Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Nguồn Nhân Lực là thách thức rất lớn trong phát triển Năng lượng nguyên tử ở nước ta potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.26 KB, 4 trang )

Nguồn Nhân Lực là thách thức rất
lớn trong phát triển Năng lượng
nguyên tử ở nước ta - PGS. TS
Vương Hữu Tấn
Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam vừa phối hợp với Hội Năng lượng
Nguyên tử Việt Nam và Sở Khoa học và Công nghệ Khánh Hoà tổ chức
Hội nghị Khoa học và Công nghệ hạt nhân toàn quốc lần thứ VIII tại thành
phố Nha Trang trong các ngày 20 - 22/8/2009. Nhân dịp này, tạp chí TS đã
phỏng vấn PGS. TS Vương Hữu Tấn, Viện trưởng Viện Năng lượng
Nguyên tử Việt Nam về kết quả Hội nghị cũng như một số vấn đề liên quan
tới năng lượng hạt nhân ở Việt Nam.
Ông đánh giá thế nào về các kết quả nghiên cứu khoa học và các ứng dụng
công nghệ trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử (NLNT) tại Việt Nam thời
gian vừa qua ?
Với gần 300 đại biểu đến từ các viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện
và các cơ sở ứng dụng năng lượng nguyên tử trong cả nước, Hội nghị đã
tổng kết các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong lĩnh
vực năng lượng nguyên tử tại Việt Nam trong 2 năm qua kể từ Hội nghị lần
thứ 7 tổ chức tại Đà Nẵng năm 2007. Trên 200 báo cáo khoa học đã trình
bày tại Hội nghị, trong tất cả các lĩnh vực của ứng dụng năng lượng nguyên
tử ở Việt Nam. Nhìn chung các báo cáo có chất lượng cao, nhiều báo cáo
xứng tầm quốc tế, có thể công bố trong các tạp chí chuyên ngành quốc tế,
nhiều ứng dụng mới, công nghệ hiện đại đã được chuyển giao vào Việt
Nam trong 2 năm qua, đặc biệt trong lĩnh vực y tế ( PET, PET/CT, gamma
knife, cycber knife ).
Những nghiên cứu và ứng dụng này đã có đóng góp như thế nào đối với
việc phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua ?
Các nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử đã có nhiều đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã
hội. Hằng năm, có khoảng 20.000 người được điều trị ung thư bằng xạ trị,
500.000 người được chẩn đoán và 50.000 người được điều trị bằng y học


hạt nhân. Trên 50 giống cây trồng được tạo ra bằng đột biến phóng xạ,
trong đó có những giống chủ lực như giống lúa VND-95-20 ( 1 trong 5
giống lúa xuất khẩu chủ yếu ), giống đậu tương DT84, DT99, DT96 chiếm
phần lớn diện tích gieo trồng ( trên 50% ). Riêng giống lúa đột biến trên đã
đem lại doanh thu cho nông dân hằng năm trên 800 tỷ đồng, trong khi tiền
đầu tư nghiên cứu tạo ra giống lúa này chưa đến 1 tỷ. Chiếu xạ lương thực
thực phẩm đã hỗ trợ tích cực cho ngành xuất khẩu thủy sản và hoa quả. Kỹ
thuật hạt nhân đã góp phần đánh giá an toàn các công trình thuỷ điện và các
công trình giao thông, xây dựng quan trọng của đất nước. Kỹ thuật đánh
dấu hạt nhân đã được sử dụng trong ngành dầu khí để tối ưu quá trình khai
thác và tăng cường thu hồi dầu. Nhiều nhà máy công nghiệp đã sử dụng kỹ
thuật hạt nhân để đảm bảo chất lượng sản phẩm và nâng cao hiệu quả sản
xuất. Ngoài ra còn nhiều ví dụ về ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong các
ngành khác như tài nguyên, khoáng sản, môi trường,… Điện hạt nhân cũng
đã được đầu tư nghiên cứu để có thể đưa vào sử dụng trong thời gian tới ở
nước ta.
Là người đứng đầu của cơ quan năng lượng nguyên tử Việt Nam, ông có
cho rằng các nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực hạt nhân ở Việt Nam
trong thời gian qua có đáp ứng được yêu cầu đề ra trong chiến lược ứng
dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình ở Việt Nam ?
Chúng ta đã triển khai nghiên cứu và ứng dụng khá rộng các kỹ thuật hạt
nhân trong các ngành kinh tế - xã hội. Tuy nhiên trình độ và hiệu quả còn
chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu phát triển. Chiến lược ứng dụng
năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình đến năm 2020 mà Thủ tướng
Chính phủ ban hành là nhằm mục đích thúc đẩy các ứng dụng năng lượng
nguyên tử phục vụ hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên hiện
nay Chiến lược mới bắt đầu được triển khai ở các Bộ, ngành bằng việc xây
dựng các quy hoạch phát triển ứng dụng bức xạ trong các ngành và quy
hoạch phát triển điện hạt nhân. Phần lớn các Bộ, ngành đang trong quá
trình hoàn thiện hoặc mới trình phê duyệt các quy hoạch. Do đó các ứng

