Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

CẬP NHẬT, điểm mới một số BỆNH DA LIỄU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.86 KB, 46 trang )

VẢY NẾN
1. Đại cương
- Các IL quan trọng trong vảy nến: TNF-α, IL-17, IL-12, IL-23. Trong đó, IL-17
và IL-23 đóng vai trò then chốt đến cơ chế bệnh sinh.
2. Thang điểm mức độ nặng
BSA
Đo diện tích vùng da bệnh (BSA) bằng quy luật số 9
Đầu, cổ
9%
Thân mình
36%
Chi trên (tính cả nách)
18%
Chi dưới (tính cả mơng)
36%
Sinh dục
1%
Tổng cộng
100%
PASI :
PASI có nhược điểm như chỉ phản ánh đúng độ nặng của bệnh đối với vảy nến
thông thường. Đối với vảy nến mụn mủ, vảy nến khớp, đỏ da toàn thân do vảy
nến thì các thang điểm của PASI phản ánh khơng chính xác độ nặng của bệnh.
IGA phiên bản năm 2011 (IGA 2011) thường dùng trong các thử nghiệm pha 3,
đánh giá thương tổn vảy nến gồm có năm mức độ (0 - 4): sạch (0), gần sạch (1),
nhẹ (2), trung bình (3), và nặng (4).
(FDA) và Cơ quan Quản lý thuốc châu Âu (EMA) khuyến cáo sử dụng PASI và
IGA kết hợp với nhau để đánh giá hiệu quả của một thuốc mới trong điều trị vảy
nến.

1




Điểm số

Phân loại

0

Sạch

1

Gần sạch

2

Nhẹ

Mơ tả chi tiết
Khơng có dấu hiệu vảy nến; có thể có tăng sắc tố sau
viêm.
Khơng dày da; màu tổn thương từ bình thường đến
hồng; vảy tại chỗ khơng có hoặc tối thiểu.
Dày ở ngưỡng phát hiện hoặc mức độ nhẹ; màu
hồng

3

Trung bình


4

Nặng

đến đỏ nhạt; vảy mịn chiếm ưu thế.
Dày rõ rệt cho tới mức trung bình; ban đỏ rực, phân
biệt được rõ; vảy mức trung bình.
Dày nhiều có bờ cứng; màu đỏ tươi cho đến đỏ sậm;
vảy nhiều/thô bao phủ hầu như tất cả

DLQI
* Vảy nến mủ:
Chẩn đoán mức độ nặng theo Nhật Bản
+ Tổn thương da: nặng : ≥75% diện tích cơ thể
Vừa :<75% và ≥25% diện tích cơ thể
Nhẹ: <25%
Tổn thương da
Nặng
Hồng ban
3
Mủ trên nền hồng ban
3
Phù nề
3

Vừa
2
2
2


2

Nhẹ
1
1
1

Không
0
0
0


+ Toàn thân:
Điểm
Sốt
Bạch cầu
CRP (mg/dl)
Albumin máu (g/dl)
 Nhẹ: 0-6 điểm

2
≥38,5
≥15000
≥7
<3

1
37-<38,5
1000-<15000

0,3-<7
3-<3,8

0
<37
<10000
<0,3
≥3,8

 Vừa: 7-10 điểm
 Nặng: 11-17 điểm
3. Tiêu chuẩn chẩn đoán vảy nến khớp
CASPAR 2006
Tiêu chuẩn
Hiện đang có vảy nến:

Điểm
2 điểm

Tiền sử vảy nến (khơng tính nếu hiện đang có vảy
nến)
Tiền sử gia đình vảy nến (khơng tính nếu hiện tại hay
trước đây có vảy nến)
Loạn dưỡng móng (ly móng, móng lõm và/hay tăng
sừng)

1 điểm
1 điểm
1 điểm


Yếu tố thấp (-)

1 điểm

Viêm ngón (hiện tại hay trước đây)

1 điểm

Hình thành xương mới ngay cạnh khớp

1 điểm

* Phòng khám đang dùng bảng câu hỏi sàng lọc VIÊM KHỚP VẢY NẾN(PEST)
Có 5 câu hỏi:
1. Bạn có bao giờ bị sưng 1/nhiều khớp?
2. BS có cho bạn biết bạn bị viêm khớp?
3. Móng tay hoặc móng chân bạn có bị lỗ rỗ khơng?
4. Bạn có đau gót chân?

3


5. Ngón tay/chân bạn có bị đau mà khơng có lý do rõ ràng không?
(Bảng câu hỏi đã được quỹ vảy nến quốc gia Hoa Kỳ phê chuẩn sử dụng)
Độ nhạy: 98%, độ đặc hiệu: 72%.
/>4. Điều trị mới trong vảy nến
4.1. Liệu pháp sinh học hiện có sẵn:
+ Chất ức chế TNFα: Infliximab, adalimumab và certolizumab.
+ Chất ức chế IL23: Ustekinumab, guselkumab, risankizumab và
tildrakizumab.

+ Chất ức chế IL17: Secukinumab, ixekizumab và brodalumab
4.2. Liệu pháp sinh học mới đang thử nghiệm:
Chất ức chế RORγt: thụ thể retinoic acid gamma t (RORγt hoặc RORc2)
là yếu tố phiên mã quan trọng cho sự biệt hóa tế bào Th17.
 Tuy nhiên có độc tính với gan nên thử nghiệm lâm sàng giai đoạn ba đã bị
ngừng.
Chất đối kháng thụ thể IL36: IL36 đóng một vai trị quan trọng trong
việc kích hoạt bạch cầu trung tính và tế bào Th17 trong bệnh vẩy nến.
Trong thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1, một liều duy nhất tiêm tĩnh mạch BI
655130, một kháng thể đơn dòng chống lại thụ thể interleukin-36 cho thấy
hiệu quả tốt.
Chất ức chế Janus Kinase (JAK): ức chế thụ thể IL23, quan trọng trong
bệnh vẩy nến, có liên quan đến JAK.
 Tofacitinib, là chất ức chế JAK thế hệ thứ nhất, đã cho thấy cải thiện
PASI.
Trong quá trình nghiên cứu, đã quan sát thấy sự gia tăng cholesterol toàn
phần. Các tác dụng ngoại ý nghiêm trọng bao gồm đau thắt ngực, viêm bể
thận, nhiễm trùng tiểu, và rung nhĩ đã được quan sát thấy ở ba bệnh nhân.

