Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Đề cương môn triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.77 KB, 35 trang )

ĐỀ CƯƠNG MƠN TRIẾT HỌC
Câu 1: Triết học là gì? Các vấn đề cơ bản của triết học, các trường phái triết học?
Triết học là gì
Trong lịch sử phát triển của nhân loại đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết
học, nhưng chung quy lại đều bao hàm những nội dung cơ bản giống nhau: Triết học
nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi
phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội lồi người, của con người trong
cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý.
Theo nghĩa gốc Hán, triết là trí, bao gồm cả sự hiểu biết, nhận thức sâu rộng, đạo lý.
Theo nghĩa gốc Hy Lạp, triết có nghĩa là yêu mến sự thông thái.
Từ thế kỷ VI tcn cho đến giữa đầu thế kỷ XVIII loài người đã quan niệm triết học là khoa
học của mọi khoa học, là khoa học đứng trên mọi khoa học. Bởi thế, bất cứ ai thông thạo
bất cứ môn khoa học nào cũng được gọi là nhà hiền triết hoặc nhà thông thái. Người ta đã
xem đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và đặc điểm của triết học là bao gồm
mọi đối tượng, phương pháp và đặc điểm của mọi khoa học cụ thể.
- Giữa thế kỷ XIX, người đầu tiên tách triết học ra khỏi các khoa học cụ thể khá thành
công nhưng trên lập trường duy tâm khách quan là G.V.F. Hêghen. Người hồn thành sự
nghiệp đó là C.Mác và Ph.Ăng ghen.
Khái quát lại, có thể hiểu: Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới; về vị trí, vai trị của con người trong thế giới ấy.
– Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, xét cho cùng, đều bị các quan hệ
kinh tế của xã hội quy định. Dù ở xã hội nào, triết học bao giờ cùng gồm hai yếu tốt:
+ Yếu tố nhận thức – sự hiểu biết về thế giới xung quanh, trong đó có con người;
+ Yếu tố nhận định – đánh giá về mặt đạo lý
– Triết học đã ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ (ở phương Tây) và trong thời kỳ
chuyển từ xã hội chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến (phương Đông), gắn liền với sự
phân công lao động xã hội – tách lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay (sau lần phân
cơng lao động thứ 2)
– Phù hợp với trình độ phát triển thấp ở các giai đoạn đầu tiên của lịch sử lồi người, triết
học ra đời với tính cách là một khoa học tổng hợp các tri thức của con người về hiện thực



xung quanh và bản thân mình. Sau đó, do sự phát triển của thực tiễn xã hội và của quá
trình tích luỹ tri thức, đã diễn ra q trình tách các khoa học ra khỏi triết học thành các
khoa học độc lập. Triết học với tính cách là khoa học, nên nó có đối tượng và nhiệm vụ
nhận thức riêng của mình, nó là hệ thống những quan niệm, quan điểm có tính chất chỉnh
thể về thế giới, về các quá trình vật vất và tinh thần và mối liên hệ giữa chúng, về nhận
thức và cải biến thế giới
Vấn đề cơ bản của triết học
– Theo Ăng-ghen, “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác của triết học.
– Vấn đề cơ bản của triết học gồm hai mặt:
+ Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau,
cái nào quyết định cái nào? Nói cách khác, giữa vật chất và ý thức cái nào là tính thứ
nhất, cái nào là tính thứ hai (bản thể luận). Vấn đề nàu có hai cách trả lời khác nhau dẫn
đến hình thành hai khuynh hướng triết học đối lập nhau:
Những quan điểm triết học cho rằng vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai hợp
thành chủ nghĩa duy vật. Trong lịch sử tư tưởng triết học có ba hình thức cơ bản của chủ
nghĩa duy vật: Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ cổ đại; Chủ nghĩa duy vật máy
móc, siêu hình thế kỷ XVII – XVIII; Chủ nghĩa duy vật biện chứng hình thức phát triển
cao nhất của chủ nghĩa duy vật
Chủ nghĩa duy vật chất phác: là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ
đại, trong giai đoạn này họ lý giải sự hình thành của thế giới từ một hoặc một số dạng vật
chất cụ thể, cảm tính, coi đó là thực thể đầu tiên, là bản ngun của thế giới, những lý
giải đó mang tính trực quan.
Chủ nghĩa duy vật siêu hình: ( từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đạt đỉnh cao vào thế kỷ
XIX ) chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư
duy siêu hình, máy móc của cơ học cổ điển. Do đó, theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật
siêu hình, thế giới giống như một cổ máy cơ giới khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó
ln ở trạng thái biệt lập, tĩnh tại; nếu có biến đổi thì đó là sự tăng, giảm đơn thuần về số

lượng và do những nguyên nhân bên ngoài gây nên.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Do C.Mác và Ph .Ăngghen sáng lập từ những năm 40
của thế kỷ XIX, sau đó được Lênin và những người kế tục ông bảo vệ và phát triển. Chủ
nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục được hạn chế của chủ


nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại và chủ nghĩa duy vật siêu hình thời cận đại, đạt tới
trình độ là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử. Trên cơ sở
phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối quan hệ phổ biến và sự phát triển,
chủ nghĩa duy vật biện chứng đã cung cấp công cụ vĩ đại cho hoạt động nhận thức khoa
học và thực tiễn cách mạng. Chủ nghĩa duy vật và sự tồn tại, phát triển của nó có nguồn
gốc từ sự phát triển của khoa học và thực tiễn, đồng thời thường gắn với lợi ích của giai
cấp và lực lượng tiến bộ trong lịch sử.
Ngược lại, những quan điểm triết học cho ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai,
hợp thành chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm lại được thể hiện qua hai trào lưu
chính: Chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người và học cho
rằng sự vật hiện tượng là "phức hợp những cảm giác cá nhân". Họ phủ nhận sự tồn tại
của thế giới khách quan.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận tính thứ nhất của tinh thần con người nhưng
ý thức tinh thần ấy được quan niệm là "tinh thần khách quan", "ý niệm khách quan" có
trước và độc lập với thế giới và con người thực thể ấy có tên gọi là "ý niệm tuyệt đối",
"tinh thần tuyệt đối" hay "lý tính của thế giới" đại biểu tiêu biểu nhất của trường phái này
là Hêghen…)
Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm có 2 nguồn gốc
+ Về nhận thức: CNDT bắt nguồn từ sự xem xét phiến diện tuyệt đối hóa, thần thánh hóa,
một mặt, một đặc tính nào đó của q trình nhận thức
+ Về nguồn gốc xã hội: CNDT gắn liền với nguồn gốc, giai cấp, tầng lớp áp bức, bóc lột
nhân dân lao động mặt khác CNDT và tơn giáo cũng có mối liên hệ mật thiết với nhau
lương tựa vào nhau để tồn tại

Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay
khơng? (Ý thức có thể phản ánh được vật chất hay khơng, tư duy có thể phản ánh được
tồn tại hay khơng?). Mặt này cịn được gọi là mặt nhận thức.
Các nhà triết học duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới. Song, do
mặt thứ nhất quy định, nên sự nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con
người.
Một số nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới,
nhưng sự nhận thức đó là sự tự nhận thức của tinh thần, tư duy.


