Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

NGHỆ THUẬT PHÂN TÍCH tâm lí trong truyện vợ chồng a phủ của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.5 KB, 14 trang )

Tự lựa chọn một đoạn trích trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi, em hãy
phân tích để làm nổi bật thành công của tác giả trong việc khắc họa nội tâm nhân
vật
“Vợ chồng A Phủ” là thành quả đẹp trong mùa thu hoạch đầu tiên của Tơ Hồi trên
quê hương văn học mới của ông. Tác phẩm gồm ba truyện, viết về cuộc sống của
ba dân tộc ít người khác nhau cùng tụ cư tại vùng cao Tây Bắc. Tác phẩm đã thể
hiện đặc sắc cuộc sống của đôi thanh niên nam nữ Mèo, Mị và A Phủ, trong suốt
quá trình họ bị phong kiến thực dân áp bức đến khi giác ngộ Cách mạng. Dấu ấn
đậm nét nhất trong lịng bạn đọc ehính là đời sống nội tâm nhân vật Mị đã được Tơ
Hồi dụng cơng khắc họa trong đoạn trích diễn biến tâm trạng Mị ở nhà thống lí Pá
Tra khi mùa xúân đến cho tới đêm mùa đơng định mệnh, Mị cởi dây trói cứu A
Phủ.
Trước khi đến với đời sống nội tâm của nhân vật Mị ở trích đoạn này, ta hãy ngược
dịng thời gian tìm hiểu về cuộc sống đầy bi thương của cơ gái Mèo xinh đẹp trước
đó
Mị là cơ gái có nhan sắc, yêu đời, tâm hồn đẹp của nàng ăm ắp khát vọng hạnh
phúc, lại chăm chỉ và thật hiếu thảo. Nhưng: “Trời xanh quen thói má hồng đánh
ghen”. Hủ tục cho vay nặng lãi và xiết nợ đã biến Mị thành “món hàng” gán nợ
cho nhà thống lí Pá Tra. Để rồi từ đây, cuộc đời Mị rơi vào một cái vịng luẩn quẩn
khơng lối thốt. Sự kiện Mị làm con dâu gán nợ nhà thống lí Pá Tra giống như
“thanh nam châm” hút toàn bộ nỗi khổ đau đời Mị lại. Xu hướng khám phá nhân
vật - số phận của Tơ Hồi có cơ hội dựng lên một bản cáo trạng qua một cuộc đời:
món nợ nhà giàu truyền kiếp đã cướp trắng cả tuổi trẻ dào dạt khát vọng của Mị.
Nhà văn dựng lên những phép so sánh thật đau đớn: Mị là con trâu, con ngựa (so
sánh tương đồng), thậm chí khơng bằng con ngựa (so sánh địn bẩy). Mị “lùi lũi
như con rùa ni trong xó cửa”. Thủ pháp “vật hóa” nhưng khơng mang hiệu quả
trào phúng mà để cực tả nỗi đau: kiếp người là kiếp vật.
Mị tốt đẹp thế, mà lại cơ cực thế. Đó là một nghịch lí. Nghịch lí này bao chứa hai
tầng nghĩa: Thứ nhất, nó chân thực, nên hé mở một bút pháp khơng đơn điệu. Thứ
hai, nó hé mở tiếp một sức cảm thống lớn. Nghệ sĩ chân chính là người biết cảm
thống với những kiếp sống bé mọn nhất-, những phần đời đau đớn, tồi. tệ nhất. Có


sống gần những con người cùng khốn, Nam Cao mới cảm nhận hết cơn quằn quại,
hoảng loạn đời Chí Phèo, Tơ Hồi mới khám phá ra cái mất lớn nhất của Mị: đánh
mất tình đồng loại trong thái độ thản nhiên, tàn nhẫn trước cái chết đang ập xuồng
đầu A Phủ. Cái mất ghê ghớm ấy hé mở một lời cáo trạng dữ dội mà Mị là nhân
chứng về sự bị tước đoạt quyền sống đến triệt để.
Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó liệu tác phẩm của Tồ Hồi có đọng lại bền lâu trong
kí ức bạn đọc đến thế không? Cái tài và cái tâm của nhà văn nằm ở thủ thuật tạo
sức nén cho nhân vật trỗi dậy. Diễn biến tầm trạng nhân vật Mị đã cho thấy sự


vùng lên quyết liệt với hai đột biến lớn: đêm tình mùa xn (mn đi chơi) và đêm
đơng trên núi cao (cứu A Phủ).
Mùa xuân đến. Mùa xuân đẹp nhất trong năm mang lại cho con người hi vọng, ước
mơ, là mùa của lễ hội, vui chơi, mùa của tình yêu. Tuy nhiên, sống trong nhà thống
lí Pá Tra với tư cách là con dâu gạt nợ, làm việc quần quật như súc nơ, Mị khơng
có quyền vui chơi lễ hội. Nhưng những tiếng sáo gọi bạn tình, tiếng khèn đêm hội
vân vang vọng đến căn buồng tăm tối của Mị, đánh thức ở Mị khát vọng được
sống, được vui chơi như bao thanh niên khác mà bấy lâu tưởng như những khát
vọng ấy đã chết lịm từ bao giờ.
Từ một tâm trạng lặng lẽ, u uẩn, một cuộc sống vơ vị như cái máy, khơng có q
khứ, khơng có hiện tại và khơng có tương lai, Mị nghe tiếng sáo tha thiết gọi bạn
mà hồi tưởng những ngày hồn nhiên, tươi trẻ thuở xưa. Ngày ấy: “Mị thổi sáo giỏi.
Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo” đến nỗi biết bao trai làng “đi theo Mị hết núi này
sang núi khác”. Tiếng sáo đó giúp Mị nhận ra một điều tưởng như đã chìm vào
quên lãng, rằng ngày xưa Mị cũng là một cô gái tài hoa, tươi trẻ, hồn nhiên và xinh
đẹp, cũng làm say đắm lòng người. Thế mà bây giờ...
Tiết xuân, những âm thanh vui vẻ của đám hội và hồi tựởng về tuổi mộng mơ đã
làm Mị như sống lại, Mị thấy yêu đời. Đánh thức một tâm hồn chai lì như vậy đâu
phải là dễ nếu khơng có mùa xn với sức sống của đất trời, với những tình u
đơi lứa và nếu như bản thân Mị khơng có một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt! Sức