4


Hiện nay, các chất ức chế JAK mới như baricitinib ức chế JAK1 / JAK2
đang được thử nghiệm lâm sàng và cho kết quả tốt.
Chất ức chế Kinase liên kết với Rho (ROCK2):
giảm đáng kể cả nồng độ IL17 và IL23
Tapinarof tại chỗ
là một polyphenol có nguồn gốc tự nhiên được tạo ra bởi các vi khuẩn cộng
sinh với côn trùng gây bệnh.
làm giảm các cytokine Th17 như IL17A, IL17F và IL22

Do đó, tapinarof tại chỗ có hiệu quả trong điều trị bệnh vẩy nến.
 Tác dụng ngoại ý được báo cáo thường xuyên nhất là viêm nang lông
và viêm da tiếp xúc.
/>5. Chế độ ăn
- Dầu cá:
+ 2 tp chính: EPA và DHA
+ Td: giảm viêm, giảm mỡ máu
+ có nhiều thử nghiệm giảm PASI và mỡ máu với omega3 và 6.
- Vitamin D3 đường uống:
+ Vit D3 hay dùng: 25dihydroxyvitamin D3
+ TD làm giảm tác dụng phụ tăng mỡ máu (của acitretin)
+ Chống lại một số biểu hiện toàn thân của vảy nến như HCCH, bệnh lý tim
mạch.
+ Liều: 20UI/ngày, 20UI/mỗi 2 tuần, đến khi đạt 100UI/ngày.
+ Liều cao: 35000UI/ 6tháng.
+ Bổ sung cho đối tượng: [viatmin D3] thấp, vảy nến nặng (đỏ, vảy nhiều),
vảy nến nặng vào mùa đông.
+ TD phụ: sỏi thận, ngộ độc (nên hạn chế thức ăn nhiều vit D và calci như
sữa, bơ, lúa mạch…)

5


- Vitamin B12 tiêm bắp:
+ trước đây có nghiên cứu cho thấy bn vảy nến giảm vit B12 nhưng giờ đây
ko được sử dụng nữa vì ít hiệu quả và nhiều td phụ.
- Hạn chế rượu
- Chế độ ăn giảm calo: 855kcal/ngày x 1 tháng cho thấy cải thiện triệu chứng,
có td khi dùng cùng cyclosporin.
- Selenium: bn vảy nến có giảm selenium nhưng dùng đơn thuần ko có td.

Selenium + coenzym Q10 + vitamin E: có td trong vảy nến khớp và vảy nến
đỏ da tồn thân, ko có td trong thể khác.
- Kẽm ko có bằng chứng trong vảy nến.
PEMPHIGUS
1. Điều trị truyền thống:
1.1. Corticoid
1.2. Azathioprine
1.3. Mycophenolate mofetil
1.4. Cyclophosphamide
1.5. MTX
1.6. Dapson
2. Điều trị mới
Một số tác nhân điều trị mới và đã biết hiện đang được nghiên cứu là chất ức
chế BAFF, P13K, BTK cùng với việc sử dụng liệu pháp IVIg và CAR-T.
2.1. Kháng thể đơn dòng kháng CD20
Kháng thể đơn dòng lai giữa người và chuột.
Rituximab là 1 thuốc UCMD, bản chất là kháng thể đơn dòng IgG1 đặc hiệu
chống lại CD20 trên bề mặt lympho B => giảm lympho B => giảm sx kháng
thể.
FDA 2018 công nhận Rituximab điều trị pemphigus thể vừa và nặng.

6


- Chỉ định:
+ Ngay từ đầu
+ Khi thất bại với corticoid và UCMD đường toàn thân
+ Td phụ nặng của thuốc truyền thống.
- Chống chỉ định:
+ Dị ứng với rituximab hoặc các protein có nguồn gốc từ chuột khác.

+ Nhiễm trùng nặng tiến triển
+ Nhiễm HIV với số lượng tb CD4 < 250/Μl
+ trẻ em
+ PNCT (FDA-C).
2.1. IVIg
- Chỉ định khi thất bại liệu pháp thông thường, tác dụng phụ nghiêm trọng
của liệu pháp thông thường.
- Điều trị IVIg đã được chứng minh là tạo điều kiện giảm thiểu và có thể loại
bỏ
steroid và ISA cần thiết để kiểm sốt bệnh. Nó có thể kéo dài thời gian lui
bệnh
kéo dài ít nhất hai năm hoặc hơn.
- Đây là chất đối kháng với thụ thể IL-1, cũng là tác nhân điều hòa, làm giảm
và loại bỏ tự kháng thể.
- Tác dụng phụ nghiêm trọng là viêm màng não vô trùng và tai biến mạch
máu não, xảy ra ở <1% bệnh nhân.
- Theo dõi những người bị bệnh tim vì tăng huyết áp có thể dẫn đến suy tim
sung huyết
- Hầu hết những bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi tác dụng phụ này do sử dụng
dạng bột của IVIg. Nó khơng hịa tan hết trong đường sucrose bài tiết qua
thận và gây suy thận.