Mặt thứ hai giải quyết về vấn đề nhận thức luận: tất cả các nhà triết học đều phải trả lời
câu hỏi: “Con người có khả năng nhận thức thế giới không?”. Tùy theo câu trả lời của các
nhà triết học mà các triết thuyết đã chia thành hai phái:
Khả tri (luận) gồm các nhà triết học trả lời con người có khả năng nhận thức thế giới. Họ
bao gồm tất cả các nhà triết học duy vật, hầu hết các nhà triết học duy tâm chủ quan và
một số nhà triết học duy tâm khách quan.
Bất khả tri (luận) gồm các nhà triết học trả lời con người không có khả năng nhận thức
thế giới. Họ bao gồm hầu hết các nhà triết học duy tâm khách quan và một số nhà triết
học duy tâm chủ quan. Họ bao gồm những nhà triết học hoài nghi (luận).
Trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, lịch sử triết học chỉ ra Triết học có hai
nguồn gốc: Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy vật là mối liên hệ của nó với các
thành tựu của các khoa học cụ thể. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực
lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử.
Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy tâm là mối liên hệ của nó với các đấng siêu
nhiên, hoặc tuyệt đối hóa một hay một số yếu tố nào đó của ý thức. Nguồn gốc xã hội của
chủ nghĩa duy tâm thông thường là mối liên hệ của nó với các lực lượng xã hội, các giai
cấp phản tiến bộ, giai cấp thống trị đang trên đà tan rã trong từng giai đoạn phát triển của
lịch sử.
Một số nhà triết học duy tâm khác như Hium, Can-tơ lại phủ nhận khả năng nhận thức
thế giới của con người. Đây là những người theo “Bất khả tri luận” (Thuyết không thể

biết). Khuynh hướng này không thừa nhận vai trò của nhận thức khoa học trong đời sống
xã hội.
Đối với các hệ thống triết học, vấn đề cơ bản của triết học không chủ được thể hiện trong
các quan niệm có tính chất bản thể luận, mà cịn được thể hiện trong các quan niệm chính
trị – xã hội, đạo đức và tơn giáo, tất nhiên có thể là nhất quán hoặc là không nhất quán.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên suốt lịch sử phát triển
của tư tưởng triết học và thể hiện tính đảng trong triết học.
Hai mặt vấn đề cơ bản của triết học này tác động qua lại lẫn nhau.
Tại sao các mối quan hệ giữa VC và YT lại trở thành vấn đề cơ bản của triết học?
Bởi vì đây là vấn đề xuyên suốt lịch sử của triết học từ trước đến nay mà bất cứ trường
phái, học thuyết triết học nào cũng phải đề cập giải quyết nó. Việc giải quyết mối quan hệ
giữa VC và YT sẽ đặt nền móng cho việc giải quyết các vấn đề căn bản khác trong triết
học. Từ việc giải quyết mối quan hệ này mà lịch sử triết học nhân loại phân chia thành 2


trường phái đối lập nhau là Duy vật và Duy tâm.
Chính vì vậy C.Mác – Ănghen đã khẳng định: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học,
đặc biệt của triết học hiện đại là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại. "
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Câu 1: Phân tích những nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật? Vì sao phép
biện chứng duy vật là cơ sở khoa học của nhận thức và thực tiễn . Ý nghĩa phương
pháp luận của vấn đề nghiên cứu.
Phép biện chứng duy vật là một khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển
Phép biện chứng ra đời từ thời cổ đại. Trong lịch sử triết học đã có ba hình thức cơ bản
về phép biện chứng: Phép biện chứng ngây thơ, phép biện chứng duy tâm, phép biện
chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ gữa thế giới quan duy vật và phương
pháp luận biện chứng, bao hàm nội dung hết sức phong phú bởi đối tượng phản ánh của
nó là thế giới vật chất vơ cùng vơ tận. Trong đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển có ý nghĩa khái quát nhất. Ph.Ăngghen viết: “Phép biện chứng

... là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy” .
Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, Ph.Ăngghen còn đưa ra
một định nghĩa khác về phép biện chứng duy vật: “phép biện chứng là khoa học về sự
liên hệ phổ biến”. Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển trong phép biện
chứng mà C.Mác đã kế thừa từ triết học của Hêghen, V.I.Lênin cho rằng, trong số những
thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển,
dưới hình thức hồn bị nhất, sâu sắc nhất và khơng phiến diện, học thuyết về tính tương
đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển
không ngừng.
- Đặc trưng cơ bản và vai trò của phép biện chứng duy vật (Vì sao phép biện chứng
duy vật là cơ sở khoa học của nhận thức và thực tiễn)
Xét từ góc độ kết cấu nội dung, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin có
hai đặc trưng cơ bản sau:
Một là, phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép biện chứng được xác
lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật khoa học. Với đặc trưng này phép biện chứng


của chủ nghĩa Mác - Lênin chẳng những có sự khác biệt căn bản với phép biện chứng duy
tâm của G.Hêghen mà cịn có sự khác biệt về trình độ so với phép biện chứng duy vật cổ
đại.
Hai là, trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin có sự thống nhất giữa
nội dung của thế giới quan (duy vật biện chứng) với phương pháp luận (biện chứng duy
vật) do đó, nó khơng dừng lại ở sự giải thích thế giới mà cịn là cơng cụ để nhận thức thế
giới và cải tạo thế giới. Mỗi nguyên lý, quy luật trong phép biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác - Lênin khơng chỉ là sự giải thích đúng đắn về tính biện chứng của thế giới
mà cịn là phương pháp luận khoa học của việc nhận thức và cải tạo thế giới.
Với những đặc trưng cơ bản trên mà phép biện chứng duy vật giữ vai trò là nội dung
đặc biệt quan trọng trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tạo nên tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời

nó cũng là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong
các lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Nguyên lý có ý nghĩa như các tiên đề trong các khoa học cụ thể. Nó là cái khơng phải
chứng minh mà phải chấp nhận và tuân thủ nghiêm nghặt nó. Nếu khơng tn thủ sẽ dẫn
đến sai lầm cả trong nhận thức lẫn hành động.
Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Tất cả mọi sự vật hiện tượng cũng như thế giới, bao giờ cũng tồn tại trong mối liên hệ
phổ biến quy định ràng buộc lẫn nhau, khơng có sự vật hiện tượng nào tồn tại cơ lập,
riêng lẻ, khơng liên hệ.
Phân tích nội dung của nguyên lý.
Quan niệm của các nhà triết học duy tâm nếu có thừa nhận có mối liên hệ, thì mối liên hệ
đó do các đấng siêu nhiên hoặc do ý thức quyết định.
Quan niệm của các nhà triết học duy vật siêu hình coi sự vật, hiện tượng tồn tại tách rời
nhau, nếu có mối liên hệ thì là những mối liên hệ ngẫu nhiên, hoặc không xét hết các khía
cạnh của mối liên hệ.
Phép biện chứng duy vật quan niệm các sự vật hiện tượng trong thế giới dù mn hình
mn vẻ nhưng khơng tồn tại cơ lập tách biệt mà chúng là một thể thống nhất, tác động
lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuyển hóa lẫn nhau.
Mối liên hệ này diễn ra trên mọi lĩnh vực, trên mọi quan hệ giữa các yếu tố, các thuộc
tính, các q trình.... làm nên bản thân sự vật hiện tượng và giữa các sự vật hiện tượng


với nhau. Mối liên hệ này là khách quan, nó bắt nguồn từ tính thống nhất của thế giới.
Thế giới là phong phú, đa dạng và nhiều vẻ, vì thế mọi sự phân loại mối liên hệ đều chỉ
có ý nghĩa tương đối, vì một mối liên hệ nào đó cụ thể thì chỉ là một hình thức, một bộ
phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến nói chung. Tuy nhiên, sự phân loại mối liên
hệ là cần thiết trong việc quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng
không giống nhau. Ph.Ăngghen viết: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ
biến” .
Ý nghĩa phương pháp luận.