sống đó đã bị nhà Pá Tra bóp chết từ khi Mị mới bước chân về làm dâu, khơng để
cho nó có cơ hội nào nhen nhúm lại. Bây giờ nó bắt đầu bừng lên khi Mị thấy u
đời: “Mị thấy lịng mình vui sướng lại. Mị cịn trẻ, Mị vẫn cịn trẻ". Mị đã tìm được
niềm vui dù mơ hồ, Mị thấy được tuổi trẻ của mình vẫn còn, Mị bắt đầu thấy thời
gian quý giá và cần phải hưởng trọn vẹn niềm vui chứ không thể để tất cả buông
xuôi như bấy lâu nay nữa. Nếu như lúc trước Mị hoàn toàn mờ Mịt về thời gian,
Mị khơng nhớ mình về đây lúc nào vì suốt năm suốt tháng đầu tắt, mặt tối thì bây
giờ Mị đã có ý niệm về thời gian. Mị ý thức được đây là mùa xuân và mình phải
được hưởng niềm vui của mùa xuân. Những tiếng sáo thiết tha, bồi hồi, thúc giục
Mị. Từ ý nghĩ: “mình cũng là con trâu, mình củng là con ngựa”, chỉ biết “sống như
con rùa lùi lũi ở xó cửa”, Mị muốn có cái quyền đơn giản như bao người khác: “Mị
muốn đi chơi”. Đôi với Mị đây là một sự thay đổi lớn lao mà vẫn còn kịp lúc, tuy
bắt nguồn từ những cảm xúc nhất thời nhưng nó chứng tỏ Mị vẫn cịn là một con
người. Hễ là con người thì cũng biết vui xuân, vui Tết, thổi sáo, đánh pao, nhảy
múa... như bao người khác chứ!
Chính sự thay đổi đó làm A Sử ngạc nhiên vì dưới mắt hắn, Mị chẳng khác nào súc
nơ. Hành động trói Mị tàn nhẫn của hắn tuy giam giữ được thể xác Mị song không
thể giam giữ được tâm hồn Mị: “Lòng Mị vẫn rập rờn tiếng sáo”. Tai Mị vẫn lắng
nghe tiếng sáo từ ngoài bãi vọng vào. Tâm hồn Mị bây giờ như chơi vơi trong
mộng tưởng, vượt qua núi đồi, trở về với thời xa xưa của một hình bóng tươi tấn,
tài hoa. Sức sống trỗi dậy làm Mị phơi phới, mơ mộng trong thoáng chốc nhưng


rồi nó lại kéo Mị về với thực tại. Chính sức sống của Mị buộc Mị phải nghĩ đến
liệu Mị có duy trì được sự sống này hay khơng? Mị đã biết sợ chết; “Mị thử cựa
mình, các dây trói xiết lấy người đau như đứt từng mảng thịt”. Nhớ đến người chị
dâu cũng bị trói chết, Mị sợ. Và một khi người ta biết sợ chốt thì người ta càng
thêm yêu cuộc sống. Mị cũng vậy.
Bên cạnh tâm trạng trong đêm mùa xuân đã một lần khơi dậy sức sống mãnh liệt
vốn đã tiềm tàng trong con người Mị, ta không thể quên, đột biến lổn nhất, đủ sức

làm đổi thay một kiếp người là cái đêm mùa đông ấy, Mị cứu A Phủ. Đột biến này
đặt ra nhiều thử thách lớn với cây bút hiện thực tâm lí Tơ Hồi. Ơng đã tỏ ra khá
chắc tay trong việc miêu tả tinh tế diễn biến tâm lí nhân vật Mị ở lẩn đột biến thứ
hai này.
Mị khởi đầu trong trạng thái thản nhiên đáng sợ: “Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng
lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn
sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nêu A Phủ
là cái xác chết đứng đấy, củng thế thôi”. Tâm hồn người đàn bậ vốn nhân hậu ấy đã
rơi vào trạng thái vô cảm, tê dại - chứng tích của tình trạng bị “chai lì” cảm xúc.
“Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ đã làm
hồi sinh trái tim đầy thương tích của Mị: “Mị chợt nhớ năm trước A Sử trói Mị...”.
Thương mình, thương người, tình thương gọi tình thương tạo sức mạnh phi
thường. Ý nghĩ: “người kia việc gì mà phải chết cứ thơi thúc Mị”.
Lòng thương người mạnh mẽ, lấn át cả nỗi thương thân đó là quy luật của lịng
nhân hậu. Chính điều này làm Mị chiến thăng nỗi sợ, dẫn Mị tới hành động đột
ngột mà tất yếu: rút dao cắt dây trói cứu A Phủ.
Cái sợ lại ập xuống, nhưng thúc đẩy bản nãng tự vệ tích cực của Mị: chạy theo A
Phủ. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị cũng đã tự cắt dây trói cứu cuộc đời mình. Từ đây,
cuộc đờí Mị bước sang trang mới với niềm vui của hạnh phúc lứa đôi được sưởi
chiếu dưới ánh sáng cách mạng.
So với lần một, sự quẫy đạp lần hai của Mị triệt để hơn. Lần trước: số phận đứng
im; lần sau: bản năng quyết liệt đã giở một trang mới trong đời.Mị. Tự do đang hé
cười, đón đợi. Sự diễn tả hợp lí những nghịch lí diễn biến tinh vi trong hồn người
đã giúp Tơ Hồi phần nào đạt đến cái gọi là “phép biện chứng tâm hồn”, nên Mị
hiện ra không đơn giản mà đầy mâu thuẫn, gây những bất ngờ thú vị mà vẫn hoàn
toàn hợp lí, phản ánh đúng bản chất hiện thực.
Cùng viết về số phận con người bị đọa đầy, áp bức, các nhà văn hiện thực lớp trước
như Nguyên Hồng, Nam Cao, Ngơ Tất Tố... tuy đã có cảm nhận sâu sắc với số
phận của họ mà cũng là của tất cả dân tộc bị áp bức, bị tước đoạt quyền sống
nhưng chưa mở ra cho họ một lối thoát, một tương lai. Từ hiện thực cuộc kháng

chiến của dân tộc, từ những điểm nhìn cận cảnh khi cùng bộ đội đi giải phóng vùng