7


- Phản ứng phản vệ có thể xảy ra ở những người có thiếu hụt IgA nếu các chế
phẩm thương mại của IVIg chứa một lượng nhỏ IgA. Điều này có thể ngăn
ngừa bằng cách sàng lọc huyết thanh của bệnh nhân để xác định mức IgA
trong chế phẩm.
Nghiên cứu mới về sự kết hợp của rituximab và IVIg:

=> Đã làm giảm lâm sàng bằng cách loại bỏ sản xuất tự kháng thể bằng
rituximab và sau đó sử dụng IVIg để phục hồi điều hòa miễn dịch trở lại
sinh lý bình thường.
- Nguyên nhân tử vong hàng đầu hiện nay đối với bệnh nhân pemphigus là
nhiễm trùng thứ phát => IVIg có thể giảm thiểu nguy cơ này và cung cấp dự
phòng miễn dịch quan trọng cho những bệnh nhân này.
/>VIÊM DA DẠNG HERPES
1. Điều trị truyền thống
1.1. Chế độ ăn khơng có gluten
Chế độ ăn khơng gluten bao gồm:
Thành phần nguyên chất từ sữa, thịt, cá, rau, khoai tây, trái cây
Hạt lanh, hạt vừng, hạt hướng dương và hạt anh túc là phổ biến trong chế độ
ăn khơng có gluten.
Ngô, gạo và tinh bột khoai tây hoặc hỗn hợp bột nhẹ không chứa gluten.
Mức độ gluten cho phép là <20mg (không chứa gluten); tuy nhiên, ở một số
quốc gia, các sản phẩm có <100mg (gluten rất thấp) được cho phép. Đánh giá
tài liệu cho thấy rằng giới hạn trên của hàm lượng gluten trong thực phẩm, sẽ
an toàn cho những người bị DH, nên nằm trong khoảng từ 10 đến 50mg mỗi
ngày.
Thực phẩm cho phép

Thực phẩm cần tránh

Gạo, bột gạo

Lúa mì, lúa mạch đen

Ngơ, bột ngơ

Hạt kê

8


Yến mạch ngun chất

Thực phẩm đóng hộp

Đậu nành

Cà phê hịa toan và trà hịa tan

Rau tươi

Mì spaghettis

Trái cây tươi

Nui

Cà phê mới pha

Gạo đóng gói

Bánh trứng

Dầu gội chứa lúa mì, dầu mầm

Yaourt

Cá giàu iốt


Rượu táo

Muối Iốt

Muối
Hạt tiêu
Dừa
Socola nguyên chất
1.2. Dapsone
1.3. Sulfasalazine, sulfaccoridine và sulfamethoxypyridazine
1.4. Các loại thuốc khác
Các nghiên cứu lẻ tẻ, dựa trên các báo cáo trường hợp, đã chứng minh tác
dụng có lợi của các thuốc thay thế khác trong DH, như colchicine, cyclosporin,
heparin, tetracycline và nicotinamide.
DH không đáp ứng với corticosteroid tồn thân, và thuốc kháng histamine
có tác dụng hạn chế đối với ngứa. Corticosteroid tại chỗ có thể giúp giảm ngứa
tạm thời nhưng chỉ được phép trong giai đoạn cấp tính của bệnh, cho đến khi đạt
được lợi ích của điều trị tồn thân.
Trong các trường hợp chịu lửa, thuốc ức chế miễn dịch, như methotrexate,
azathioprine, và mycophenolate mofetil có thể được chỉ định. Miễn dịch sinh
học, chẳng hạn như rituximab, cũng là lựa chọn thay thế cho các trường hợp
kháng thuốc, mặc dù đã được ghi nhận rằng DH được kích hoạt bởi Infliximab.
2. Điều trị mới và phòng ngừa
2.1. Điều trị bằng enzyme

9


Liệu pháp bổ sung enzyme với việc sử dụng prolyl endopeptidase của vi

khuẩn đã được đề xuất để thúc đẩy q trình tiêu hóa hồn tồn protein ngũ cốc
và do đó phá hủy các tế bào đa nhân tế bào T. Một trong những công thức
enzyme này, được gọi là ALV003, hiện đang được thử nghiệm lâm sàng và đã
cho thấy dữ liệu về tính an tồn và hiệu quả đầy hứa hẹn.
Một cách tiếp cận khác để giảm độc tính gluten dựa trên tiền xử lý tồn bộ
gluten hoặc thực phẩm có chứa gluten với peptidase có nguồn gốc từ vi khuẩn.
Enzymatic giải độc gluten có khả năng là một phương pháp hiệu quả để sản xuất
các sản phẩm khơng chứa gluten ngon miệng hơn và có thể điều trị bệnh.
2.2. Các loại ngũ cốc có chất ức chế peptide gliadan
Các chương trình nhân giống và/hoặc cơng nghệ biến đổi gen có thể dẫn đến
việc sản xuất lúa mì khơng có trình tự peptide hoạt tính sinh học. Việc xác định
các epitopes cụ thể cũng có thể cung cấp một mục tiêu cho điều hòa miễn dịch
các peptide kháng nguyên. Cơ hội thành công của việc sử dụng các peptide
tương tự để điều chỉnh các phản ứng miễn dịch cụ thể có thể bị cản trở bởi sự
khơng đồng nhất lớn của các epitopes tế bào T gliadin cho đến nay. Các nghiên
cứu sâu hơn nhằm làm sáng tỏ hệ thống phân cấp của các epitopes gây bệnh, và
vùng lõi của chúng sẽ có tầm quan trọng quyết định đối với liệu pháp dựa trên
peptide kỹ thuật.
/>
10


LUPUS BAN ĐỎ
1. Các lựa chọn quản lý bệnh lupus ban đỏ
Thuốc

Liều
Steroid bơi ngồi da
thuộc
nhóm 1-2 lần/ngày


Lựa chọn đầu

Glucocorticoids,

trong 2 tuần

thuốc ức chế

sau đó thay bằng

calcineurin dùng tại

pimecrolimus

chỗ

1% hay tacrolimus

tay

0,1% 2
lần/ngày trong 2
tuần.
Triamcinolone
acetonide
tiêm trong tổn

2,5 – 10 mg/ml


thương
200 – 400 mg/ngày,
chia 1 – 2
Hydroxychloroquine

lần, tối đa 5 mg/Kg
cân nặng
thực/ngày
125 – 250 mg/ngày,

Lựa chọn thứ
hai

Chloroquine

tối đa 2,3
mg/Kg cân nặng

thực/ngày
Quinacrine
100mg/ngày
Nếu đơn trị liệu thất bại, có thể phối hợp
quinacrine với
hydroxychloroquine hoặc chloroquine
11


Prednisone
Chỉ trong thời gian ngắn
(2 –16 tuần)