Nắm vững nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, trong nhận thức cũng như trong hành động
thực tiễn cần phải có quan điểm tồn diện khi xem xét đánh giá sự vật hiện tượng và thế
giới, nhất là các vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội. Khi số mối liên hệ được xét đến càng nhiều
thì kết luận về sự vật hiện tượng càng chính xác.
Nội dung của nguyên lý về sự phát triển
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng cũng như thế giới trong q trình vận động của mình, dù có
chấp nhận những bước lùi nhưng cuối cùng vẫn đạt được sự phát triển. Khơng có sự vật
hiện tượng nào là khơng phát triển.
Phân tích nội dung nguyên lý.
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến gắn liền với nguyên lý
về sự phát triển. Hai nguyên lý này thống nhất với nhau bởi liên hệ là vận động, khơng
vận động khơng có sự phát triển nào cả.
Khái niệm vận động là chỉ mọi biến đổi nói chung. Khái niệm phát triển là chỉ những vận
động đi lên, cái mới ra đời cao hơn, tiến bộ hơn cái cũ. Sự phát triển diễn ra theo nhiều
chiều hướng, đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện.
Sự phát triển và đổi mới là hiện tượng khách quan diễn ra không ngừng trong vũ trụ. Nó
diễn ra trên mọi lĩnh vực và trên mọi mối liên hệ. Nguồn gốc của phát triển là sự đấu
tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật hiện tượng. Sự
phát triển không phải bao giờ cũng diễn ra thẳng tắp, xét từng sự vật hiện tượng cụ thể,
riêng lẻ thì có những vận động tuần hồn, đi lên hoặc đi xuống, nhưng xét trong quá trình
dài và phạm vi rộng thì vận động đi lên là khuynh hướng thống trị.
Quan điểm biện chứng xem xét thế giới như là một q trình tiến lên thơng qua những
bước nhảy vọt, cái cũ mất đi cái mới ra đời, sự đấu tranh của các mặt đối lập ngay trong


bản thân sự vật hiện tượng là nguồn gốc của sự phát triển. Lênin nói: “Lơgích biện chứng
địi hỏi phải xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự vận động, trong sự biến đổi của
nó”
Đối lập với phép biện chứng, quan điểm duy tâm nếu thừa nhận có sự phát triển thì sự

phát triển đó bị lệ thuộc bởi các đấng siêu nhiên hoặc do ý thức quyết định. Các quan
điểm siêu hình lại hoặc phủ nhận phát triển tuyệt đối hóa tính ổn định của sự vật hiện
tượng, hoặc xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về lượng, hoặc sự lặp đi lặp
lại đơn thuần về chất.
Ý nghĩa phương pháp luận.
Nắm vững nguyên lý về sự phát triển cần có quan điểm phát triển khi xem xét đánh giá
sự vật hiện tượng, phải ủng hộ cái mới, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, nhìn nhận sự
vật hiện tượng một cách trực quan tĩnh tại.
Nắm vững hai nguyên lý đòi hỏi phải có quan điểm tồn diện khi xem xét đánh giá sự vật
hiện tượng, đồng thời với việc đặt sự vật trong nhiều mối liên hệ thì cũng phải có quan
điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển trong đánh giá xem xét.
Câu 2: Phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến cho ví dụ và rút ra ý
nghĩa phương pháp luận.
Khái niệm mối liên hệ và mối liên hệ phổ biến: Trong phép biện chứng, khái niệm mối
liên hệ dùng để chỉ sự quy định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Thí dụ: Mối liên hệ giữa điện tích dương và điện tích âm trong một nguyên tử; mối
liên hệ giữa các nguyên tử, giữa các phân tử, giữa các vật thể; mối liên hệ giữa vô cơ với
hữu cơ; giữa sinh vật với môi trường; giữa xã hội với tự nhiên; giữa cá nhân với cá nhân;
giữa cá nhân với tập thể, cộng đồng; giữa các quốc gia, dân tộc; giữa các mặt, các bộ
phận của đời sống xã hội; giữa tư duy với tồn tại; giữa các hình thức, giai đoạn nhận
thức; giữa các hình thái ý thức xã hội…
Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật,
hiện tượng của thế giới.
Trong mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng, những mối liên hệ phổ biến nhất là mối liên
hệ giữa các mặt đối lập, mối liên hệ giữa lượng và chất, khẳng định và phủ định, cái
chung và cái riêng, bản chất và hiện tượng… Giữa các sự vật, hiện tượng của thế giới vừa
tồn tại những mối liên hệ đặc thù, vừa tồn tại những mối liên hệ phổ biến trong phạm vi



nhất định hoặc mối liên hệ phổ biến nhất, trong đó mối liên hệ đặc thù là sự thể hiện
những mối liên hệ phổ biến trong những điều kiện nhất định.
Những tính chất của mối liên hệ
Tính khách quan của các mối liên hệ
Theo quan điểm biện chứng duy vật, các mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng của thế
giới là có tính khách quan. Sự quy định lẫn nhau, tác động và chuyển hóa lẫn nhau của
các sự vật, hiện tượng hoặc trong bản thân chúng là cái vốn có của nó, tồn tại khơng phụ
thuộc vào ý chí con người; con người chỉ có khả năng nhận thức được những mối liên hệ
đó. Vì mối liên hệ là vốn có của sự vật, hiện tượng. Nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người hay thần linh, thượng đế. Ngay cả những vật vô tri, vô giác cũng
đang hàng ngày chịu sự tác động của các sự vật hiện tượng khác (như ánh sáng, nhiệt độ,
độ ẩm, áp suất khơng khí ..., đơi khi cũng chịu sự tác động của con người). Con người một sinh vật phát triển cao nhất trong tự nhiên dù muốn hay không cũng luôn luôn bị tác
động của các sự vật, hiện tượng khác và các yếu tố ngay trong chính bản thân. Ngồi sự
tác động của tự nhiên, con người còn tiếp nhận sự tác động của xã hơị và của những
người khác. Chính con người và chỉ có con người mới tiếp nhận vơ vàn các mối mối liên
hệ. Do vậy, con người phải hiểu biết các mối quan hệ, vận dụng chúng vào hoạt động của
mình, giải quyết các mối liên hệ phù hợp nhằm phục vụ nhu cầu lợi ích của xã hội và bản
thân con người .Chỉ có liên hệ với nhau sự vật hiện tượng mới tồn tại, vận động, phát
triển. Ví dụ : con vật thì có mối liên hệ giữa kẻ săn mồi và con mồi : con hổ với con
nai…, nếu khơng có mối liên như vậy thì con vật khơng thể tồn tại. Cịn con người thì có
các quan hệ xã hội giữa người này với người khác có như vậy con người mới tồn tại, vận
động và phát triển.
Tính phổ biến của mối liên hệ
Phép biện chứng duy vật khẳng định: Khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình
nào tồn tại một cách riêng lẻ, cô lập tuyệt đối với các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác mà trái lại chúng tồn tại trong sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tác động, chuyển
hóa lẫn nhau. Khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ
thống, bao gồm các yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là bất
cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống mở tồn tại trong mối liên hệ với hệ thống khác,
tương tác và làm biến đổi lẫn nhau.