Tây Bắc, với phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, Tơ Hồi đã cho
nhân vật của mình tự cởi trói để đến với cách mạng. Đây là nét đặc sắc của nghệ
thuật phân tích chiều sâu tâm lí nhân vật tạo nên sức hấp dẫn độc đáo của tác
phẩm.
Ngịi bút Tơ Hồi đã nâng niu từng nét diễn biến tâm lí, từng bước trỗi dậy trong
tâm hồn Mị. Thành công của tác giả là đã tái hiện chân thực và sinh động cuộc
hành trình từ đau khổ, tăm tối vươn ra hạnh phúc, ánh sáng của một thê' hệ thanh
niên dân tộc Hmông mà đại diện tiêu biểu là nhân vật Mị. Chính q trình diễn
biến tâm lí phức tạp của Mị qua hai lần đột biến tinh thần đã đưa Mị đên với hành
động cụ thể mang tính nhân văn sâu sắc: cắt dây trói cứu A Phủ. Và phải chăng sức
chinh phục của thiên truyện nằm ở cái nhìn thật biện chứng của tác giả vào thế giới
nội tâm; ở đó tâm lí con người ln vận động và phát triển theo hướng tích cực.
MỞ BÀI
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ
Chế Lan Viên đã thốt lên những lời thiết tha ấy trong bài thơ có tên “ Tiếng hát con
tàu “ . Thế nhưng miền rừng núi xa xôi ấy không chỉ là nguồn cảm hứng riêng cho
những tác phẩm thi ca. Từ khá lâu trước “ Tiếng hát con tàu”, mảnh đất Tây Bắc
cũng đã từng sinh thành cho văn xuôi một tác phẩm vào loại xuất sắc nhất trong số
những truyện kí được viết vào thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Và người có
cơn đem lại Tây Bắc cho nền văn xuôi kháng chiến, không thể là ai khác ngồi Tơ
Hồi , và tác phẩm mà chúng ta đang nói tới cũng khơng thể là tác phẩm nào khác
ngồi tập truyện mà trong đó truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ “ vẫn được coi là xuất
sắc nhất, tiêu biểu nhất. Và như mọi tác phẩm ưu tú khác, “ Vợ chồng A Phủ” vẫn
mang trong đó hai trong số những giá trị vẫn được coi là vĩnh hằng của văn
chương : giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Và góp phần nhiều nhất làm nên sức
lơi cuốn của “ Vợ chồng A Phủ “ khó có gì khác hơn là sức sống tiềm tàng của
nhân vật chính- cơ Mị, được thể hiện trong hai đêm đáng ghi nhớ nhất của đời cơđêm tình mùa xn và đêm mùa đơng mà Mị đã cởi trói cho A Phủ rồi cùng nhau

thốt khỏi Hồng Ngài.
Phân tích diễn biến tâm trạng và hành đọng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa
xuân ở Hồng Ngài (“Vợ chồng A Phủ”, Tơ Hồi). Từ đó, liên hệ với diễn biến tâm
trạng nhân vật Chí Phèo (“Chí Phèo”, Nam Cao) buổi sáng sau khi gặp thị Nở để
cho thấy khát vọng sống của từng nhân vật.
Mở bài:
Sau chuyến đi thực tế lên miền Tây Bắc năm 1952, Tơ Hồi cho ra đời tập “Truyện
tây Bắc”. Tập truyện gồm 3 truyện ngắn: Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn và Cứu
đất cứu mường. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm nổi bậc hơn cả. Truyện
phản ánh số phận nô lệ và sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do của những dân lao


động nghèo miền núi dưới sự áp bức của bọn phong kiến chúa đất và bọn thực dân.
Từ đó, nhà văn đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc
sống mới. Tơ Hồi từ tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân đã gọi thức Mị một thứ
cảm giác mà Mị đã đánh mất trong suốt quãng đời khổ đau của mình, Nam Cao từ
những tiếng chim hót, tiếng những người đi chợ về đã chợt bồi hồi trong lịng Chí
Phèo những mong ước hồn lương.
Thân bài:
Trong làng văn của Việt Nam, Tơ Hồi đứng vào bậc “trưởng lão”, cả về tuổi đời,
tuổi văn và cả gia tài đồ sộ mà ông đã cống hiến cho văn học nước nhà. Ông là cây
bút hàng đầu về hồi kí, sáng tác về lồi vật và đặc biệt nhất là thể loại truyện ngắn.
Một trong những đề tài ưa thích của ơng là cuộc sống và phong tục của người dân
miền núi Tây Bắc. Hình như ngịi bút của Tơ Hồi bao giờ cũng thấm đẫm thứ mực
chắt ra từ sự giao hòa đến thân thương những gì thân thuộc với tâm hồn ơng .
Viết về người miền núi, nhất là trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, ông đã chạm đến
ở một tầng bậc thẳm sâu của những nỗi đau và niềm khát khao sâu kín của người
lao động nghèo – những người đã cùng ông trải qua những năm cơ khổ chống Pháp
. Bởi thế mỗi trang viết của Tơ Hồi là một cuộc dị tìm bằng trái tim để chạm đến
những góc nhỏ, những ẩn khuất lớn , những khát vọng tiềm tàng trong con người .

Đoan trích “Vợ chồng A Phủ” : là phần đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” , đồng
thời cũng là phần hay nhất trong truyện ngắn này. Cuộc sống của người lao động
miền núi với những sức sống tột bậc và đau khổ tột cùng đã chạm khắc trên từng
biến động của số phận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.

Nỗi khổ của Mị là nỗi khổ của một người phụ nữ tràn đầy khát vọng sống nhưng
lại bị đẩy đưa vào những tấn bi kịch của con dâu gạt nợ, quẩn quanh trong kiếp
sống “không bằng con trâu con ngựa”. Cuộc sống ấy không chỉ lấy đi hai điều
trong căn tính của con người là cảm nhận thời gian và cảm nhận nỗi đau mà cịn
lấy đi một khát khao khác đó là khát khao được giao cảm “Mỗi ngày Mị càng
khơng nói, lùi lũi như con rùa ni trong xó cửa. “Cái xó cửa ấy đó là căn buồng,
một căn buồng “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào
trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay nắng”.
Như thế từ việc tách biệt Mị khỏi thế giới của những cảm nhận về thế giới xung
quanh, chính giai cấp thống trị đã tàn nhẫn chặn con đường trở về cái tơi cá nhân
của mình bằng những sự kín mít, tù đọng. Mị trở thành những xác vơ tri trơi vào
hố đen vơ tận.
Tơ Hồi có lẽ đã lẳng lặng dõi theo từng bước bi kịch của Mị. Và liệu tác giả đã
nhỏ bao nhiêu giọt nước mắt xót thương cay đắng cho Mị? Nào ai biết được. Chỉ
biết rằng trong những năm tháng “ở lâu trong cái khổ”, trong những năm tháng vất


vưởng trong không gian và vô thức với nỗi đau, Mị đã chợt nghe tiếng sáo vọng
về. Tiếng sáo ấy ngân vang tha thiết và bồi hồi :
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta khơng có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”

