã thực hiện cơng việc khơng ủy quyền vì thỏa
mãn Điều 574 BLDS 2015. Cùng một tình huống, nhưng có nhiều trường hợp có thể xảy
ra:
+ Trường hợp 1: Chủ đầu tư A đã được biết và không phản đối.
Khi nhà thầu C đã hồn thành cơng việc mà chủ đầu tư A vẫn biết về việc kí kết hợp
đồng giữa B và C. Khi đó, C có thể yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ thanh toán dựa trên quy
định tại Điều 576 BLDS 2015 về nghĩa vụ thanh toán của người có cơng việc được
thực hiện:
“1. Người có cơng việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc khi người thực
hiện cơng việc khơng có ủy quyền bàn giao cơng việc và thanh tốn các chi phí hợp lý
mà người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc, kể cả
trường hợp công việc khơng đạt được kết quả theo ý muốn của mình.
2. Người có cơng việc được thực hiện phải trả cho người thực hiện cơng việc
khơng có ủy quyền một khoản thù lao khi người này thực hiện công việc chu đáo, có lợi
cho mình, trừ trường hợp người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền từ chối.”
+ Trường hợp 2: Chủ đầu tư A đã được biết nhưng phản đối.
Khi nhà thầu C đã hồn thành cơng việc mà chủ đầu tư A vẫn khơng biết về việc kí
kết hợp đồng giữa B và C. Khi đó, C có thể yêu cầu A thực hiện nghĩa vụ thanh toán.

Nhưng A từ chối việc thanh toán cho C do B đã tự ý ký hợp đồng với nhà thầu C mà
không nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng khơng có ủy quyền của A trong khi
đó, theo quy định, B không được tự ký hợp đồng với C vì đây là cơng việc của chủ đầu tư
A. Và chưa chắc chủ đầu tư A có muốn ký hợp đồng với nhà thầu C hay không. Nên việc
B thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền, gây thiệt hại cho chủ đầu tư A sẽ được xử dựa
theo Điều 577. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
“1. Khi người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền cố ý gây thiệt hại trong khi
thực hiện cơng việc thì phải bồi thường thiệt hại cho người có cơng việc được thực hiện.
2. Nếu người thực hiện công việc không có ủy quyền do vơ ý mà gây thiệt hại
trong khi thực hiện cơng việc thì căn cứ vào hồn cảnh đảm nhận cơng việc, người đó có
thể được giảm mức bồi thường.”


VẤN ĐỀ 2. THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN TIỀN)
Nghiên cứu:
- Điều 280 BLDS 2015 (Điều 290 BLDS 2005); Thơng tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của
Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính
hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản và các quy định liên quan khác (nếu có);
Tình huống: Ngày 15/11/1973, ơng Quới cho bà Cô thuê nhà và nhận tiền thế chân của
bà Cô 50.000đ. Nay, ông Quới yêu cầu bà Cô trả nhà. Bà Cô đồng ý trả nhà và yêu cầu
ơng Quới hồn trả tiền thế chân (Lưu ý: giá gạo trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg và
giá gạo trung bình hiện nay theo Sở tài chính Tp. HCM là 18.000đ/kg).
- Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội.
Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội:
Nguyên đơn: cụ Ngô Quang Bảng
Bị đơn: bà Mai Hương
Nguyên nhân tranh chấp: việc tranh chấp nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng nhà và quyền sử dụng đất

Nội dung: Năm 1991, cụ Bảng chuyển nhượng lại nhà cho bà Hương với giá là
5.000.000đ, bà Hương đã trả 4.000.000đ, còn nợ 1.000.000đ. Vào năm 1996, bà Hương
đã chuyển nhượng lại toàn bộ nhà, đất cho vợ chồng ông Chinh bà Sáu nhưng vẫn không
trả số nợ trước kia cho cụ Bảng mặc dù cụ Bảng đã rất nhiều lần yêu cầu bà Hương thanh
toán trước đây nhưng bà Hương có đưa ra lí do là chồng ốm đau, khơng có tiền. Vì đã địi
nhiều lần nhưng bà Hương không trả nên Cụ Bảng đã kiện bà Mai Hương, yêu cầu bà trả
cho cụ số tiền còn thiếu tương đương 1/5 giá trị nhà, đất với sồ tiền là 1.697.760.000đ
(theo định giá tài sản của Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh) và nếu bà
Hương khơng thanh tốn thì phải trả lại 1/5 diện tích đất mà bà Hương chưa thanh tốn,
tương đương với 188,6m2 trong tổng là 1.010m2 tại thửa đất đã chuyển nhượng trên. Về