Ph.Ăngghen chỉ rõ, tất cả thế giới tự nhiên mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một
hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau.... Việc các vật thể ấy đều có liên
hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau, và sự tác động qua


lại ấy chính là sự vận động”. Bất cứ sự vật hiện tượng nào cũng liên hệ với sự vật hiện
tượng khác. Khơng có sự vật hiện tượng nào nằm ngồi mối liên hệ.Xuất phát từ bản thân
tính biện chứng của thế giới mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất, khơng có sự
vật hiện tượng nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập mà chúng là một thể thống nhât.
Không chỉ trong tự nhiên, mà cả trong xã hội, lẫn trong trong tư duy, các sự vật hiện
tượng cũng liện hệ tác động qua lai lẫn nhau. Khơng thể tìm bất cứ ở đâu, khi nào các sự
vật, hiện tượng lại tồn tại một cách cô lập tách rời. Ví dụ : Trong tự nhiên cây xanh có
mối liên hệ với mơi trường ( khơng khí, nhiệt độ…), cịn có mối liên hệ với con người (
con người chăm sóc cây xanh, chặt phá rừng…). Trong xã hội, khơng có người nào mà
khơng có các mối quan hệ xã hội như: quan hệ hàng xóm, gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp…, các hình thái kinh tế-xã hội cũng có mối liên hệ với nhau, hình thái kinh tế -xã
hội sau ra đời từ hình thái kinh tế-xã hội trước(công xã nguyên thủy-chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa). Trong tư duy, có mối liên hệ giữa các
sự suy đốn, các tâm tư, tình cảm, các cách suy nghĩ khác nhau ví dụ như : nhìn vào một
cơ gái ta có các suy đốn cơ ấy là người giàu có, cơ ấy khơng được tốt, cơ ấy rất khó
tính… Trong thời đại ngày nay khơng một quốc gia nào khơng có quan hệ, khơng có liên
hệ với các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế, hiện nay, trên thế
giới đã và đang xuất hiện xu hướng tồn cầu hố, khu vực hố mọi mặt đời sống xã hội.
Nhiều vấn đề đã và đang trở thành vấn đề tồn cầu như: đói nghèo, bệnh hiểm nghèo,
mơi trường sinh thái, dân số và kế hoạch hoá gia đình, chiến tranh và hồ bình.v.v.
Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định mối liên hệ cịn có tính phong phú, đa
dạng. Tính chất này được biểu hiện ở chỗ:
- Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác
nhau, giữ vị trí, vai trị khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó.

- Cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác
nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì
cũng có tính chất và vai trị khác nhau. Do đó, khơng thể đồng nhất tính chất, vị trí vai trò
cụ thể của các mối liên hệ khác nhau đối với mỗi sự vật nhất định. Căn cứ vào tính chất,
đặc trưng của từng mối liên hệ, có thể phân loại thành các mối liên hệ sau:
- Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài.
- Mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp
- Mối liên hệ chủ yếu và mối liên hệ thứ yếu


- Mối liên hệ cơ bản và mối liên hệ không cơ bản
- Mối liên hệ cụ thể, mối liên hệ chung, mối liên hệ phổ biến
Ý nghĩa phương pháp luận:
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử - cụ thể.
Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hoá, quy định lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng và các mối liên hệ mang tính khách quan, mang tính phổ biến nên trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiến con người phải tơn trọng quan điểm tồn diện,
phải tránh cách xem xét phiến diện.
Quan điểm tồn diện địi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ qua lại giữa
các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và trong sự tác động qua lại
giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp.
Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng về sự vật. “Muốn thực sự hiểu được sự vật
cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ
gián tiếp” của sự vật đó. Chúng ta khơng thể làm được điều đó một cách hồn tồn đầy
đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả các mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm
sai lầm và sự cứng nhắc”
Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt từng mối liên hệ,
phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu, mối
liên hệ tất nhiên, và lưu ý đến sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản

chất của sự vật và có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất
trong hoạt động của bản thân.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, khi tác động vào sự vật, chúng ta
không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà cịn phải chú ý tới những
mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời, chúng ta phải biết sử dụng đồng
bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao
nhất. Để thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh", một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác, phải biết tranh
thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và tồn cầu hóa kinh tế đưa lại.
- Vì các mối liên hệ có tính da dạng, phong phú - sự vật, hiện tượng khác nhau, không
gian, thời gian khác nhau các mối liên hệ biểu hiện khác nhau nên trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn con người phải tôn trọng quan điểm lịch sử - cụ thể. Quan


điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu việc nhận thức các tình huống trong hoạt động thực tiễn cần
xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tác động; xác định rõ vị trí vai trị
khác nhau của mối liên hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để đưa ra các biện pháp
đúng đắn phù hợp với đặc điểm cụ thể của đối tượng cần tác động nhằm tránh quan điểm
phiến diện, siêu hình, máy móc.
Quan điểm lịch sử - cụ thể địi hỏi chúng ta khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự
vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật
sinh ra, tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy rằng, một luận điểm nào đó là luận điểm
khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ không là luận điểm khoa học trong điều kiện
khác. Vì vậy để xác định đúng đường lối, chủ trương của từng giai đoạn cách mạng, của
từng thời kỳ xây dựng đất nước, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất
nước ta cũng như bối cảnh lịch sử quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn và từng thời kỳ đó
và trong khi thực hiện đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh cho
phù hợp với diễn biến của hoàn cảnh cụ thể.
Câu 4: Phân tích nguyên lý về sự phát triển. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận

Khái niệm “phát triển”: Phép biện chứng duy vật cho rằng: Phát triển là sự vận động
theo hướng đi lên, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hồn
thiện của sự vật
Theo quan điểm siêu hình: Phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần túy về lượng, không có
sự thay đổi về chất của sự vật, đồng thời phát triển là q trình tiến lên liên tục, khơng
trải qua những bước quanh co phức tạp.
Khái niệm “phát triển” và khái niệm “vận động” có sự khác nhau: Vận động là mọi biến
đổi nói chung, chưa nói lên khuynh hướng cụ thể: đi lên hay đi xuống, tiến bộ hay lạc
hậu, còn phát triển là sự biến đổi về chất theo hướng hoàn thiện của sự vật. Phát triển là
quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự vật; là q trình
thống nhất giữa phủ định những nhân tố tiêu cực và kế thừa, nâng cao nhân tố tích cực từ
sự vật cũ trong hình thái mới của sự vật.
Những tính chất cơ bản của sự phát triển
Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát
triển. Đó là q trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết
mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách
quan, khơng phụ thuộc vào ý muốn con người. Ví dụ, q trình phát sinh một giống loài
mới hoàn toàn diễn ra một cách khách quan theo quy luật tiến hoá của giới tự nhiên. Con


người muốn sáng tạo một giống lồi mới thì cũng phải nhận thức và làm theo quy luật đó.
Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong
mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng và mọi quá
trình; trong mọi giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng. Ví dụ, trong giới tự nhiên: đó
là sự phát triển từ thế giới vật chất vô cơ đến hữu cơ; từ vật chât chưa có năng lực sự
sống đến sự phát sinh các cơ thể sống và tiến hoá dần lên các cơ thể có cơ cấu sự sống
phức tạp hơn - sự tiến hố của các giống lồi làm phát sinh các giống loài thực vật và
động vật mới đến mức có thể làm phát sinh lồi người với các hình thức tổ chức xã hội từ
đơn giản đến trình độ tổ chức cao hơn; cùng với q trình đó cũng là q trình khơng
ngừng phát triển nhận thức của con người từ thấp đến cao...

Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh
hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng song trong mỗi sự vật, hiện tượng có q trình
phát triển không giống nhau. Sự vật, hiện tượng tồn tại trong thời gian, khơng gian khác
nhau có sự phát triển khác nhau. Trong q trình phát triển, sự vật cịn chịu sự tác động
của các sự vật, các hiện tượng hay quá trình khác, của nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử
cụ thể, sự thay đổi của các yếu tố tác động đó có thể làm thay đổi chiều hướng phát triển
của sự vật. Ví dụ, khơng thể đồng nhất tính chất, phương thức phát triển của giới tự nhiên
với sự phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển của giới tự nhiên thuần tuý tuân theo
tính tự phát, cịn sự phát triển của xã hội lồi người lại có thể diễn ra một cách tự giác do
có sự tham gia của nhân tố ý thức.
Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức và cải
tạo thế giới. Trong mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải:
Xem xét sự vật và hiện tượng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong “sự tự
vận động, trong sự biến đổi của nó”.
Ln đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát triển là q trình biện chứng,
bao hàm tính thuận, nghịch, đầy mâu thuẫn vì vậy, phải nhận thức được tính quanh co,
phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển.
Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt quá trình đó trong
nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối liên hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai trên cơ sở khuynh hướng phát triển đi lên đồng thời phải phát huy nhân tố chủ quan
của con người để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng quy luật.
Phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.


Câu 7: Phân tích cặp phạm trù nội dungvà hình thức. Rút ra ý nghĩa phương pháp
luận.
Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ tất cả những mặt, những yếu tố...và
những quá trình do sự tác động lẫn nhau giữa chúng gây nên trong các sự vật, hiện tượng.
Hình thức là phạm trù triết học dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật,

hiện tượng, là cách thức tổ chức, là kết cấu của nội dung.
Ví dụ: Con ngưịi xét về nội dung là tồn bộ những mặt, những q trình diễn ra trong nó
như đồng hóa, dị hóa, hoạt động của hệ cơ, hệ thần kinh... Xét về hình thức là kết cấu của
cơ thể, cách thức tổ chức sắp xếp các bộ phận trong cơ thể. Hoặc một cuốn sách thì xét về
nội dung là cuốn sách đó nói lên điều gì, nêu lên những tư tưởng, những vấn đề nào của
cuộc sống... Xét về hình thức là bố cục của tác phẩm, các hình tượng nghệ thuật, ngơn
ngữ, phong cách và bút pháp mà tác phẩm đã sử dụng để diễn đạt nội dung.
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có hình thức bề ngồi của nó, nhưng hình thức mà
phép duy vật biện chứng nói đến trong cặp phạm trù này chủ yếu khơng là cái hình thức
bên ngồi ấy, mà là cái hình thức bên trong của sự vật, hiện tượng, tức là cơ cấu bên
trong của nội dung.
Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức
Nội dung và hình thức bao giờ cũng là một thể thống nhất gắn bó nhau. Khơng một hình
thức nào khơng chứa đựng một nội dung nhất định. Khơng có một nội dung nào lại khơng
tồn tại trong một hình thức nhất định. Khi khẳng định như vậy khơng có nghĩa là nội
dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện trong một hình thức nhất định và một hình thức bao
giờ cũng chỉ biểu hiện một nội dung nhất định. Trong thực tế một nội dung có thể tồn tại
trong nhiều hình thức, ngược lại một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung.
Nội dung giữ vai trị quyết định đối với hình thức. Sự vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ nội dung. Khi nội dung biến đổi thì hình thức của nó
cũng biến đổi theo cho phù hợp với nội dung, nhưng sự biến đổi của hình thức thường
diễn ra chậm hơn.
Chịu sự quyết định của nội dung, nhưng hình thức có tính độc lập tương đối của nó. Khi
hình thức phù hợp với nội dung thì nó mở đường và thúc đẩy nội dung phát triển. Khi
khơng phù hợp với nội dung, hình thức sẽ cản trở và kìm hãm sự phát triển của nội dung.
Ví dụ như mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ở nước ta
trong giai đoạn 1975 - 1986 và giai đoạn 1986 - nay.


Ý nghĩa phương pháp luận

Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn không được tách rời nội dung với
hình thức hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt đó của sự vật, hiện tượng.
Trong hoạt động thực tiễn cải biến xã hội cần phải biết sử dụng mọi hình thức có thể có
(mới cũng như cũ) để phục vụ cho những nhiệm vụ cụ thể đạt hiệu quả cao. Cần tránh hai
thái cực: hoặc chỉ bám những hình thức cũ, chỉ muốn làm theo kiểu cũ sẽ dẫn đến bảo
thủ, trì trệ; hoặc phủ nhận vai trị của cái cũ trong hồn cảnh mới, thay đổi hình thức cũ
một cách tùy tiện, khơng có căn cứ sẽ dẫn đến chủ quan, nóng vội.
Khi xét đốn sự vật, hiện tượng cần căn cứ vào nội dung, cũng như muốn làm biến đổi sự
vật, hiện tượng thì trước hết phải tác động để thay đổi nội dung của nó. Đồng thời phải
ln theo dõi, tạo điều kiện sao cho hình thức của sự vật, hiện tượng phù hợp hay không
phù hợp cần thiết với nội dung đang biến đổi của nó nhằm thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển đó theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
Câu 14: Nhận thức là gì? trình bày bản chất, các nguyên tắc và trình độ nhận thức
theo quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin
Quan điểm trước Mác:
- QĐCNDT Chủ Quan: cho rằng nhận thức là quá trình phức hợp cảm giác cá nhân của
con người
- CNDT khách quan: cho rằng nhận thức là sự hồi tưởng lại của những linh hồn bất tử
CNDVBC: "Nhận thức là một q trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thế giới
khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về
thế giới khách quan đó".
Quan niệm trên đây về nhận thức cũng chính là quan niệm duy vật biện chứng về bản
chất của nhận thức. Quan niệm này xuất phát tứ bốn nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là : Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người.
Hai là: Thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan vào bộ óc
của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể của chủ thể; thừa nhận khơng có cái gì là
khơng thể nhận thức được mà chỉ có những cái mà con người chưa nhận thức được.
Ba là: Khẳng định sự phản ánh đó là một q trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng
tạo. Q trình phản ánh đó diễn ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến nhiều,