Tiếng sáo đêm tình mùa xuân xuất hiện như một biến cố trong cuộc đời miên man

vơ tận của Mị khi trót mang thân phận con dâu gạt nợ. Tơ Hồi xây dựng chi tiết
tiếng sáo trong sự đan xen với những chuyển biến nội tâm nhân vật, từ đó làm nổi
bật mối quan hệ giữa tâm lí con người – tiếng sáo trong thực tại – kí ức tươi đẹp –
đồng thời làm bật lên ý nghĩa biểu tượng của tiếng sáo. Tiếng sáo là một phần
không thể thiếu để tạo nên không khí của những đêm hội xuân ở Hồng Ngài.
Trong khung cảnh rộn ràng của ngày Tết, với những đứa trẻ “chơi quay, cười ầm
trên sân chơi trước nhà”, những người phụ nữ thì chuẩn bị váy hoa “xịe như con
bướm sặc sỡ” để đi chơi Tết. Tiếng sáo vang lên như báo hiệu cuộc vui đầu năm
bắt đầu: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” .
Tơ Hồi miêu tả tiếng sáo như thể có dáng hình, từ láy “lấp ló” khắc họa tiếng sáo
như chợt đến chợt đi, khi vang khi vọng, một mặt như muốn mời gọi những tâm
hồn đương xuân. Mặt khác, cũng là tiếng sáo ở xa xăm, mơ hồ, chưa rõ trong đêm
tình mùa xuân. Thế mà tiếng sáo ấy vẫn có thể “vọng lại” với Mị, khiến cô “thiết
tha bổi hổi”. “Thiết tha” và “bổi hổi” là hai cảm giác mang hai mảnh tâm tư khác
nhau. “Thiết tha” là rung động là da diết. “Bồi hồi”lại như thúc giục, như rộn rã
tâm hồn con người.
Tiếng sáo đêm tình mùa xuân gọi dậy trong tâm hồn Mị cái tha thiết của kí ức và
vực dậy niềm vui sống tưởng chừng đã hóa tro tàn theo tháng năm. Tâm hồn Mị đã
phản ứng một cách vô thức với tiếng sáo, tự nhiên như mặt trời tỏa sáng khi ngọn
gió đến xua tan mây mù. Như một lời hồi đáp từ lý trí, nghe tiếng sáo, Mị lại
“nhẩm theo bài hát của người đang thổi”. Như một lời hồi đáp từ trái tim, Mị bắt
đầu hịa mình vào tiếng sáo .

Cùng với hơi rượu, tiếng sáo dẫn đường cho tâm hồn Mị trở lại, sống lại những
cảm giác ngày xưa, những đêm tình mùa xuân rừng núi. “Tiếng sáo văng vẳng” có
thể thật sự là tiếng sáo gọi bạn của hiện tại, cũng có thể là tiếng sáo của mùa xuân
năm xưa nay vọng về từ kí ức. Phải chăng, tiếng sáo của thực tại và tiếng sáo của
hồi ức là một sự hòa hợp của tâm thức? Tiếng sáo từ những làng “Mèo đỏ” cứ thể



lấp lánh trong tâm hồn Mị. Nó neo neo theo những hồi chớp nhoáng của tiềm thức,
những lay động quá khứ ngọt ngào trong Mị.
Đã từng có một thời Mị rạo rực sức sống dạt dào sức trẻ. Khi đó, “Mị thổi sáo
giỏi”, Mị “uống rượu trên bếp và thổi sáo”, có biết bao người “thổi sáo đi theo Mị”
suốt ngày đêm. Tiếng sáo gợi cho Mị nhớ về những giá trị của chính mình. Một
vùng kí ức tươi đẹp mà Mị từng có nhưng lại trót mất đi. Mọi thứ như một cuộn
băng được tua lại bỗng rè mờ vài đoạn. Lần này, ” Mị lén lấy hũ rượu và cứ uống
ực từng bát”. Trong những thoáng nghĩ về hiện tại, Mị uống như nuốt hết cay đắng,
uất hận vào mình.
Trong những thống nghĩ về những tháng ngày sau này, cứ quẩn quanh trong
“chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay”, ”trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng,
không biết là sương hay là nắng”, trong cuộc sống vợ chồng mà cả hai chẳng có
lịng với nhau, Mị lại uống như bỏ hờn, bỏ ấm ức, nén chua xót vào lịng. Trong
những thống nghĩ về q khứ, Mị lại uống, uống thêm bát nước để đủ dũng khí
phản kháng và nổi loạn. Trong những khe hở giữa quá khứ – hiện tại – tương lai
ấy, sự khát sống của Mị từng bước hòa vào cơn say để trỗi dậy. Mị mơ tưởng. Và
Mị “phơi phới trở lại”. “Mị còn trẻ lắm”, “Mị muốn đi chơi” cứ thế hối thúc, cứ thế
vội vã dấy lên trong tâm hồn Mị.
Và rồi Mị nhận thức được những bất cơng mà mình cam chịu “Bao nhiêu người có
chồng cũng đi chơi ngày Tết”. Và rồi Mị “ứa nước mắt”. Mị cảm nhận nỗi đau đớn
của thực tại, của những “con người khơng có lòng với nhau mà vẫn phải ở với
nhau”. Mị muốn chết để thốt khỏi những cay đắng hiện hình. Ngay khi vừa chạm
gót vào hiện tại , những tháng ngày cam chịu từng vững chắc lâu nay bỗng sụp đổ
và biến tan thành cát bụi. Mị đã từng nghĩ rằng “cứ chỉ ngồi trông cái lỗ vuông ấy
mà trông ra đến bao giờ chết thì thơi”. Nhưng giờ đây trong hơi rượu, trong tiếng
sao văng vẳng, chỉ còn lại một sự đổ vỡ cảm xúc. Mị thật muốn chết. Mị muốn
chết đi để khơng cịn phải tiếp tục chịu đựng một cuộc sống thiếu vắng tình yêu,
thiếu vắng hy vọng và ước mơ. Những cảm thức về cái chết cứ thế được lên men
từ dư vị của tình yêu cuộc sống thiết tha trong Mị.
Phải chăng, vì Mị nhận ra cái chết chính là sự phản kháng mạnh mẽ nhất cho mọi

sự hữu hình vơ nghĩa đang tồn tại? Có lẽ là thế. Từng tầng cảm xúc cứ vậy mà dần
men theo tiếng sáo bủa vây tâm hồn Mị. Tiếng sáo từng hồi vang lên, hoàn thành
những mảnh ghép về một cuộc đời đẹp đẽ rộn ràng bên ngoài, một thế giới rộng
lớn hơn. Thế giới ấy đối lập với cái buồng tối chật hẹp. Thế giới ấy khơng có
những kí ức đau thương. Thế giới ấy Mị sẽ khơng còn đau buồn và tủi nhục, lo
lắng và sợ hãi vì thế lực thần quyền và cường quyền nữa. Cứ như vậy, tiếng sao
dẫn lối khát vọng thôi thúc Mị niềm khát khao sống, tình yêu và hạnh phúc.
Nhưng “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”, những đêm tình mùa
xuân cháy bỏng cứ xốn xang trong tâm hồn mị:


“Anh ném pao em không bắt
Em không yêu quả pao rơi rồi”
Là tình ai khơng tan, là hồn ai ốn trách. Tất cả chỉ còn lại những âm thanh da diết
trong tâm hồn Mị. Nó hối thúc Mị phải thắp sáng cho số phận cuộc đời mình thay
vì chấp nhận sống mãi trong cái buồng tối “kín mít”. “Mị đến góc nhà, lấy ống
mỡ ,xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Để rồi, ánh sáng từ đèn kia
cũng như ánh sáng từ một vùng mây tươi đẹp nào đó sẽ lại soi sáng cho cuộc đời
Mị. Nó thôi thúc Mị phải làm mới bản thân: “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái
váy hoa vắt ở phía trong vách.
Người ta nói rằng người phụ nữ thường chăm chút ngoại hình là khi trong họ tồn
tại những khát khao được yêu thương, được tự do, được hạnh phúc. Mị trong tiếng
sáo dần được dẫn lối đến những cuộc chơi. Và những ý thức rằng “Mị vẫn còn trẻ”
và đêm hội mùa xuân là chút niềm vui Mị vừa góp nhặt được. Mị hạnh phúc và dần
khát khao được đổi mới mình. Rõ ràng lúc này tiếng sáo dù chẳng còn xuất hiện
trong hiện tại nữa. Tiếng sáo ấy chẳng thể “văng vẳng đầu làng”, khuất bóng ngồi
đầu núi bởi “người về, người đi chơi vãn cả”, nhưng đối với Mị, khoảnh khắc này
mới là lúc Tết về trong Mị, trong tâm tưởng, trong sự hồi sinh của những khát vọng
sống.
Rõ ràng, tiếng sáo đêm tình mùa xuân vẫn ln ở đó, rập rờn từng nhịp trong Mị.

Bất chợt ta nhớ đến hơi cháo hành lan tỏa trong tâm trí Chí Phèo (Chí Phèo – Nam
Cao). Hơi cháo ấy quặn thắt những nỗi đau trong Chí- nỗi đau về sự ruồng bỏ của
Thị Nở, của cuộc đời và những khát vọng lương thiện trỗi dậy là vội tan. Trong
cuộc sống, đơi khi sẽ có những giọng nói, những âm thanh, những mùi hương
khiến ta khắc khoải về một điều gì đó, một ai đó. Khi chúng trở về, con người sẽ
dễ dàng vỡ òa trong chúng, con người sẽ ngừng bị chúng thôi thúc để phản kháng
với hiện thực, với những bất cơng mà mình đang phải chịu đựng.
Chí Phèo từ hơi cháo hành đã khóc nức nở trong niềm tiếc nuối da diết những
tháng ngày hạnh phúc hiếm hoi trong đời bên Thị Nở. Hắn đã không thể ngăn
những bước chân của mình đến nhà Bá Kiến để đòi nợ máu, để đòi được lương
thiện, để đòi sự công bằng từ những bi kịch hắn phải gánh chịu trong cả đời mình.
Mị trong sự rập rờn của tiếng sáo, tâm hồn đã hòa vào tiếng sáo, vào khát vọng
sống. Cũng trong tiếng sáo ấy, Mị lại được hành động như một con người tự do lần
nữa.
Nhưng có lẽ ấn tượng nhất trong những nhịp điệu du dương của tiếng sáo đó chính
là hành động “với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách”. Cái váy hoa vắt trong
chiếc vách ấy có lẽ đã từng ẩm bụi. Hoặc có khi chúng đã bạc màu sờn vai theo
thời gian. Bởi lẽ “biết bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi” ngày Tết, “những
chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mòm đá xòe như cái bướm sặc sỡ.” Cịn Mị
“suốt năm suốt đời như thế”. “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì
giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp…”. Chiếc váy hoa của mình cũng vì


thế mà thu mình trong bóng tối, trong bụi của những khổ đau cơ cực của Mị trong
một khoảng thời gian dài. Bởi thế khi Mị “với tay”, khi Mị nhận ra Mị vẫn được đi
chơi, vẫn có thể khốt lên chiếc váy hoa như bao người phụ nữ bình thường khác.
Sẽ khơng ít người mừng cho Mị. Mừng rằng cơ Mị khi xưa đã dần được sống dậy
trong hình hài của cơ Mị hơm nay, trong chính căn buồng chật hẹp và u tối. Câu
văn của Tơ Hồi ngắn thôi mà dồn dập như một tiếng gọi đầy thôi thúc từ bên
trong tâm hồn Mị, như những nhịp đập mạnh mẽ của một người phụ nữ đang trở về

mùa xn của chính mình. Sức sống vì vậy theo cơn gió xn, theo tiếng sáo đêm
tình mùa xn rộn rịp, theo lòng hồi xuân mãnh liệt dâng trào trong Mị. Sức sống
ấy theo lời văn, câu chữ của Tơ Hồi len lỏi vào tâm hồn người đọc để tìm kiếm sự
đồng cảm, sự ngưỡng mộ dành cho Mị.
Tiếc thay, sự đời chẳng bao giờ như người ta nghĩ. A Sử lại xuất hiện như một hung
thần, cắt đứt nguồn sông đang vẫy vùng trong tâm hồn ham sống của Mị. “A Sử
bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị”. Mị muốn đi chơi, A Sử lại “trói
đứng Mị vào cột nhà”. Mị quấn lại tóc ,”A Sử quấn tóc lên cột, làm cho Mị khơng
cúi khơng nghiêng đầu được nữa”. Mị thắp sáng đèn, “A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa
buồng lại”. Từng hành động của A Sử là một chuỗi dài của sự tàn độc, lạnh lùng
ngăn trở, dập tắt từng khát vọng sống vừa được nhen nhóm của Mị. Từng chút,
từng chút một hết sức tàn nhẫn.
Cái sợi dây oan nghiệt, cái sợi dây đay mà Mị từng “quay sợi gai bên tảng đá trước
cửa, cạnh tàu ngựa” lại quay ngược trở lại đối đầu với Mị, với khát khao của Mị.
Nhưng Mị không phản ứng. Như thể, sợi dây kia tựa như bọn thống trị miền núi,
như thế lực của thống lí Pá Tra, như sự lạnh lùng khơng cịn lương tri của A Sử dù
tàn độc đến đâu cũng chỉ có thể trói được thể xác Mị chứ khơng thể trói được tâm
hồn Mị, khát vọng sống chính đáng của Mị. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo
những cuộc chơi, những đám chơi: Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người
nào, em bắt pao nào…”.
Tiếng sáo gọi bạn tình trong đêm tình mùa xuân của hiện tại vẫn tiếp tục trong tâm
hồn Mị để tạo cho Mị sức mạnh. Mị “vùng bước đi” như kẻ mộng du, quên đi cảnh
ngộ là mình đang trói, vẫn thả hồn theo những cuộc chơi đang diễn ra bên ngoài.
Tiếng sáo ấy là một liều thuốc xoa dịu những vết thương tinh thần và thể xác của
Mị.Nhưng sợi dây trói oan nghiệt lại lần nữa kéo Mị về thực tại, lại lần nữa vơ
tình, lạnh lùng dập tắt tiếng sáo và mùa xn của Mị. Tiếng sáo lại hiện về trong
nỗi buồn thương rồi tan dần trong kí ức Mị. Bấy giờ Mị “chỉ còn tiếng chân ngựa
đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng n,gãi chân, nhai cỏ”.
Mị thổn thức nghĩ mình khơng bằng con ngựa. Tất cả những khát vọng sống lại
chìm vào đêm dài. Lặng im và buồn thương. Tơ Hồi đã rất tinh tế khi xen kẽ hai