phía bà Mai Hương, bà thừa nhận là cịn nợ cụ Bảng 1.000.000đ. Tuy nhiên vào thời
điểm nhà, đất được chuyển lại cho ơng Chinh và bà Sáu thì hai người có gặp cụ Bảng để
trả tiền nhưng cụ Bảng không nhận. Bà Sáu xác định nợ cụ Bảng số tiền đó, đồng ý chi
trả cả tiền gốc lẫn lãi và không đồng ý yêu cầu khởi kiện của cụ Bảng và việc trả lại 1/5
diện tích đất cho cụ.
Quyết định của Tòa án: Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2015 ngày 08/6/2015,
Tòa án nhân dân thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh quyết định: buộc bà Mai Hương
phải trả cho cụ Ngô Quang Bảng tổng số tiền 2.710.000đ (trong đó tiền nợ gốc là
1.000.000đ, tiền lãi là 1.710.000đ). Ngồi ra, Tịa án cấp sơ thẩm cịn quyết định về án
phí và quyền kháng cáo theo quy định. Ngày 19/06/2015, cụ Bảng kháng cáo toàn bộ Bản
án sơ thẩm. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 38/2015/DS-PT ngày 22/09/2015, Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của cụ Ngô Quang
Bảng, giữ nguyên các quyết định của Bản án sơ thẩm. Sau khi xét xử phúc thẩm, cụ Bảng
có đơn đề nghị xem xét Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.

Và cho biết:
Câu 1. Thông tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như thế
nào? Qua trung gian là tài sản gì?

Trả lời:
- Theo thơng tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh tốn thì:
Nếu như thời điểm phát sinh nghĩa vụ trước hoặc sau ngày mà giá gạo tăng từ 20%
trở lên thì phải quy đổi khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo trung bình ở địa phương lúc bấy
giờ, sau đó tính số lượng gạo đó thành tiền và bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng số
tiền ấy.
Nếu như thời điểm phát sinh nghĩa vụ trước hoặc sau ngày mà giá gạo tăng nhưng
dưới 20% thì bên có nghĩa vụ chỉ phải thanh tốn khoản tiền do Tịa án xác định.
- Qua tài sản trung gian là giá gạo.
Câu 2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ơng Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:


Ở thời điểm ơng Quới hồn trả lại tiền thế chân cho bà Cơ thì giá gạo đã tăng hơn
20% (cụ thể là tăng: (15000 – 137) / 137 x 100 = 10848.9%) nên áp dụng mục a Khoản
1 thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao –
Bộ Tư pháp – Bộ Tài chính số 01/TTLT ngày 19/6/1977 hướng dẫn việc xét xử và thi
hành án về tài sản, giá gạo năm 1973 là 137đ/kg thì 50.000đ = 365 kg gạo; giá gạo trung
bình hiện nay theo Sở tài chính Tp. HCM là 15.000đ/kg, vậy ông Quới sẽ phải trả cho bà
Cô số tiền là: 365 x 15000 = 5.475.000đ
Mục a Khoản 1 TTLT
“1- Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hồn trả, tiền cơng, tiền
lương, tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay khơng có lãi, tiền
truy thu thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày
1/7/1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời
điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Tồ án quy đổi các khoản tiền
đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo")
tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền

theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh
tốn và chịu án phí theo số tiền đó.”
Câu 3. Thơng tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT khơng? Vì sao?
Trả lời:
Thơng tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 đã ghi rõ chỉ điều chỉnh các trường hợp đối
tượng của nghĩa vụ là:
“- Tiền bồi thường, tiền hồn trả, tiền cơng, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền đền
bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay khơng có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do thu
lợi bất chính.
- Tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí.
- Tiền vay, gửi ở tài sản Ngân hàng, tín dụng.
- Các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại khơng có kỳ hạn) ở ngồi tổ
chức Ngân hàng, tín dụng.


- Đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng.
- Đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là hiện vật.”
Việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết
định số 15/2018/DS-GĐT không thuộc các trường hợp đã được nêu trên. Vì vậy, Thơng
tư trên khơng điều chỉnh việc thanh tốn tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động
sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.
Câu 4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tịa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tịa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hường phải thanh toán cho cụ Bảng cụ
thể là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời:
Trả theo giá trị nhà đất hiện tại.
Tòa án nhân dân cấp cao Hà Nội nhận định:“...bà Hương phải thanh tốn cho cụ
Bảng số tiền cịn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá tại thời điểm xét xử sơ

thẩm mới đúng với hướng dẫn tại điểm b2, tiểu 9 mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết
số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao”. Căn cứ vào điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II của Nghị quyết số
02/2004/NQ-HĐTP thì bà Hương phải thanh tốn theo giá trị quyền sử dụng đất tính
theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sở thẩm là: 1.697.760.000 x 1/5 = 339.552.000đ
Câu 5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ
chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?
Trả lời:
Hướng giải quyết như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ. Đó
là Quyết định giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS ngày 24/02/2005 về vụ án “Tranh chấp
nhà đất và đòi nợ” của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao 2.
Tóm tắt bản án như sau:

Nguồn: />2


Nguyên đơn là bà Bùi Thị Lai, bị đơn là ông Phạm Thanh Xuân, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: bà Trần Thị Minh – vợ ông Phạm Thanh Xn và ơng
Hồng Minh Khoa – chồng bà Bùi Thị Lai.
Năm 1994 bà Lai cho ông Xuân vay 11.500.000đ. Ngày 12/2/1996 bà Lai cho ông
Xuân vay 128.954.000đ. Do ông Xn khơng có khả năng thanh tốn nên ngày 8/8/1996,
hai bên viết giấy tay tính lãi, chốt nợ là 188.600.000đ, đồng thời hai bên thoả thuận
chuyển nhượng căn nhà số 19 Chu Văn An, phường Hồ Lạc, thị xã Móng Cái nói trên
với giá 188.600.000đ. Tuy hai bên chốt nợ và thoả thuận chuyển nhượng căn nhà trên với
giá 188.600.000đ, nhưng gia đình ơng Phạm Thanh Xn khơng thanh tốn nợ, cũng
không giao nhà mà vẫn quản lý, sử dụng nhà nên bà Bùi Thị Lai tiếp tục tính lãi của số
tiền 188.600.000đ. Đến ngày 5/8/1997 vợ chồng ông Phạm Thanh Xuân, bà Trần Thị
Minh với vợ chồng bà Bùi Thị Lai, ơng Hồng Minh Khoa lại chốt nợ gốc và lãi của số
tiền 188.600.000đ lên thành 250.000.000đ, đồng thời vợ chồng ông Phạm Thanh Xuân,
bà Trần Thị Minh với vợ chồng bà Bùi Thị Lai, ơng Hồng Minh Khoa lại thoả thuận viết

đơn xin chuyển nhượng quyền sử dụng đất và lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất với giá 250.000.000đ. Sau khi lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
vào ngày 5/8/1997, vợ chồng bà Lai vẫn tính lãi số tiền 250.000.000đ trong thời gian 2
tháng thành 6.000.000đ để cộng vào số tiền 44.000.000đ vợ chồng ông Phạm Thanh
Xuân vay vào ngày 6/11/1997 thành 50.000.000đ.
Tòa nhận định quan hệ mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ
chồng ông Phạm Thanh Xuân, bà Trần Thị Minh với vợ chồng bà Bùi Thị Lai, ông
Hoàng Minh Khoa xuất phát từ quan hệ vay nợ với lãi suất cao (khoảng 6%/tháng) khi
bên vay khơng có tiền trả nợ thì hai bên có thoả thuận việc mua bán nhà, chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Vụ án này phải giải quyết cả quan hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà,
đất. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 199 ngày 25/12/2001 của Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 02 ngày 10/5/2000 của Toà án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh để giải quyết lại khoản vay nợ, tính lại lãi suất của số tiền gốc
mà bà Bùi Thị Lai đã cho vợ chồng ông Phạm Thanh Xuân vay theo đúng quy định pháp
luật. Đồng thời xác minh, thu thập chứng cứ về quá trình làm thủ tục giấy tờ mua bán
nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên có được tiến hành theo đúng trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định khơng. Trong trường hợp có đủ căn cứ xác định việc
mua bán chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất là hợp pháp và công nhận hợp đồng
mua bán nhà đất giữa các bên thì phải lấy giá nhà, đất thoả thuận trong hợp đồng trừ đi số