từ chưa sâu sắc, chưa toàn diện đến sâu sắc và toàn diện hơn,…
Bốn là: Coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức; là động lực, mục
đích của nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Như vậy, theo quan điểm duy vật biện chứng thì nhận thức thuộc phạm vi hoạt động phản
ánh của con người (với tư cách chủ thể nhận thức) đối với thế giới khách quan (với tư
cách khách thể nhận thức) được tiến hành thông qua hoạt động thực tiễn và nhằm sáng
tạo tri thức phục vụ hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng lấy thực tiễn là tiêu chuẩn để xác
định tính chân lý của những tri thức đó.
Với quan điểm duy vật biện chứng, nhận thức nhất định phải là một q trình, đó cũng là
quá trình đi từ trình độ nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận; từ trình độ
nhận thức thơng thường đến trình độ nhận thức khoa học…
Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự
vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả
của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm. Tri thức này có hai loại là loại
tri thức kinh nghiệm thông thường và những tri thức kinh nghiệm khoa học. Hai loại tri
thức này có thể bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau.
Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong
việc khái quát bản chất, qui luật của các sự vật, hiện tượng.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng
có mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó nhận thức kinh nghiệm là cơ
sở của nhận thức lý luận; nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ
thể; nó trực tiếp gắn chặt với hoạt động thực tiễn tạo thành cơ sở hiện thực để kiểm tra,
sửa chữa, bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên,
nhận thức kinh nghiệm còn hạn chế ở chỗ nó chỉ dừng lại ở sự mơ tả, phân loại các sự
kiện, các dữ kiện thu được từ quan sát và thực nghiệm trực tiếp. Do đó nó chỉ đem lại
những hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài rời rạc, chưa phản ánh được cái bản chất,
những mối liên hệ mang tính qui luật của các sự vật, hiện tượng. Do đó, nhận thức kinh
nghiệm tự nó khơng bao giờ có thể chứng minh được đầy đủ tính tất yếu. Ngược lại, mặc
dù được hình thành từ sự tổng kết những kinh nghiệm, nhưng nhận thức lý luận khơng

hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó,
lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri
thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt
động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống con người thơng qua đó mà nâng cao
những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành cái khái quát, có


tính phổ biến
Nhận thức thơng thường là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp
từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với
tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy,
nhận thức thơng thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm
sống thực tế hàng ngày. Vì thế, nó có vai trò thường xuyên và phổ biến chi phối hoạt
động của con người trong xã hội.
Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ
sự phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Sự phản
ánh này diễn ra dưới dạng trừu tượng logic. Đó là các khái niệm, phạm trù và các qui luật
khoa học. nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, trừu tượng, khái qt lại vừa có
tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực. Nó vận dụng một hệ thống các phương
pháp nghiên cứu và sử dụng cả ngôn ngữ thông thường và thuật ngữ khoa học để diễn tả
sâu sắc bản chất và qui luật của đối tượng trong nghiên cứu. Vì thế, nhận thức khoa học
có vai trị ngày càng to lớn trong hoạt động thực tiễn, đặc biệt trong thời đại khoa học và
công nghệ hiện đại.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất
của quá trình nhận thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Trong mối quan hệ đó, nhận thức thơng thường có trước nhận thức
khoa học và là nguồn chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Mặc dù đã chứa
đựng những mầm móng của những tri thức khoa học, song nhận thức thông thường chủ
yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài, ngẫu nhiên, khơng bản chất của đối
tượng và tự nó khơng thể chuyển thành nhận thức khoa học. Muốn phát triển thành nhận

thức khoa học cần phải thơng qua q trình tổng kết, trừu tượng, khái quát đúng đắn của
các nhà khoa học. Ngược lại, khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học nó lại có tác động
trở lại nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận
thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người
nhận thức thế giới.
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Câu 1: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất. Liên hệ thực tiễn
Theo Chủ nghĩa Mac-Lênin thì lồi người từ trước đến nay đã trải qua 5 hình thái kinh tế
xã hội đó là : Thời kỳ công xã nguyên thuỷ , thời kỳ chiếm hữu nô lệ , thời kỳ phong kiến
, thời kỳ tư bản chủ nghĩa và thời kỳ xã hội chủ nghĩa Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội


được quy định bởi một phương thức sản xuất nhất định . Chính những phương thức sản
xuất vật chất là yếu tố quyết định sự phát triển hình thái kinh tế xã hội . Và qua nghiên
cứu thì theo một phương thức sản xuất nào cũng đều phải có sự phù hợp giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất . Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn song song tồn
tại và tác động lẫn nhau để hình thành một phương thức sản xuất . Đây là hai yếu tố quan
trọng quyết định tính chất , kết cấu của xã hội .
Trong bất kỳ một phương thức sản xuất nào quan hệ sản xuất cũng phải phù hợp với lực
lượng sản xuất . Sự tác động qua lại và mối quan hệ giữa chúng phải hài hoà và chặt chẽ .
Tuy nhiên trong hai yếu tố đó thì lực lượng sản xuất ln quyết định quan hệ sản xuất .
Một hình thái kinh tế - xã hội có ổn định và tồn tại vững chắc thì phải có một phương
thức sản xuất hợp lý. Chính bởi lẽ đó mà lực lượng sản xuất phải tương xứng phù hợp với
quan hệ sản xuất bởi vì xét đến cùng thì quan hệ sản xuất chính là hình thức của
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên . Trình độ của lực
lượng sản xuất, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của lồi người trong q trình tác
động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của loài
người .
Lực lượng sản xuất bao gồm :

- Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra , trước hết là công cụ lao động.
- Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất thói quen lao động , biết sử dụng tư
liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
-Tư liệu sản xuất bao gồm : Đối tượng lao động - Tư liệu lao động : Công cụ lao động;
Những tư liệu lao động khác
Đối tượng lao động khơng phải là tồn bộ giới tự nhiên, mà chỉ có một bộ phận của giới
tự nhiên được đưa vào sản xuất. Con người khơng chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối
tượng lao động có sẵn , mà cịn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động.
Tư liệu lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt giữa mình với đối
tượng lao động, chúng dẫn chuyền sự tác động của con người vào đối tượng lao động.
Đối tượng lao động và tư liệu lao động là những yếu tố vật chất của quá trình lao động
sản xuất hợp thành tư liệu sản xuất. Các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thường
xuyên có quan hệ chặt chẽ với nhau . Trong sự phát triển của hệ thống cơng cụ lao động
và trình độ khoa học-kĩ thuật , kĩ năng lao động của con người đóng vai trò quyết định .
Con người là nhân tố trung tâm và là mục đích của nền sản xuất xã hội . Lênin viết : “Lực
lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân, là người lao động “.Do


khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp mà thành phần con người cấu thành lực
lượng sản xuất cũng thay đổi . Người lao động trong lực lượng sản xuất không chỉ gồm
người lao động chân tay mà còn cả kĩ thuật viên , kĩ sư và cán bộ khoa học phục vụ trực
tiếp quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ kinh tế giữa người với người trong
quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội : Sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng .
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau :
- Quan hệ giữa người với người đổi việc về tư liệu sản xuất.
- Quan hệ giữa người với người đổi việc tổ chức quản lý
- Quan hệ giữa người với người đổi việc phân phối sản phẩm lao động
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau , trong đó quan hệ thứ nhất có ý nghĩa quyết
định đối với tất cả những mối quan hệ khác . Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào

cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải
quyết như thế nào.
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất : Sở hữu tư nhân; Sở hữu xã hội
Nội dung quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Những tác động của lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất. (LLSX quyết định quan hệ sản
xuất). Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi và phát triển đều do lực lượng sản xuất
quyết định.
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người
ln ln tìm cách cải tiến, hồn thiện cơng cụ lao động mới tinh xảo hơn.Cùng với sự
phát triển của cơng cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kĩ năng sản
xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố
cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc
hậu hơn là sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của
phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là hình thái xã hội của nó. Trong mối quan
hệ giữa nội dung và hình thức thì hình thức phụ thuộc nội dung, nội dung quyết định hình
thức, nội dung thay đổi trước, sau đó hình thức mới biến đổi theo.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến
đổi phù hợp với tính chất và trình độ của của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó là động
lực sản xuất phát triển mạnh mẽ. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới ,
quan hệ sản xuất cũ khơng cịn phù hợp nũa nên buộc phải thay thế bằng mối quan hệ


mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất
Sự hình thành , biến đổi , phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất . Nhưng quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản
xuất dựa vào đó để phát triển , nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất: Có thể thúc
đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất .
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở

thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển . Ngược lại
quan hệ sản xuất lỗi thời khơng cịn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất , bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất thì trở thành chướng ngại kìm hãm
sự phát triển của lực lượng sản xuất . Song sự tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời , theo
tính chất tất yếu khách quan thì nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất . Sở dĩ quan hệ sản xuất có tác động
mạnh mẽ đối với lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất , quy định hệ
thống của tổ chức , quản lý xã hội , quy định phương thức phân phối của cải ít hay nhiều
mà người lao động được hưởng . Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ của lực lượng sản xuất
chủ yếu của xã hội ( con người ) , nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế
việc cải tiến cơng cụ lao động , áp dụng những thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất ,
hợp tác và phân công lao động . Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống , một chỉnh
thể hữu cơ gồm ba mặt : Quan hệ sở hữu , quan hệ quản lý và quan hệ phân phối . Chỉ
trong chỉnh thể đó quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy hành động nhằm
phát triển sản xuất.
Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất qua sự tác động lẫn nhau.
Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội hợp
thành phương thức sản xuất . Trong sự thống nhất biện chứng này , sự phát triển của lực
lượng sản xuất đóng vai trị quyết định đối với quan hệ sản xuất . Quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Lực lượng sản xuất
thường xuyên vận động , phát triển nên quan hệ sản xuất cũng luôn luôn thay đổi nhằm
đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất . Từ mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm hình thành quy luật quan hệ sản xuất phải phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất . Đây là quy luật kinh tế
chung của mọi phương thức sản xuất .
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản


xuất là quy luật cơ bản của sự phát triển lồi người . Sự tác động của nó trong lịch sử làm
cho xã hội chuyển từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình thái xã hội cao hơn.

- Trước 1986, do không tuân thủ quy luật mà Việt Nam đã lâm vào tình trạng khủng
hoảng.
- Từ 1986 đến nay, do tôn trọng quy luật quan hệ sản xuất phải ln thích ứng với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất mà Việt Nam đã thoát khỏi khủng hoảng và đang
trở thành nước đang phát triển. Lực lượng sản xuất của Việt Nam cho đến nay vẫn cịn rất
thấp (về trình độ, đang sử dụng cơng cụ lao động thủ cơng là chủ yếu; về tính chất, đang
lao động cá thể là chủ yếu), vì thế từ 1986-1988 quan hệ sản xuất của Việt Nam chỉ là
quan hệ sản xuất trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Áp
dụng quan hệ sản xuất này Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng. Vì thế, từ
1988-1991, quan hệ sản xuất của Việt Nam là quan hệ sản xuất những bước đi đầu tiên
trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH. Đây là thời kỳ ở Việt Nam bắt
đầu thực hiện nền kinh tế thị trường, nhờ đó đến 1991, Việt Nam bước đầu chặ đứng
được khủng hoảng. Do vậy từ 1991-2001, quan hệ sản xuất của Việt Nam là quan hệ sản
xuất định hướng theo CNXH; từ 2001-2011 là quan hệ sản xuất định hướng lên CNXH;
từ 2011-nay là quan hệ sản xuất phát triển lên CNXH.
Tất cả các bước đi đó là từng bước làm cho quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp với tính
chất (trình độ) của lực lượng sản xuất hiện có của Việt Nam. Nhờ đó, đến nay Việt Nam
đã là nước đang phát triển có uy tín trên thế giới.
Câu 2: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng. Liên hệ thực tiễn
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện cơ bản của đời sống xã hội —
đó là phương diện kinh tế và phương diện chính trị - xã hội. Chúng tồn tại trong mối quan
hệ thống nhất biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trị
quyết định đối với kiến trúc thượng tầng, đồng thời kiến trúc tlhượng tầng thường xuyên
có sự tác động trở lại cơ sơ hạ tầng.
Khái niệm cơ sở hạ tầng: Với tư cách là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
khái niệm cơ sở hạ tầng dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của xã hội. Như vậy, thực chất đây là nói cơ sở kinh tế của xã hội; khơng phải nói
kết cấu hạ tầng kỹ thuật của xã hội - là cái thuộc vể lực lượng sản xuất.
Ví dụ, cơ sở hạ tầng (hay cơ sở kinh tế) của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành phần (kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể,


kinh tế tư nhân tư bản,...) trong đó thành phần ,kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kết
cấu đó được xác lập trên cơ sở hệ thống ba loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, sở hữu
toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, sở hữu tập thể của những người lao động, sở
hữu tư nhân với nhiều hình thức cụ thể khác nhau; trên cơ sở đó, hình thành nên nhiều
hình thức tổ chức kinh doanh đan xen hỗn hợp với nhiều loại hình phân phối đa dạng.
+ Kết cấu chung của cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng của một xã hội, trong tồn bộ sự vận động của nó. được tạo nên bởi các
quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mới tồn tại dưới
hình thái mầm mống, đại biểu cho sự phát triển của xã hội tương lai. Trong đó quan hệ
sản xuất thống trị chiếm địa vị chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, định hướng
sự phát triển của đời sông kinh tế - xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ kinh tế
của một xã hội nhất định.
+ Kết cấu ba bộ phận của cơ sở hạ tầng phản ánh điều gì?
Sự tồn tại của ba loại hình quan hệ sản xuất cấu thành cơ sở hạ tầng của một xã hội phản
ánh tính chất vận động, phát triển liên tục của lực lượng sản xuất với các tính chất kế
thừa, phát huy và phát triển.
Khái niệm kiến trúc thượng tầng: Với tư cách là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, khái niệm kiến trúc thượng tầng dùng để chỉ tồn bộ hệ thống kết cấu các
hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình
thành trên một cơ sở hạ tầng kinh tế nhất định.
+ Kết cấu chung của kiến trúc thượng tầng:
Kiến trúc thượng tầng của mỗi xã hội là một kết cấu phức tạp, có thể được phán tích từ
những giác độ khác nhau, từ đó cho thấy mối quan hệ đan xen và chi phối lẫn nhau của
chúng. Từ giác độ chung nhất, có thể thấy kiến trúc thượng tầng của một xã hội bao gồm:
hệ thống các hình thái ý thức xã hội (hình thái ý thức chính trị, pháp quyền, tơn giáo,...)
và các thiết chế chính trị - xã hội tương ứng của chúng (nhà nước, chính đảng, giáo
hội,...).

Yếu tố trọng yếu của kiến trúc thượng tầng trong điều kiện xã hội có đối kháng giai
cấp là yếu tố nào?
Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong các xã hội hiện đại, hình thái ý thức chính trị
và pháp quyền cùng hệ thống thiết chế, tổ chức chính đảng và nhà nước là hai thiết chế,
tổ chức quan trọng nhất trong hệ thống kiến trúc thượng tầng của xã hội.


Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực và thực thi quyền lực đặc biệt của xã hội
trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp. Về danh nghĩa, nhà nước là hệ thống tổ
chức đại biểu cho quyền lực chung của xã hội để quản lý, điều khiển mọi hoạt động của
xã hội và công dân, thực hiện chức năng chính trị và chức năng xã hội cùng chức năng
đối nội và đối ngoại của quốc gia. Về thực chất, bất cứ nhà nước nào cũng là cơng cụ
quyền lực thực hiện chun chính giai cấp của giai Cấp thống trị, tức giai cấp nắm giữ
được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nó chính là chủ thể thực sự của quyền
lực nhà nước.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng được thể hiện trên
nhiều phương diện: tương ứng với một cơ sở hạ tầng nhất định sẽ sản sinh ra một kiến
trúc thượng tầng phù hợp, có tác dụng bảo vệ cơ sở hạ tầng đó; những biến đổi trong cơ
sở hạ tầng tạo ra nhu cầu khách quan phải có sự biến đổi tương ứng trong kiến trúc
thượng tầng; tính chất mâu thuẫn trong cơ sở hạ tầng được phản ánh thành mâu thuẫn
trong hệ thống kiến trúc thượng tầng; sự đấu tranh trong lĩnh vực ý thức hệ xã hội và
những xung đột lợi ích chính trị - xã hội có nguyên nhân sâu xa từ mâu thuẫn và cuộc đấu
tranh giành lợi ích trong cơ sở kinh tế của xã hội; giai cấp nắm giữ quyền sở hữu tư liêu
sản xuất của xã hội, đồng thời cũng là giai cấp nắm được quyền lực nhà nước trong kiến
trúc thượng tầng, còn các giai cấp và tầng lớp xã hội khác ở vào địa vị phụ thuộc đối với
quyền lực nhà nước; các chính sách và pháp luật của nhà nước suy đến cùng chỉ là phản
ánh nhu cầu thống trị về kinh tế của giai cấp nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất
chủ yếu của xã hội, V.V.. Như vậy, cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng: kiến
trúc thượng tầng là sự phản ánh đối với cơ sở hạ tầng, phụ thuộc vào cơ sở ha tầng.

Tính chất phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng có nguyên nhân từ tính
tất yếu kinh tế đối với tồn bộ các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, dù đó là lĩnh vực thực
tiễn chính trị, pháp luật.... hay lĩnh vực sinh hoạt tinh thần của xã hội. Tính tất yếu kinh tế
lại phụ thuộc vào tính tất yếu của nhu cầu duy trì và phát triển các lực lượng sản xuấi
khách quan của xã hội.
Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
Với tư cách là các hình thức phản ánh và được xác lập do nhu cầu phát triển của kinh tế,
các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có vị trí độc lập tương đối của nó và thường xuyên
có vai trò tác động trở lại cơ sở hạ tầng của xã hội.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể thong qua nhiều
phương thức. Điều đó tùy thuộc vào bản chất của mỗi yếu tố trong kiến trúc thưọng tầng,


phụ thuộc vào vị trí, vai trị của nó và những điều kiện cụ thể. Tuy nhiên, trong điều kiện
kiến trúc thượng tầng có yếu tố nhà nước thì phương thức tác động của các yếu tố khác
tới cơ sở kinh tế của xã hội thường phải thông qua yếu tố nhà nước mới có thế thực sự
phát huy mạnh mẽ vai trị thực tế của nó. Nhà nước là yếu tố có tác động trực tiếp nhất và
mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng của xã hội.
Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng có thể diễn ra theo nhiều xu
hướng, thậm chí các xu hướng khơng chỉ khác nhau mà cịn có thể đối lập nhau, điều đó
phản ánh tính chất mâu thuẫn lợi ích của các giai cấp, các tầng lớp xã hội khác nhau và
đối lập nhau: có sự tác động nhằm duy trì cơ sở kinh tế hiện tại, tức xu hướng duy trì chế
độ xã hội hiện thời, lại có sự tác động theo xu hướng xóa bỏ cơ sở kinh tế này và có xu
hướng đấu tranh cho việc xác lập một cơ sơ kinh tế khác, xây dựng một chế độ xã hội
khác,..
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể diễn ra theo xu hướng
tích cực hoặc tiêu cực. Điều đó phụ thuộc vào sự phù hợp hay khơng phù hợp của các yếu
tố thuộc kiến trúc thượng tầng đối với nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế; nếu
phù hợp nó sẽ có tác dụng tích cực, ngược lại sẽ có tác dụng tiêu cực, kìm hãm và phá
hoại sự phát triển kinh tế trong một phạm vi và mức độ nhất định. Tuy nhiên, sự tác động

của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng dù diễn ra với những xu hướng khác
nhau, mức độ khác nhau nhưng rốt cuộc nó khơng thể giữ vai trò quyết định đối với cơ sở
hạ tầng của xã hội; cơ sở hạ tầng của xã hội vẫn tự mở đường đi cho nó theo tính tất yếu
kinh tế của nó.
Vận dụng vào thực tiễn nước ta hiện nay
Trong công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam, kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa,
đặc biệt là Nhà nước CHXHCN Việt Nam giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Khơng có
chính quyền của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động thì khơng thể xây dựng được
cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước của dân do dân vì dân là cơng cụ đắc lực để cải
tạo và xóa bỏ cơ sở hạ tầng cũ lạc hậu, tạo lập cơ sở hạ tầng mới tiến bộ vì nước mạnh
dân giàu, xã hội cơng bằng dân chủ văn minh.
Dĩ nhiên, cần tất yếu khẳng định rằng sự biến đổi của cơ sở hạ tầng ở nước ta hiện nay sẽ
dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng và đang là một quá trình rất phức tạp.
Nguyên nhân tất yếu của quá trình thay đổi này xét cho cùng là do sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Nền kinh tế đa thành phần vận hành theo cơ chế thị trường nếu không có
sự quản lý tốt của Nhà nước tất yếu sẽ đưa Việt Nam tới CNTB.


Câu 3: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Khái niệm: tồn tại xã hội dùng để chỉ toàn bộ sinh hoạt vật chất và điều kiện sinh hoạt
vật chất của mỗi cộng đồng người trong những điều kiện lịch sử xác định.
+ Các yếu tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, gồm có:
Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó. Ví dụ, phương thức kỹ
thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất truyền
thống của người Việt Nam.
Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như: các điều kiện khí
hậu, đất đai, sơng hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của khơng gian sinh tồn của cộng đồng
xã hội.
Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân cư, mơ
hình tổ chức dân cư,...

Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo
thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất
là yếu tố cơ bản nhất.
Ví dụ, trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sơng ngịi,... tất yếu làm
hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp nhất đối với người Việt Nam
trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm qua. Để tiến hành được phương thức đó,
người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền
vững,...
- Khái niệm ý thức xã hội: ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần
của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn
phát triển nhất định.
+ Kết cấu của ý thức xã hội.
Có thể phân tích từ những góc độ khác nhau:
Một là, theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm các
hình thái khác nhau, đó là ý thức chính trị, ý thức pháp quvền, ý thức đạo đức, ý thức tôn
giáo, ý thức thẩm mỹ, ý thức khoa học,...
Hai là, theo trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể phân biệt ý
thức xã hội thông thường và ý thức lý luận. Ý thức xã hội thơng thường là tồn bộ những


×