âm thanh trái ngược nhau “tiếng sáo gọi bạn tình” và “tiếng chân ngựa đạp vào
vách” cạnh nhau. Một bên lặp lại da diết như một khúc hát đẹp đẽ tôn vinh sự sống
bất diệt của con người. Một bên lại xót thương trong sự chà đạp tận cùng lên cuộc


sống Mị. Tất cả đều len lỏi vào từng ngóc ngách tâm hồn Mị để dằn xé nội tâm Mị,
để đặt Mị vào tình huống đầy bi kịch giữa hiện thực phũ phàng và khát vọng mãnh
liệt, giữa sự chấp nhận kiếp sống trâu ngựa và ý thức phản kháng. Bất lực Mị khóc.
Thế nhưng, sức sống tiềm tàng trỗi dậy. “Mị nín khóc. Mị lại bồi hồi”. Cả đêm Mị
sống trong tâm trạng “lúc mê lúc tỉnh” như thế trong hơi rượu tỏa, trong tiếng sáo,
trong tiếng chó sủa xa xa. Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc vẫn tồn tại âm ỉ
như một đám than hồng không bao giờ bị dập tắt và sẽ bùng lên mạnh mẽ từ dưới
lớp tro buồn trong một khoảnh khắc nào đó mà chính Mị, chính bản thân chúng ta
cũng khơng thể biết được.
Ở nhân vật Chí Phèo, sau cái đêm định mệnh ăn nằm cùng Thị Nở, Chí đổi khác
hồn tồn. “Khi Chí Phèo thức dậy thì trời sáng đã lâu. Mặt trời đã chắc đã lên
cao , và nắng ngoài kia chắc rực rỡ.” Nam Cao cũng như Tơ Hồi đã từng lặng lẽ
theo gót Chí Phèo trên bước đường say – tỉnh, trầm mình trong bầu cảm xúc khổ
đau của một nhân cách đang quằn quại sống dậy nhưng bị cuộc đời lìa bỏ. Ở nơi
đau khổ tận cùng ấy, cũng chính Nam Cao đã hồi sinh khát khao lương thiện của
Chí từ mối tình với Thị Nở. Phương thuốc tình thương như ngụm nước mưa trong
trẻo, ngọt lành, mộc mạc vậy thôi nhưng đủ xoa dịu những vết gạch xước trong
tâm hồn Chí… và từ một thằng lưu manh say khướt Chí Phèo lắng nghe hồi ức,
lắng nghe cuộc đời.
“Tiếng chim hót ngồi kia vui vẻ q! Có tiếng cười nói của những người đi chợ.
Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hơm nào chẳng
có. Nhưng hơm nay hắn mới nghe thấy”. Một thoáng chốc nao nao những kỉ niệm
dần thức tỉnh: “hình như một thời, hắn từng ao ước một gia đình nhỏ”. Đoạn văn
về tình thương của Thị Nở cứ thế ngắn thơi, mà có tới ba lần nỗi buồn ùa về. Nỗi
buồn về cuộc đời, nỗi buồn về những hồi ức cũ kĩ mang theo “lòng mơ hồ buồn”,

“hắn lại nao nao buồn”, “buồn thay cho cuộc đời” tạo nên những khoảng lặng
trong cuộc đời xơ bồ của Chí.
Dường như Chí hồi tỉnh và trưởng thành trong nỗi buồn ấy? Dường như hắn đã
được giải thoát khỏi lớp mặt nạ của một con quỷ dữ điên loạn trong những cơn say
để được phép sợ, được phép sợ “tuổi già, đói rét, ốm đau và cơ độc”. Lời văn
khơng nói, chao đảo trong những dòng độc thoại nội tâm của những nỗi niềm kín
khuất, hơi văn buồn, chầm chậm lắng xuống như cúi đầu lặng lẽ nhìn về cuộc đời
mình của Chí. Thật bình n đến lạ. Cũng có lúc dịng sơng gầm gào sục sơi cuộc
đời Chí lại bặt lại, êm đềm xuôi chảy như thế. Và từ trang văn ấy Chí Phèo sống
dậy, hồn hậu trong trẻo và ấm lịng.
Bằng cách chắp ghép những tâm trạng từ phía cách nhân vật trong cả hai tác phẩm
ta như bị cuốn vào một chuyến phiêu lưu không gian và thời gian, một chiếu phiêu
lưu để ta tìm về những bản ngã và những khát vọng thực sự của con người: khát
vọng tự do, khát vọng được sống một cuộc đời lương thiện và hạnh phúc bằng
những giá trị tốt đẹp của chính mình. Tơ Hồi và Nam Cao đã gặp nhau khi khai


thác cùng một nỗi thống khổ của những con người bị chà đạp, bị dồn đẩy đến bước
đường cùng trong xã hội đầy rẫy những điều phi nhân. Đó là một Chí Phèo đã từng
được sống lương thiện nhưng lại thay hình đổi dạng chỉ vì sự ghen tng vơ cớ của
Bá Kiến , chỉ vì những khinh miệt của người đời. Đó là một Mị đã từng “uốn
chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”, đã từng mạnh mẽ và quyết đoán
“con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố.
Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Cuối cùng, Mị cũng chẳng thể chối bỏ thân phận
khốn cùng của người con dâu gạt nợ.
Thế nhưng cả Tơ Hồi và Nam Cao đều bằng tấm lịng của mình cho họ một cơ
hội, chiếu cho cuộc đời họ một tia sáng , một tia sáng để họ lần theo đó mà định vị
lại chính mình, khát vọng đã từng qn đi vì những cay đắng hiện thực.Cả hai nhà
văn đều không hối hả vội vàng để nhân vật nhận thức nỗi đau và khát vọng tương
lai. Họ tạo ra những tầng khúc tâm trạng, tạo những dòng cảm nghĩ liền mạch nối