Thalidomide

Azathioprine
Lựa chọn thứ ba (các
thuốc ức chế miễn dịch

Mycophenolate
mofetil

an toàn hơn)
Methotrexate

Đang nghiên cứu (một

Dapsone
Acitretin
Leflunomide

vài

Thuốc sinh học ức

Đáng cân nhắc

5-60 mg/ngày
50 – 200 mg/ngày,
giảm còn 50
mg cách ngày khi có
đáp ứng

1,5 – 2,5
mg/Kg/ngày
1 – 1,5 g/liều, 2
lần/ngày
7,5 – 25 mg bằng
đường uống
hoặc tiêm dưới da, 1
lần/tuần
50 – 200 mg/ngày
10 – 50 mg/ngày

thuốc đang được sử dụng chế
cho các chỉ định khác)

TNF
Rituximab
Belimumab
Abatacept

2. Điều trị mới
2.1. Liệu pháp sinh học:
Đã có nhiều tài liệu báo cáo về hiệu quả của các thuốc ức chế TNF (etanercept,
adalimumab, infliximab) trong điều trị lupus da kháng trị, đặc biệt là lupus da
bán cấp. Tuy nhiên, các hoạt chất này cũng được biết đến rộng rãi là có thể gây
lupus da cũng như là lupus ban đỏ hệ thống. Điều này cho thấy tầm quan trọng
của việc cân bằng sinh học TNF ở các bệnh nhân có xu hướng mắc lupus ban đỏ
[60], [81].

12



Chất kích thích tế bào lympho B (B-lymphocyte stimulator – BLyS) hay cịn
gọi là yếu tố hoạt hóa tế bào B (B-cell activating factor – BAFF) là một thành
viên của họ cytokine TNF vừa mới được phát hiện gần đây.
BLyS do các tế bào đơn nhân và đại thực bào tạo ra khi các tế bào này
được hoạt hóa. BlyS sau đó đến liên kết với các receptor chỉ có ở tế bào B, từ đó
thúc đẩy q trình trưởng thành của các tế bào này để trở thành tương bào tiết
kháng thể. Kháng thể đơn dòng nguồn gốc từ người chống lại BLyS
(Belimumab) sẽ ức chế được các hoạt tính sinh học này. Thuốc đã được FDA
cơng nhận trong việc điều trị bệnh lupus da. Trong các thử nghiệm lâm sàng,
thuốc có thể giúp đạt được mục tiêu điều trị đối với sang thương lupus da song
song với giải quyết các rối loạn hệ thống. Tuy nhiên, vẫn có một vài báo cáo cho
thấy hiệu quả đáng ngờ của thuốc đối với các trường hợp chỉ có lupus da đơn
độc.
(Sontheimer C. J., Costner M. I., and Sontheimer R. D.
(2019),

"Lupus

Erythematosus", in Kang, S., et al., Editors, Fitzpatrick's
Dermatology,
McGraw-Hill Education, pp. 1037-1060. )
2.2. Biện pháp phẫu thuật và thẩm mỹ trên bệnh nhân lupus
Các sang thương lupus hình đĩa có thể để lại sẹo teo kém thẩm mỹ, rụng
tóc vĩnh viễn hay các rối loạn sắc tố kéo dài. Do đó, bệnh nhân thường có nhu
cầu can thiệp thẩm mỹ để khắc phục các hậu quả này.
Can thiệp dao kéo như nối tóc hay bào mịn da có các nguy cơ nhất định
do các chấn thương cơ học, bao gồm can thiệp phẫu thuật và laser có thể làm
trầm trọng thêm tình trạng bệnh.
Một số bệnh nhân đang duy trì liệu pháp tồn thân (thuốc kháng sốt rét)

có thể dung nạp tốt với các phương pháp phục hồi sẹo như bào mòn da.

13


Cũng đã có nhiều báo cáo về việc quản lý thành công lupus da bằng liệu
pháp laser argon và laser nhuộm xung.
Tái tạo các sẹo teo bằng laser Erbium: YAG hay laser CO2 vi phân cũng
cho thấy có hiệu quả trong một vài báo cáo.
Ghép mỡ tự thân có thể có hiệu quả lâm sàng ở những bệnh nhân có sẹo
teo do các tổn thương lupus sâu.
Không nên tiêm các chất ngoại lai như collagen vào các tổn thương teo
da.

14


BẠCH BIẾN

BỆNH BẠCH BIẾN
Mất sắc tố ≥20% bề mặt da

Mất sắc tố <20% bề mặt da

Corticoid tại chỗ, điều hòa miễn
dịch hoặc calcipotriol hoặc kết hợp

Quang trị liệu, UVB-311nm hoặc
PUVA


PUVA tại chỗ hoặc quang trị liệu

Không đáp ứng và mất sắc tố
>50% bề mặt da

Ghép tế bào melanocyte da

Liệu pháp làm mất sắc tố

2.1:
Chọn liệu pháp điều trị bệnh bạch biến
Ngày bạch biếnSơ
thếđồ
giới:
25/06
(Nguồn: Một số bệnh tự miễn dịch thường gặp trong da liễu, 2013 [2])
CẬP NHẬT, ĐIỂM MỚI TRONG ĐIỀU TRỊ BẠCH BIẾN
Nghiên cứu 1: Tác dụng của huyết tương giàu tiểu cầu kết hợp liệu pháp NBUVB điều trị bệnh bạch biến trong thời gian ngắn: một nghiên cứu thí điểm
(2015) [25].
Vấn đề: tia cực tím B (NB-UVB) là một liệu pháp mới, hiệu quả và an toàn
cho bệnh bạch biến, nhưng q trình điều trị thường địi hỏi thời gian dài có thể
có nguy cơ tiềm ẩn đối với các tác dụng phụ khác nhau và bệnh nhân khơng tn
thủ điều trị.
Mục tiêu: tìm hiểu tác dụng của thuốc tiêm huyết tương giàu tiểu cầu (PRP:
platelet rich plasma) đối với kết quả điều trị NB-UVB ngắn hạn cho bệnh nhân
mắc bệnh bạch biến ổn định (stable vitiligo).