dụng chủ yếu mới ở dạng tiềm năng.
Mặc dù vậy, một số lĩnh vực như Y tế đã được đẩy nhanh hơn với các dự
án xây dựng một số trung tâm, cơ sở y học hạt nhân, xạ trị đã được triển
khai. Theo kế hoạch, đến cuối năm 2009, tất cả các quy hoạch phát triển
ứng dụng bức xạ trong các ngành và quy hoạch phát triển điện hạt nhân
phải được phê duyệt sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các ứng dụng năng lượng
nguyên tử nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong Chiến lược nói trên.
Theo ông, hiện trạng về nhân lực trong ngành năng lượng nguyên tử ở Việt
Nam, đặc biệt nhân lực phục vụ cho dự án điện hạt nhân đầu tiên ở Việt
Nam là như thế nào ?
Cũng như các ngành kỹ thuật khác trên thế giới và trong nước, ngành năng
lượng nguyên tử nước ta cũng đứng trước thách thức rất lớn về nguồn nhân
lực phục vụ nhu cầu phát triển. Nguyên nhân là không được đầu tư phát
triển và đặc biệt là tình trạng phát triển chậm lại của điện hạt nhân trên thế
giới sau tai nạn Chernobyl đã dẫn đến thế hệ trẻ không theo đuổi học tập về
năng lượng nguyên tử. Tuy nhiên hiện nay tình hình đã thay đổi. Trên thế
giới điện hạt nhân đã được phát triển trở lại.
Ở nước ta nhân lực cho phát triển ứng dụng bức xạ trong các ngành kinh tế
- xã hội về cơ bản đáp ứng được nhu cầu phát triển. Ví dụ trong các cơ sở
xạ trị đã có khoảng 2.000 người làm việc
Điều quan tâm nhất của xã hội hiện nay chính là nhu cầu nhân lực cho thực
hiện chương trình phát triển điện hạt nhân. Dự án điện hạt nhân đầu tiên tại
Việt Nam được thực hiện theo phương thức hợp đồng chìa khoá trao tay
với đối tác nước ngoài. Vì vậy, vai trò của chủ đầu tư, các ngành công
nghiệp trong nước, các cơ quan nghiên cứu triển khai và hỗ trợ kỹ thuật là
hạn chế, không có ảnh hưởng nhiều đến việc thực hiện dự án. Việc chuẩn bị
nguồn nhân lực cho các chủ thể này do đó không phải là vấn đề lớn. Nhân
lực vận hành và bảo dưỡng nhà máy điện hạt nhân sẽ được đào tạo thông
qua hợp đồng với đối tác cung cấp nhà máy điện hạt nhân.
Vấn đề lớn, quan trọng là cần sớm xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý

cho cơ quan an toàn hạt nhân và cơ quan quản lý môi trường ( liên quan
đến lĩnh vực hạt nhân-PV ) để các cơ quan này có thể đưa ra được các
quyết định liên quan đến cấp giấy phép cho dự án từ giai đoạn thiết kế cho
đến vận hành. Cho dù ta có sử dụng tư vấn nước ngoài thì vai trò quyết
định vẫn phải là người Việt Nam. Hiện nay nhân lực của cơ quan an toàn
hạt nhân và cơ quan quản lý môi trường còn thiếu về số lượng và yếu về
chất lượng, đặc biệt thiếu kinh nghiệm trong quản lý dự án điện hạt nhân.
Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam đã nhận thức tầm quan trọng của
công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy từ nhiều năm nay Viện
đã có sự hợp tác rộng rãi với các cơ sở đào tạo và ứng dụng năng lượng
nguyên tử trong cả nước. Bản thân Viện cũng là một cơ sở đào tạo tiến sỹ
một số chuyên ngành về năng lượng nguyên tử. Viện đã hợp tác với các cơ
sở hạt nhân của các nước có nền công nghiệp hạt nhân tiên tiến và cơ quan
năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) xây dựng các chương trình đào tạo
chuyên ngành và gửi cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài cho một số cơ sở ứng
dụng năng lượng nguyên tử ở trong nước.
Gần đây nhất, Viện đã hợp tác với Đại học Bách khoa Hà Nội và Tập đoàn
Toshiba đào tạo cán bộ về công nghệ điện hạt nhân, hợp tác với các đối tác
Nhật Bản và Hàn Quốc đào tạo cán bộ cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam
tham gia dự án điện hạt nhân…
Bên cạnh đó, Viện cũng phối hợp tích cực với các cơ quan chuyên môn của
Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng chương trình phát triển nguồn nhân lực
trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử và xây dựng chuyên ngành hạt nhân
của Trường Đại học Công nghệ Hà Nội.




×