tiếp nhau. Tâm lí nhân vật vì vậy trong giai đoạn này sẽ là tiền đề cho diễn biến
của giai đoạn khác. Cách thức này còn gọi là phép biện chứng tâm hồn. Cách thức
ấy khiến người đọc dễ dàng cảm nhận và đồng cảm với những câu chuyện, những
cuộc đời trong cả hai tác phẩm.
Như vậy từ việc tạo nên những lần nhận thức từ những thanh âm như tiếng sáo hay
những tiếng sinh hoạt thường nhật, cả hai nhà văn khơng chỉ giúp nhân vật của
mình tháo lớp mặt nạ của nỗi đau để đau đớn nhận ra sự trần trụi của nó. Mà hơn
hết từ sự nhận thức bi kịch, họ lại biết ước mơ, lại có niềm tin về một tương lai
tươi sáng hơn, dù mơ hồ hay cụ thể. Tuy nhiên, trong sự hội tụ trong tiếng hát vô
biên cho những nỗi đau của những người dân chịu những tầng áp bức của các thế
lực thống trị ở cả hai tác phẩm, vơ hình trung vẫn là hai bản thể sáng tạo. Vì vậy
chúng sẽ khác nhau.
Nói về việc sáng tác “Truyện Tây Bắc”, Tơ Hồi cho biết “ngồi tài liệu và trên cả
sáng tạo”, ơng đã đưa vào trong tác phẩm của mình “những ý thơ: “Ở mỗi nhân vật
và trùm lên tất cả miền Tây, tơi đã đưa vào một khơng khí vời vợi, làm cho đất
nước và con người bay bổng lên hơn, rời bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt
thường làm co quắp nhân vật, nhỏ bé vấn đề và khung cảnh đi”. Cho nên Tơ Hồi
khác Nam Cao chính là chất thơ đậm phong vị Tây Bắc man mác cả thiên truyện,
trong tiếng sáo, trong những diễn biến tâm hồn của Mị, trong nỗi khát khao về một
tương lai tốt đẹp chỉ trong một đêm mùa xuân.
Chất thơ ấy sống trong phong tục tập quán của con người, trong niềm vui sau
những mùa gặt , trong đêm hội mùa xuân trên Hồng Ngài rộn rã vui tươi với
những chiếc váy hoa sặc sỡ, với “đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi
trước nhà”. Tất cả đều tạo nên một bầu khơng khí văn hóa dân tộc của vùng Tây
Bắc – một vùng đã từng để lại những niềm thương nỗi nhớ trong tác giả. Tuy nhiên
Nam Cao không vậy. Tất cả những niềm vui, nỗi buồn của Chí Phèo lại quẩn
quanh trong túp lều của Chí – một túp lều ngự trị tại một thế giới tách biệt của xã


hội làng Vũ Đại. Túp lều ấy như phản ánh cả cuộc đời Chí – cuộc đời cơ độc, dị

biệt và đầy rẻ rúng.
Sự khác nhau về không gian nghệ thuật gọi mở cho nhân vật những con đường trở
về khát vọng khác nhau.Nếu Mị nhận ra chính mình trong những cuộc xung đột,
trong những mâu thuẫn giữa hiện tại và quá khứ bởi lẽ khát vọng sống của Mị chỉ
đang bị nhạt nhòa trong hiện thực cay đắng chứ chưa hề mất đi thì Chí Phèo khơng
vậy. Hắn lại lần về ý thức từ những cơn nhớ cơn quên, từ sự tranh đấu giữa phần
con và phần người.
Nếu Mị từ sau đêm tình mùa xn năm ấy lại có những sự chuyển biến mạnh mẽ
trong hành động, trong những nhận thức về cuộc sống để Mị dũng cảm hơn để tìm
ra lối thốt cho mình trong đêm mùa đơng cùng với A Phủ thì Chí Phèo lại đau khổ
hơn. Hắn đau khổ trong sự tuyệt vọng vì cánh cửa lương thiện khép lại, trong cái
chết mà hắn buộc phải nhận để trả nợ máu và để chết như một con người. Kết thúc
ấy là một sự tôn trọng cần thiết của nhà văn dành cho hiện thực xã hội bấy giờ,
cũng là một tiếng kêu cứu lấy con người đang khắc khoải thổn thức trong trái tim
Nam Cao. Kết thúc đó cũng vì thế mà trở thành một lời hồi đáp cho một thời kỳ
văn học vẫn còn bế tắc trong việc tìm ra cho nhân vật một lối thốt. Đó là trào lưu
hiện thực phê phán. Nhưng Tơ Hoài lại theo khuynh hướng văn học xã hội chủ
nghĩa.
Thời kỳ ấy, trào lưu ấy cho phép Tơ Hồi nhìn nhân vật trong những mâu thuẫn
của lịch sử. Nhưng họ cũng nhìn thấy ở những nhân vật của mình một sự chủ động
để tìm kiếm và bảo vệ hạnh phúc của chính mình. Vì vậy từ một biến cố, trong một
chặng tâm lý nhất định, Tơ Hồi đã để cho nhân vật tỉm ra một con đường giải
phóng chính mình. Như vậy, dù giống nhau ở tinh thần, khác nhau bởi cách thức
thì cả hai tác phẩm đều gọi dậy trong ta một chút gì đó rất nhân bản mà người ta
gọi đó là những khát vọng con người, khát vọng tự do, khát vọng hướng đến tương
lai tươi sáng. Dù chúng chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc hay cả cuộc đời, tất
cả đều đáng được trân trọng và ca ngợi.
Kết bài:
Nói về việc sáng tác “Truyện Tây Bắc”, Tơ Hồi cho biết những ước vọng và
những nỗ lực tạo nên những lời văn của mình: “ở mỗi nhân vật và trùm len tất cả

miền Tây, tôi đã đưa vào một khơng khí vời vợi làm cho đất nước và con người
bay bổng lên hơn, rời bỏ được cái ám ảnh tủn mủn, lặt vặt thường làm co quắp
nhân vật và làm nhỏ bé vấn đề khung cảnh đi”. Và quả thật, qua miêu tả diễn biến
tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
lan tỏa chất thơ của khát vọng sống chân chính của con người. Để từ đó, “Vợ
Chồng A Phủ” cùng Chí Phèo đã trở thành những khúc hát của khát vọng để trở
thành một lời nhắc nhở về một thời đã qua, là một lời thôi thúc con người vươn
đến tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn.