15



Phương pháp: nghiên cứu bao gồm 60 bệnh nhân bạch biến ổn định với các
tổn thương đối xứng tổng thể. Đối với mỗi bệnh nhân, bên trái của cơ thể được
điều trị bằng NB-UVB trong khi bên phải được điều trị bằng liệu pháp NB-UVB
kết hợp tiêm PRP trong da, mỗi 2 tuần trong 4 tháng.
Tổng cộng có 60 bệnh nhân Ai Cập đã tham gia vào nghiên cứu. Họ có các
tổn thương ổn định đối xứng tổng thể (khơng có các khu vực bị mất sắc tố mới
hoặc mở rộng các tổn thương có liên quan trong 12 tháng và khơng có hiện
tượng Koebner trong cùng thời kỳ). Những bệnh nhân được biết là có đáp ứng
tốt hoặc nhanh với các phương thức điều trị đã được loại trừ khỏi nghiên cứu.
Phụ nữ mang thai hoặc cho con bú và bệnh nhân trẻ dưới 18 tuổi cũng bị loại
khỏi nghiên cứu này. Đối với mỗi bệnh nhân, bên trái của cơ thể được điều trị
bằng NB-UVB trong khi bên phải được điều trị bằng liệu pháp NB-UVB kết
hợp tiêm PRP trong vòng 2 tuần một lần. Bệnh nhân được chụp ảnh trong lần
khám đầu tiên, vào giữa và khi kết thúc trị liệu.
Liệu pháp NB-UVB: tất cả các bệnh nhân đã điều trị NB-UVB hai lần mỗi
tuần trong tối đa 4 tháng hoặc khi đạt được sự phục hồi hoàn toàn. Liều UVB
ban đầu là 0,33 J/cm2, và tăng 20% mỗi lần cho đến khi đạt được liều ban đỏ tối
thiểu.
Phương pháp tách huyết tương giàu tiểu cầu: để tạo PRP, 10-20cc máu tĩnh
mạch đã được lấy từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến trong điều kiện vơ trùng hồn
tồn. Mẫu máu toàn phần được lấy trong các ống chứa natri citrat (10:1) dưới
dạng thuốc chống đông máu (để gắn canxi và ngăn chặn sự khởi đầu của dịng
thác đơng máu bằng cách ngăn chặn prothrombin thành thrombin). Sau đó, tồn
bộ máu được trích phải qua hai bước ly tâm. Tiểu cầu trong sản phẩm cuối cùng
này được ước tính là gấp 4 lần so với toàn bộ máu. Sau đó PRP được kích hoạt
bằng cách thêm canxi clorua theo tỷ lệ 10:1 ngay trước khi tiêm. Nó được tiêm
trong da bằng cách sử dụng ống tiêm insulin trong tổn thương, 0,1cc PRP được
tiêm mỗi điểm với khoảng cách 2 cm giữa các điểm tiêm khác nhau. Điều trị này

16



được lặp lại sau mỗi 2 tuần cho mỗi bệnh nhân trong tối đa 4 tháng (8 lần). Các
bệnh nhân được theo dõi trong 3 tháng sau buổi trị liệu cuối cùng.
Đánh giá điều trị: đánh giá lâm sàng: các bệnh nhân được kiểm tra trong lần
khám đầu tiên và được xem xét hàng tuần về tiến trình điều trị và sự hiện diện
của bất kỳ tác dụng phụ nào. Đánh giá sắc tố được thực hiện bởi hai bác sĩ da
liễu độc lập. Hiệu quả được đánh giá như sau: rất tốt: > 75-100%, tốt: > 50%75%, trung bình: > 25%-50% và nhẹ: <25%.
Kết quả: có sự cải thiện đáng kể về mặt thống kê trong nhóm kết hợp (PRP
với NB-UVB) so với nhóm NB-UVB.
Nghiên cứu này bao gồm 60 bệnh nhân mắc bệnh bạch biến không phân
đoạn thể khu trú, bạch biến đối xứng, 26 nam và 34 nữ. Độ tuổi của họ dao động
từ 18 đến 35 tuổi với trung bình là 28±5,65. Độ tuổi khởi phát của tổn thương
dao động từ 1 đến 10 tuổi với trung bình là 5,9±6.2. 42 bệnh nhân có kiểu gen
da IV và 18 bệnh nhân có kiểu gen da III. Trong nhóm PRP, 33 bệnh nhân (55%)
có đáp ứng rất tốt, 12 bệnh nhân (20%) có đáp ứng tốt, 9 (15%) bệnh nhân có
đáp ứng trung bình và 6 (10%) bệnh nhân có đáp ứng nhẹ, trong khi ở nhóm đối
chứng, khơng có bệnh nhân nào có phản ứng tốt hoặc tốt sau 4 tháng điều trị, 4
(6,7%) bệnh nhân có đáp ứng vừa phải, 45 (75%) bệnh nhân có phản ứng nhẹ và
11 (18.3%) khơng có đáp ứng. Về tác dụng phụ; khơng có biến chứng ở 27 bệnh
nhân (45%), 33 bệnh nhân còn lại (55%) báo cáo một số tác dụng phụ như; đau
khi tiêm ở 30 bệnh nhân (50%), chàm ở 9 bệnh nhân (15%).
Theo dõi: sau 3 tháng theo dõi, phía PRP tiếp tục cải thiện và khơng có
trường hợp tái phát nào được báo cáo trong khi ở bên kiểm sốt, tình trạng mất
sắc tố đã tái phát trở lại ở 50% bệnh nhân. Không có hiện tượng Koebner có thể
được phát hiện trong suốt nghiên cứu từ các mũi tiêm lặp đi lặp lại.
Việc sử dụng PRP trong da có thể rút ngắn thời gian tiếp xúc với UVB (do
đó giảm liều tích lũy).