tiền nợ gốc và lãi; trường hợp còn thiếu bên mua chưa trả đủ thì phần cịn thiếu (tính theo
tỷ lệ % giá trị nhà đất) bên mua phải thanh toán cho bên bán theo giá thị trường tại địa
phương ở thời điểm xét xử sơ thẩm lại.
Như vậy, trong Quyết định giám đốc thẩm số 09/HĐTP-DS, Tòa án cấp sơ thẩm
và phúc thẩm chỉ tập trung xem xét tính hợp pháp của quan hệ mua bán nhà, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất mà chưa xem xét giải quyết quan hệ vay nợ theo quy định của
pháp luật. Ngược lại, ở Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, Tòa sơ thẩm và phúc thẩm lại
cho rằng hợp đồng chuyển nhượng đất đã được giải quyết và xác định khoản tiền mà bà
Hương chưa thanh toán cho cụ Bảng là tiền nợ, buộc bà Hương phải trả số tiền này cùng

lãi suất. Tuy nhiên, cả hai vụ việc trên đều không thể bỏ bớt hay tách rời hai yếu tố quan
hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà, đất giữa các chủ thể; phải giải quyết song song cả hai
loại quan hệ thì mới triệt để và bảo đảm quyền, lợi của các bên liên quan. Do đó, Tịa
giám đốc thẩm đã ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giải quyết lại từ sơ
thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
VẤN ĐỀ 3. CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN
Nghiên cứu:
- Điều 370 và Điều 371 BLDS 2015 (Điều 315, 316, 317 BLDS 2005);
- Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/9/2007 của Tòa án nhân dân thị xã Châu Đốc, tỉnh
An Giang.
Và cho biết:
Câu 1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận?
Trả lời:
Định nghia:
- Chuyển giao quyền yêu cầu:
Chuyển giao quyền yêu cầu là sự thỏa thuận giữa người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ
với người thứ ba nhằm chuyển giao quyền yêu cầu cho người thứ ba đó. Người thứ ba
trong trường hợp này gọi là người thế quyền, trở thành người có quyền, được quyền yêu
cầu người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ theo phạm vi quyền yêu cầu được chuyển
giao.
- Chuyển giao nghĩa vụ:


Chuyển giao nghĩa vụ là sự thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ trong quan hệ nghĩa vụ với
người thứ ba trên cơ sở có sự đồng ý của người có quyền nhằm chuyển nghĩa vụ cho
người thứ ba đó. Người thứ ba gọi là người thế nghĩa vụ trở thành người có quyền trong
phạm vi nghĩa vụ đã được xác định.
Giống nhau:
- Về chủ thể: đều có ít nhất 3 chủ thể tham gia.

- Về nguyên tắc chuyển giao:
+ Không được chuyển giao quyền yêu cầu/nghĩa vụ trong trường hợp khi quyền yêu
cầu/nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên chuyển giao; hoặc pháp luật có quy định
khơng được chuyển giao quyền yêu cầu/nghĩa vụ.
+ Chỉ áp dụng đối với quan hệ nghĩa vụ đang cịn có hiệu lực.
+ Người có quyền trước/ có nghĩa vụ trước sẽ chấm dứt mối quan hệ với người có
nghĩa vụ/ có quyền và không phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của
người có nghĩa vụ (đối với việc chuyển giao quyền yêu cầu) hay của người thế nghĩa vụ
(đối với hành vi chuyển giao nghĩa vụ dân sự)
- Về hậu quả pháp lý:
Đều dẫn tới hậu quả pháp lý là làm thay đổi chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ, theo đó,
chấm dứt tư cách chủ thể của chủ thể đã chuyển giao, xác lập tư cách chủ thể cho người
nhận chuyển giao.
- Về hình thức chuyển giao:
Bằng văn bản hoặc bằng lời nói; trường hợp pháp luật quy định phải được thể hiện bằng
văn bản, phải có cơng chứng hoặc chứng thực, đăng ký hoặc phải xin phép thì phải tn
theo các quy định đó; (theo Điều 310 và Điều 316 BLDS năm 2005);
Khác nhau:

Cơ sở pháp lý

Chuyển giao quyền yêu cầu

Chuyển giao nghĩa vụ

Điều 365 BLDS 2015

Điều 370 BLDS 2015

Đối tượng có

quyền chuyển
giao

Bên có quyền là người có quyền Bên có nghĩa vụ là người có
chuyển giao quyền yêu cầu cho quyền chuyển giao.
người thế quyền.

Nguyên tắc
chuyển giao

- Việc chuyển giao quyền yêu - Việc chuyển giao nghĩa vụ bắt
cầu khơng cần có sự đồng ý của buộc phải được bên có quyền


bên có nghĩa vụ (khoản 2 Điều đồng ý (khoản 1 Điều 370
365 BLDS năm 2015).
BLDS năm 2015).
- Người chuyển giao quyền yêu - Người chuyển giao nghĩa vụ
cầu phải báo bằng văn vản cho không cần thông báo cho bên
bên có nghĩa vụ về việc chuyển người có quyền.
giao quyền yêu cầu, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác (khoản
2 Điều 365 BLDS năm 2015).
Hiệu lực của
biện pháp đảm
bảo

Trường hợp quyền yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ có biện pháp đảm
bảo thì việc chuyển giao quyền

yêu cầu bao gồm cả biện pháp
bảo đảm đó. (Điều 368 BLDS
năm 2015).

Biện pháp bảo đảm chấm dứt khi
nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm
được chuyển giao, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác (Điều 371
BLDS năm 2015).

Câu 2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh tốn
cho bà Tú?
Câu 3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Câu 4. Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tồ án?
Câu 5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn trách nhiệm
đối với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Từ góc độ văn bản, Điều 370 và Điều 371 BLDS 2015 (Điều 315 và Điều 317
BLDS 2005) thì BLDS 2015 có đề cập tới việc chuyển giao nhưng khơng quy định rõ
liệu người có nghĩa vụ ban đầu có cịn trách nhiệm đối với người có quyền trong trường
hợp người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao hay không, mà theo
Khoản 2 Điều 370 BLDS 2015 về việc chuyển giao nghĩa vụ dân sự theo thỏa thuận
chỉ quy định là: “Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có
nghĩa vụ” và Điều 371 BLDS 2015 quy định về chuyển giao nghĩa vụ có biện pháp
bảo đảm: “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp
bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Đồng thời, pháp luật cũng đã quy định chỉ được chuyển giao nghĩa vụ khi bên có
quyền đồng ý. Nghĩa là bên có quyền có thể xem xét về khả năng thực hiện nghĩa vụ của

người thế nghĩa vụ để đảm bảo quyền lợi của mình. Vì vậy, trong thực tiễn xét xử, việc


cân nhắc về vấn đề chấm dứt hoàn toàn trách nhiệm giữa người có nghĩa vụ đối với người
có quyền sau khi thực hiện chuyển giao nghĩa vụ trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác là có căn cứ.
Sở dĩ như thế là vì nghĩa vụ dân sự khi được chuyển giao thì “nó” khơng chấm dứt
mà “nó” được chuyển giao từ chủ thể này sang chủ thể khác thơng qua thỏa thuận giữa
người có quyền và người có nghĩa vụ. Khi người có quyền đã đồng ý, thì người thế nghĩa
vụ sẽ trở thành bên có nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ đã được chuyển giao. Mặc dù pháp
luật chưa quy định minh thị, nhưng có thể ngầm hiểu rằng khi nghĩa vụ đã được chuyển
giao, người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn nghĩa vụ đối với người có quyền nữa và cũng
khơng chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của người thế nghĩa vụ, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác.
Câu 6. Nhìn từ góc độ quan điểm của tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn
trách nhiệm đối với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ khơng thực hiện
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.
Trả lời:
Nhìn từ góc độ quan điểm của tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn trách
nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao, trừ trường có thỏa thuận khác.
Tác giả Đỗ Văn Đại cho rằng: “Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn có
trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta khơng thấy sự khác nhau giữa chuyển
giao nghĩa vụ với “thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba”. Do vậy, để
chuyển giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ dân sự
thông qua người thứ ba, cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa
vụ ban đầu, trừ khi có bên có thoả thuận khác 3.
Bên cạnh đó, theo tác giả Chế Mỹ Phương Đài: “Trên cơ sở thỏa thuận, với sự đồng
ý của bên có quyền, người thứ ba thay thế người có nghĩa vụ trước đó trở thành người có
nghĩa vụ mới hay còn gọi là người thế nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ chấm dứt tồn bộ mối

quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người
có quyền chỉ được phép yêu cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã
chuyển giao nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế
nghĩa vụ.” 4

Đỗ Văn Đại (2017), Luật Nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án
(Sách chuyên khảo, xuất bản lần thứ ba) (Tập 1), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí
Minh, tr.73-74, tr.642.
4
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng (Tái bản lần thứ 1, có sửa đổi và bổ sung), Đỗ Văn Đại, Nxb. Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, tr.64.
3


Câu 7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu khơng cịn trách nhiệm đối với người có quyền?
Câu 8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.
Trả lời:
Thực tế cho thấy các quy định trong các hệ thống luật của các nước tương đối khác
nhau.
Khoản 1 Điều 12:101 Bộ nguyên tắc của Luật hợp đồng châu Âu quy định:
“Với sự đồng ý của người có quyền và người có nghĩa vụ, người thứ ba có thể cam
kết thay thế người có nghĩa vụ, với hiệu lực là người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn bị
ràng buộc bởi các nghĩa vụ của họ.”
Điều 9.2.3 Bộ nguyên tắc Unidroit (PICC) quy định:
“Việc chuyển giao nghĩa vụ theo thoả thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và
người có nghĩa vụ mới phải có sự đồng ý của người có quyền.”
Như vậy, cả PECL và PICC đều quy định rằng phải có sự đồng ý của bên có quyền

thì bên có nghĩa vụ mới được chuyển giao nghĩa vụ. Đây cũng như để bảo đảm quyền lợi
của bên có quyền.
Tuy nhiên, PECL quy định rằng sau khi bên có quyền đồng ý cho bên có nghĩa vụ
ban đầu chuyển giao nghĩa vụ cho người thứ ba thì “người có nghĩa vụ ban đầu khơng
cịn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ của họ.” (Khoản 1 Điều 12:101 Bộ nguyên tắc của
Luật hợp đồng châu Âu). Có nghĩa là sau khi chuyển giao nghĩa vụ thì người có nghĩa
vụ ban đầu khơng cịn trách nhiệm với người có quyền nữa.
Trong khi đó Điều 9.2.5 Bộ nguyên tắc Unidroit quy định:
“1) Người có quyền có thể giải phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu.
2) Người có quyền cũng có thể quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là
người có nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ mới khơng thực hiện đúng nghĩa
vụ của mình.
3) Trong mọi trường hợp khác, người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ
mới phải liên đới chịu trách nhiệm.”
Theo Khoản 1 Điều 9.2.5 Bộ nguyên tắc Unidroit, sau khi đồng ý cho người có
nghĩa vụ chuyển giao nghĩa vụ cho người thứ ba, người có quyền có thể giải phóng hồn
tồn nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu. Hoặc là theo Khoản 2 thì người có quyền
có thể lựa chọn một khả năng khác, đó là chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ mới,
nhưng người có quyền sẽ bảo lưu quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ ban đầu để
khi người thế nghĩa vụ khơng thể thực hiện đúng nghĩa vụ thì người có quyền có thể
quyết định người có nghĩa vụ ban đầu tiếp tục thực hiện nghĩa vụ.
Và tại Khoản 3 Điều 9.2.5 Bộ nguyên tắc Unidroit cũng thể hiện rõ, trong trường
hợp người có quyền khơng nêu rõ ý định giải phóng nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban
đầu, cũng khơng quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu vẫn cịn trách nhiệm thực hiện,
thì người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải chịu trách nhiệm liên đới về
việc thực hiện nghĩa vụ.


Câu 9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Câu 10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp

bảo lãnh của người thứ ba thì, khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có
chấm dứt khơng? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.



×