TƠN X TƠI

Lep Nicơlaiêvits Tơnxtơi (1828-1910) là nhà văn vĩ đại của Nga và thế giới. Ơng là
tấm gương tìm tòi về sự thật. Một trong những sự thật mà Tơnxtơi tìm kiếm kiếm
suốt đời đó là tìm hiểu sự thật lịch sử và bản chất tính cách Nga. Về sự thật lịch sử,
ông đã dựng lại những biến cố lịch sử trọng đại có liên quan đến vận mệnh toàn
dân dựng lại bức tranh sinh hoạt rộng lớn với các tầng lớp xã hội. Từ đó, nhìn nhận
và đánh giá các biến cố lịch sử theo quan điểm nhân dân, coi quần chúng nhân dân
như người sáng tạo lịch sử, như ngọn nguồn đạo đức và sức mạnh của cộng đồng,
thể hiện qua tất cả các tác phẩm mang tính sử thi, từ Truyện Xơvaxtơpơn đến
Chiến tranh và hịa bình. Đánh giá cao cống hiến của Tơnxtơi, Lênin coi Tônxtôi là
tấm gương phản chiếu cách mạng Nga".
Dường như Tônxtôi đã miêu tả được bản chất tính cách Nga qua một số nhân vật
như Natasa, Cutudôp, Karataiep... (Chiến tranh và hịa bình). Đó là những tính
cách tốt đẹp, những tâm hồn giản dị, những "trí tuệ của trái tim"...
Bên cạnh những bức tranh tuyệt vời về đời sống Nga, đặc điểm nghệ thuật nổi bật
cùa các tác phẩm Tônxtôi là sự xâm nhập một cách nhuần nhuyễn bản chất quá
trình phát triển xã hội vào quá trình phát triển tâm lí con người. Nói đơn giản, tác
phẩm Tơnxtơi đã đạt đến trình độ phân tích tâm lí xuất sắc khi coi cuộc sống là
một quá trình vận động và tâm lí con người "như một dịng sơng", lưu chuyển

khơng ngừng.
Chiến tranh và hịa bình là tác phẩm lớn nhất của L. Tônxtôi, được gọi là "tác
phẩm vĩ đại của thế kỉ XIX" (Gorki). Với chủ đề chiến tranh, nhà văn ca ngợi cuộc
chiến tranh nhân dân, bản chất anh hùng và khả năng quyết đinh vận mệnh đất
nước của nhân dân, phê phán cuộc xâm lược bành trướng của Napôlêông. Trong
Chủ đề chiến tranh, nhà văn mô tả cuộc sống sinh hoạt bình thường của giai cấp
quý tộc Nga. Xen vào hai chủ đề đó là việc kể về con đường đi tìm chân lí của một
số thanh niên q tộc tiến bộ. Tác phẩm là đỉnh cao của nghệ thuật miêu tả và phân
tích tâm lí con người, cịn được gọi là nghệ- thuật về "phép biện chứng tâm
hồn".
PHÉP BIỆN CHỨNG TÂM HỒN
Đại văn hào Nga L. Tônxtôi đã từng nói rằng: “ơng là nhà nghệ sỹ và cả cuộc đời
ơng trơi qua là đi tìm cái đẹp và tuyên ngôn nghệ thuật ấy đã trở thành điều tâm
niệm suốt 60 năm sáng tác của ơng”. Nhân vật chính trong truyện của ông, nhân
vật mà ông mến yêu với tất cả sức mạnh tâm hồn, cố gắng tái hiện với tất cả vẻ đẹp
của nó, nhân vật đã đẹp, đang đẹp và mãi mãi là đẹp, nhân vật đó là sự thật. Là nhà
nghệ sĩ vĩ đại thì khơng thể dừng lại ở nội dung, mà L.Tônxtôi đặc biệt chú ý đến
nghệ thuật biểu hiện được “cái đang vận động trong bản chất con người” và “sức


mạnh nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa L.Tơnxtơi chính là sự thâm nhập của bản chất
quá trình xã hội vào q trình tâm lý”.
“Chiến tranh và hồ bình” là một cuốn tiểu thuyết vĩ đại của đại văn hào Nga
L.Tônxtôi không chỉ lừng danh trên văn đàn nước Nga mà lan rộng trên tồn thế
giới. Cá tính, nhân cách của từng nhân vật trong tiểu thuyết là trung tâm của sự chú
ý và được L.Tônxtôi chú ý đến chiều sâu hơn vẻ bề ngồi. Từng nhân vật của ơng
sinh động nhiều mặt bởi biệt tài miêu tả con người và tâm lý nhân vật. Mỗi nhân
vật là một thế giới riêng, một tâm hồn và một tính cách riêng đa dạng, độc đáo
nhưng rất phức tạp. Trong tất cả các thủ pháp mà L.Tônxtôi thường sử dụng trong
sáng tác của mình thì thủ pháp phân tích tâm lý nhân vật là nét cơ bản nhất trong

sức mạnh sáng tác của ông.
Vậy miêu tả nhân vật văn học là con người được nhà văn miêu tả trong tác phẩm
bằng phương tiện văn học. Những con người này có thể được miêu tả kỹ hay sơ
lược, sinh động hay không rõ nét, xuất hiện một hay nhiều lần, thường xuyên hay
từng lúc, giữ vai trị quan trọng nhiều, ít hoặc khơng ảnh hưởng nhiều lắm đối với
tác phẩm.
Một trong những đặc điểm nổi bật khác của Chiến tranh và hịa bình là nghệ thuật
miêu tả tâm lí nhân vật. Số phận nhân vật với những tâm trạng tinh tế đều gắn bó
mật thiết với bước thăng trầm của lịch sử. Đây chính là điểm cách tân của Tolstoy
về thể loại anh hùng ca, từ đó sáng tạo nên loại anh hùng ca hiện đại trong lịch sử
văn học Nga và văn học thế giới.
Ngay trong định ngữ của ông cũng thể hiện ý đồ nghệ thuật này. Như A. Sisêrin đã
nhận xét trong “Chiến tranh và hịa bình”: “thường xun bộc lộ trạng thái chốc lát
của con người hoặc nói chung tính chất tạm thời của con người hay đối tượng”.
Định ngữ của L. Tơnxtơi có biểu hiện những nét bền vững trong diện mạo, tâm lí
nhân vật, nhưng phần nhiều nó biểu hiện những nét mâu thuẫn, chuyển biến, ví dụ
sau cuộc đấu súng, Pier nhớ lại “Khuôn mặt tuấn tú xấc xược và rất châm biếm
đúng như trong bữa tiệc, rồi cũng bộ mặt ấy nhưng tái mét, run rẩy và đau đớn,
đúng như Đôlôkhôp ngoảnh lại và ngã sấp xuống tuyết” Bạn đọc phải luôn cùng
tác giả theo dõi, nắm bắt tâm trạng và những trạng thái trái ngược của nhân vật, ví
dụ: khi gặp Natasa đầu năm 1813 Pier “đỏ mặt lên vì sung sướng và đau khổ”. Sau
khi Natasa kể cho Pier nghe về những ngày cuối cùng của Anđrây, L. Tônxtôi viết:
“câu chuyện kể đau đớảnh thiên nhiên độc đáo: cây sồi già.



×