17



Các tác dụng phụ được báo cáo trong nhóm PRP là rất ít và nhỏ và tất cả các
bệnh nhân dung nạp tốt quy trình này. Đau xảy ra ở 50% bệnh nhân trị liệu mà
không cần một thiết bị đắt tiền hoặc phòng được trang bị. Sự kết hợp này có thể
được áp dụng khơng chỉ cho các khu vực bạch biến khu trú mà còn phù hợp cho
các khu vực tổn thương lớn. Ngồi ra, nó cũng có thể được sử dụng ở bất kỳ vị
trí nào khơng giống như điều trị phẫu thuật không thể sử dụng ở một số khu vực
như mí mắt, cơ quan sinh dục, mắt và nếp gấp da. Cơ chế hoạt động chính xác
của PRP trong bệnh bạch biến vẫn chưa được biết.
Kết luận: tiêm PRP trong da kết hợp với NB-UVB có thể được coi là một
kỹ thuật đơn giản, an toàn, dung nạp và rẻ tiền để điều trị bệnh bạch biến. Nó rút
ngắn thời gian điều trị NB-UVB và dự kiến sẽ tăng sự tuân thủ điều trị của bệnh
nhân. Cần theo dõi lâu hơn.
/>Nghiên cứu 2: Đánh giá so sánh hiệu quả điều trị của kỹ thuật mài mịn, kỹ
thuật mài mịn kết hợp với kem bơi 5-fluorouracil 5% và kỹ thuật mài mòn kết
hợp với gel placentrex (hợp chất của nitrogen và chiết xuất nhau thai) tại chỗ
trong bệnh bạch biến ổn định khu trú (localized stable vitiligo) (2007) [44].
Mục đích: đánh giá và so sánh hiệu quả điều trị của kỹ thuật mài mòn, kỹ
thuật mài mòn kết hợp với kem 5-fluorouracil 5% và kỹ thuật mài mòn kết hợp
với gel placentrex tại chỗ trong điều trị bạch biến ổn định khu trú (localized
stable vitiligo).
Phương pháp: Ba mươi bệnh nhân mắc bệnh bạch biến ổn định khu trú (ít
nhất ba tổn thương mỗi bệnh nhân, các mảng bạch biến ổn định, tức là khơng có
bất kỳ sự tăng hoặc giảm sắc tố hoặc kích thước so với năm trước; các mảng
bạch biến có đường kính nhỏ hơn 10 cm; và khơng có nhiễm trùng đang hoạt
động trên tổn thương hoặc trên cơ thể bệnh nhân) được đưa vào nghiên cứu. Sau
khi mài mòn, một miếng gạc tẩm soframycin được đặt trên tổn thương đầu tiên,

18



kem 5-fluorouracil 5% được thoa lên tổn thương thứ hai, và gel placentrex bôi
tại chỗ cho tổn thương thứ ba trong khoảng 7 ngày sau khi làm kỹ thuật mài
mòn. Bệnh nhân uống cephalosporin thế hệ thứ hai (cefuroxime) và thuốc chống
viêm không steroid (NSAID) trong 7-10 ngày sau kỹ thuật mài mòn. Các bệnh
nhân được theo dõi trong 6 tháng.
Kết quả: Hiệu quả điều trị cao nhất (73,33%) và nhanh nhất ở các tổn thương
được điều trị bằng kỹ thuật mài mòn kết hợp với 5-fluorouracil. Kỹ thuật mài
mòn đơn trị và kỹ thuật mài mòn kết hợp với gel placentrex cho thấy hiệu quả
tương đương trong bệnh bạch biến ổn định khu trú.
Kết luận: kỹ thuật mài mòn kết hợp với 5-fluorouracil 5% là hiệu quả nhất trong
3 phương thức điều trị trong nhiên cứu.
Cơ chế mà 5-fluorouracil gây ra tái sắc tố của bệnh bạch biến có thể là do sự
kích thích quá mức melanocytes trong nang, di chuyển lên bề mặt trong biểu mơ
hóa, dẫn đến tăng sắc tố. Tăng sắc tố là tác dụng phụ đã biết của 5-fluorouracil,
được quan sát thấy trong quá trình điều trị khối u da và bệnh vẩy nến.
Sẹo phì đại xuất hiện trong 8 mảng bạch biến. Sẹo phì đại có thể là tác dụng phụ
của bơi tại chỗ 5-fluorouracil, cũng có thể do kỹ thuật mài mịn sâu trong các
mảng bạch biến này.
/>Nghiên cứu 3: Đánh giá hiệu quả của lăn kim vi điểm kết hợp calcipotriol
cộng với betamethasone với lăn kim vi điểm kết hợp tacrolimus trong điều trị
bệnh bạch biến (2019) [26].
Bệnh bạch biến là một rối loạn sắc tố phổ biến ảnh hưởng đến khoảng 1%
dân số nói chung. Có rất nhiều phương pháp điều trị y tế và phẫu thuật. Lăn kim
vi điểm là một kỹ thuật điều trị mới. Nó cũng được sử dụng để tăng cường vận
chuyển thuốc qua da thông qua các lỗ chân lông được tạo ra trong lớp sừng.

19



Mục đích: đánh giá hiệu quả của lăn kim vi điểm kết hợp tacrolimus so với
hiệu quả của lăn kim vi điểm kết hợp calcipotriol cộng với betamethasone trong
điều trị bạch biến.
Phương pháp: Hai mươi lăm bệnh nhân mắc bệnh bạch biến đã được chọn và
các mảng bạch biến đối xứng của bệnh nhân được chia thành bên A (bên phải)
thực hiện lăn kim vi điểm kết hợp calcipotriol (0,05 mg/g) tại chỗ cộng với
betamethasone (0,5 mg) và bên B (bên trái) thực hiện lăn kim vi điểm kết hợp
tacrolimus (0,03%) bôi. Mỗi bệnh nhân được điều trị 1 buổi mỗi 2 tuần trong tối
đa 6 tháng (12 buổi điều trị) và theo dõi trong 3 tháng. Sinh thiết da được thực
hiện trước và sau khi điều trị để đánh giá kết quả lâm sàng.
Kết quả: Ở bên A, 60% bệnh nhân cho thấy sự cải thiện tuyệt vời trong khi
32% cho thấy phản ứng tuyệt vời ở bên B. Tỷ lệ phần trăm cải thiện trung bình
cao hơn đáng kể ở bên A so với bên B. Nó có hiệu quả ở các vị trí kháng trị nhất
như: khuỷu tay, đầu gối, tứ chi và khu vực thuộc đỉnh (the acral parts). Kiểm tra
mô bệnh học cho thấy một biểu hiện đáng kể của HMB45 ở bên A nhiều hơn
bên B.
Kết luận: Sự kết hợp của lăn kim vi điểm với calcipotriol cộng với
betamethasone có hiệu quả hơn so với sự kết hợp của lăn kim vi điểm với
tacrolimus. Chúng đều hiệu quả trong các khu vực kháng trị. Cả hai phương
pháp đều an toàn và dung nạp tốt với tác dụng phụ tối thiểu.
/>Nghiên cứu 4: So sánh hiệu quả giữa lăn kim vi điểm kết hợp 5-fluorouracil
với lăn kim vi điểm kết hợp tacrolimus trong điều trị bệnh bạch biến (2018)
[32].
Mục tiêu: Nghiên cứu hiệu quả giữa lăn kim vi điểm kết hợp 5-fluorouracil
với lăn kim vi điểm kết hợp tacrolimus trong điều trị bệnh bạch biến.

20



Phương pháp: Hai mươi lăm bệnh nhân mắc bệnh bạch biến được lăn kim vi
điểm 2 mảng bạch biến, sau đó thoa 5-fluorouracil lên 1 mảng bạch biến và
tacrolimus trên mảng bạch biến còn lại. Trị liệu được lặp lại sau mỗi 2 tuần cho
mỗi bệnh nhân trong tối đa 6 tháng (12 buổi). Các bệnh nhân được theo dõi
trong 3 tháng sau buổi điều trị cuối cùng.
Kết quả: Sự thay đổi tổng thể cao hơn đáng kể ở các mảng bạch biến được
điều trị bằng 5-fluorouracil so với tacrolimus. Sự cải thiện tuyệt vời xảy ra ở
48% các mảng bạch biến được điều trị bằng 5-flurouracil trong khi chỉ có 16%
các mảng bạch biến được điều trị bằng tacrolimus. Trong các phần thuộc đỉnh
(the acral parts), 40% các mảng bạch biến được điều trị bằng 5-fluorouracil đã
đạt được sự cải thiện tuyệt vời (sự thay đổi> 75%), trong khi khơng có mảng
bạch biến nào trong các phần thuộc đỉnh đạt được sự cải thiện tuyệt vời với
tacrolimus. Tuy nhiên, tác dụng phụ như viêm, loét và tăng sắc tố xảy ra với 5fluorouracil nhiều hơn tacrolimus.
Kết luận: Lăn kim vi điểm kết hợp với 5-fluorouracil hoặc tacrolimus là điều trị
an toàn và hiệu quả bệnh bạch biến. Tuy nhiên, 5-fluorouracil đạt được tỷ lệ hiệu
quả lớn hơn so với tacrolimus đặc biệt là ở các chi (acral).
/>Nghiên cứu 5: Nghiên cứu về điều trị bệnh bạch biến bằng Laser phân đoạn
carbon Dioxide kết hợp với Tacrolimus (2018) [12].
Mục tiêu: quan sát các tác động, phản ứng bất lợi và kết quả điều trị bạch
biến bằng laser fractional Carbon dioxide (CO2) kết hợp với tacrolimus.
Phương pháp: Bốn mươi bệnh nhân mắc bệnh bạch biến được chia ngẫu
nhiên thành hai nhóm: nhóm điều trị (T) và nhóm kiểm sốt (C), và mỗi nhóm
được chia thành ba nhóm nhỏ (mặt, thân và tay chân, bàn tay và bàn chân) theo
vị trí mảng bạch biến ở da. Cả hai nhóm đều sử dụng kem tacrolimus 0,1% tại
chỗ, nhưng nhóm T được điều trị bằng laser phân đoạn CO2 mỗi tháng. Chúng

21


tôi đã quan sát hiệu quả lâm sàng, phản ứng bất lợi và kết quả giảm sắc tố sau 6

tháng.
Kết quả: So với nhóm C, nhóm T cho thấy sự cải thiện tốt hơn trong cả đánh
giá khách quan và chủ quan. Khi thời gian điều trị được tăng lên, hiệu quả cũng
được cải thiện (2 trường hợp trong giai đoạn tiến triển nhanh, 1 trường hợp trong
giai đoạn tiến triển) và 1 trường hợp hình thành sẹo trên cổ trong nhóm T.
Kết luận: Phương pháp điều trị kết hợp (laser phân đoạn CO2 kết hợp với
tacrolimus tại chỗ) có hiệu quả trong điều trị bệnh bạch biến, bất kể vị trí: thân,
tay chân, hoặc bàn tay và bàn chân. Việc điều trị bệnh bạch biến bằng Laser
phân đoạn CO2 kết hợp với Tacrolimus phù hợp nhất cho bệnh nhân bạch biến
trong giai đoạn tiến triển (progression stage). Bệnh nhân trong giai đoạn tiến
triển nhanh (rapid progression stage) nên thận trọng khi sử dụng phương pháp
này và hiệu quả của nó bị hạn chế đối với bệnh nhân ở giai đoạn ổn định (stable
stage).
/>
Nghiên cứu 6: Hiệu quả phương pháp cấy ghép TB hắc tố so với cấy ghép
các loại TB bạch cầu khác trong điều trị bạch biến khi theo dõi thời gian dài.
Phương pháp cấy ghép TB hắc tố có hiệu quả hơn so với các phương pháp
cấy ghép các TB bạch cầu khác trong điều trị bạch biến, hiệu quả có thể kéo dài
ít nhất 72 tháng.
/>Trong nước:
Bệnh viện da liễu trung ương: áp dụng thành công phương pháp ghép tế
bào thượng bì tự thân khơng qua nuôi cấy điều trị bệnh bạch biến và các rối loạn
giảm sắc tố da khác.

22


Phương pháp cấy ghép tế bào thượng bì trong điều trị bệnh bạch biến đạt
hiệu quả rất cao, có thể lên tới 70-80% đặc biệt trong bạch biến đoạn, và thường
rất ít tái phát. Các trường hợp đủ điều kiện để được chỉ định thực hiện:

- Bệnh nhân mắc bạch biến ổn định ít nhất 1 năm (nghĩa là trong vịng 1
năm bạn khơng có tổn thương mới nào hoặc tổn thương cũ khơng lan rộng).
- Khơng có hiện tượng Kobner: không xuất hiện tổn thương bạch biến ở
vùng chấn thương.
- Khơng có tiền sử sẹo lồi do chấn thương.
Cấy ghép tế bào thượng bì là phương pháp dùng tế bào thượng bì gồm: tế
bào hắc tố, tế bào gai, một số tế bào gốc của chính cơ thể mình ghép vào tổn
thương bạch biến.
Các bác sĩ lấy da ở vùng hông hoặc mặt trước đùi theo tỷ lệ 1/5 (nếu tổn
thương rộng tỷ lệ này có thể là 1/10). Miếng da này được đưa vào trong dung
dịch, qua các cơng đoạn sẽ tách lấy tế bào thượng bì, ni dưỡng, sau đó sẽ ghép
vào vùng da bị bạch biến. Tế bào ghép vào sẽ được dùng gạc cố định và tháo ra
trong vòng một tuần.
Mỗi 1 bệnh nhân mất khoảng 2-4 tiếng để hoàn thành xong tất cả quy trình
tùy vào diện tích tổn thương.
Thơng thường người bệnh bạch biến chỉ cần ghép một lần, tuy nhiên người
bệnh cũng có thể ghép hơn một lần để tăng hiệu quả. Thời gian để đạt hiệu quả
thường sau 1-2 tháng, tối đa sau 6-12 tháng.
Để đạt hiệu quả điều trị cao thì có thể kết hợp với điều trị bằng ánh sáng trị
liệu. Sau điều trị, bệnh nhân có thể hoạt động và làm việc bình thường.

23


SÙI MÀO GÀ

Nghiên cứu 1: Điều trị sùi mào gà niệu đạo bằng laser cắt bỏ thương tổn
kết hợp với liệu pháp quang động (5 aminolaevulinic acid-photodynamic
therapy: ALA-PDT)
Điều trị mụn cơm niệu đạo là một thách thức vì nó khó điều trị nếu ở sâu,

dễ tái phát và có thể để lại sẹo gây hẹp niệu đạo.
Liệu pháp quang động khơng gây tổn thương mơ, do đó tránh để lại sẹo,
bên cạnh đó có tài liệu cho rằng liệu pháp quang động có thể cải thiện sẹo sau
phẫu thuật.
Nội soi niệu đạo 1 năm sau thì khơng thấy sùi mào gà tái phát, khơng hẹp
niệu đạo và khơng có sẹo. Hiện nay ở Trung Quốc, liệu pháp quang động là
phương pháp ưu tiên lựa chọn điều trị cho BN sùi mào gà ở niệu đạo.
Cách làm: sau khi cắt bỏ thương tổn bằng laser, thực hiện liệu pháp quang
động 3 lần/tuần. Dung dịch 20% ALA. Tiêm từ từ 1ml dung dịch ALA vào niệu
đạo. Sau 4h, PDT được thực hiện tại mật độ năng lượng 100 J/cm2 với bức xạ
100 mW/cm2, bước sóng 635nm trong 20-30 phút được phát ra bởi laser bán
dẫn. Mỗi bệnh nhân được PDT hàng tuần.
/> />%3Dihub
/>
Nghiên cứu 2: Điều trị sùi mào gà trẻ em bằng sinecatechins ointment

24


Ca LS: Bé gái 7 tuổi sùi mào gà ở bộ phận sinh dục lan rộng, điều trị đốt
điện, áp lạnh trước đó nhưng bị tái phát. Sinecatechins ointment 10% bôi thương
tổn 3 lần/ngày, sau 9 tuần bôi sùi mào gà biến mất. Theo dõi trong 1 năm thì
khơng thấy tái phát.
Thuốc mỡ sinecatechins là một phương pháp điều trị tại chỗ có nguồn gốc
từ trà xanh. Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng nó điều chỉnh và giảm bớt
các gen liên quan đến phản ứng tiền viêm đối với nhiễm HPV. Nó đã được FDA
và EMEA chấp thuận để điều trị mụn cóc sinh dục ở bệnh nhân ít nhất 18 tuổi.
Thuốc mỡ nên được áp dụng 3 lần một ngày trong tối đa 16 tuần hoặc cho đến
khi vết thương khỏi hẳn. Dữ liệu hạn chế khi điều trị ở trẻ em. Gần đây, một cậu
bé 11 tuổi bị mụn cóc sinh dục đã được điều trị thành cơng bằng thuốc mỡ

sinecatechins 10%.
Cần có nhiều nghiên cứu hơn, thuốc mỡ sinecatechin có thể là một phương
pháp điều trị an toàn và hiệu quả cho những trẻ em bị sùi mào gà lan rộng.
/>Nghiên cứu 3: Điều trị sùi mào gà bằng isotretinoin uống.
BN được bôi podophylline 20% trong 1 tháng, kết hợp uống isotretinoin 0.75
mg/kg/ngày cho đến sau 2 tuần thương tổn biến mất. Theo dõi 6 tháng không
thấy thương tổn xuất hiện trở lại.
/>Nghiên cứu 4: Cimetidin có tác dụng làm giảm tái phát sau điều trị sùi
mào gà
Uống cimetidin giúp cải thiện tình trạng miễn dịch qua trung gian tế bào do
ngăn cản tế bào T ức chế, nâng cao hoạt động tăng sinh lympho bào.
Nghiên cứu của Franco I. (2000) trên bốn trẻ bị sùi mào gà sinh dục và hậu
môn lan tỏa cho kết quả rất tốt, liều cimetidin 30-40mg/kg/ngày; sạch tổn

25


×