Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu trong tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DOÃN THỊ THU HÀ

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CÁC TỘI
PHẠM XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DOÃN THỊ THU HÀ

XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CÁC TỘI
PHẠM XÂM PHẠM SỞ HỮU TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM (TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI)

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân

Hà nội – 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Dỗn Thị Thu Hà


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN

HÌNH SỰ CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM SỞ HỮU .......................................... 8
1.1. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự............................................................................. 8
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ........................................................... 8
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............................................10
1.1.3. Nguyên tắc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .......................................................11
1.2. Khái niệm và đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm
phạm sở hữu................................................................................................................15
1.2.1. Khái niệm tội phạm xâm phạm sở hữu và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các
tội phạm xâm phạm sở hữu .........................................................................................15
1.2.2. Đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu ....21
Chƣơng 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..................................................................................25
2.1. Quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ..........................25
2.1.1. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .....................................................25
2.1.2. Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ...........................................................26
2.1.3. Quy định chung về xét xử tại phiên tịa sơ thẩm hình sự...............................32
2.1.4. Trình tự xét xử vụ án hình sự tại phiên tịa sơ thẩm .......................................43
2.1.5. Một số thủ tục sau phiên tòa sơ thẩm ..............................................................50
2.2. Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu
trên địa bàn thành phố Hà Nội................................................................................51


2.2.1. Đánh giá tình hình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở
hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội.............................................................................51
2.2.2. Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu trên
địa bàn thành phố Hà Nội ............................................................................................55
2.2.3. Những vướng mắc, bất cập trong việc vận dụng các quy định các tội phạm
xâm phạm sở hữu của BLHS năm 2015 trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội
phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội ..........................................62

2.2.4. Những vi phạm, sai lầm trong thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội
phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội và nguyên nhân của
những vi phạm, sai lầm................................................................................................66
Chƣơng 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÉT XỬ
SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM SỞ HỮU
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................83
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm
xâm phạm sở hữu.......................................................................................................83
3.1.1.Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ...........................83
3.1.2. Yêu cầu cải cách tư pháp ..................................................................................84
3.1.3. Yêu cầu phòng, chống tham nhũng .................................................................85
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm
xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội..............................................86
3.2.1. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự các tội xâm phạm sở hữu. ..............................................................................86
3.2.2. Giải pháp về hoàn thiện quy định pháp luật về các tội xâm phạm sở hữu...94
3.2.3. Các giải pháp khác.............................................................................................98
KẾT LUẬN ................................................................................................................105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................107


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ANTT

An ninh trật tự

BLHS

Bộ luật Hình sự


BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐXX

Hội đồng xét xử

HTND

Hội thẩm nhân dân

KSV

Kiểm sát viên

TAND

Tòa án nhân dân

TAQS

Tòa án quân sự

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cơng tác đấu tranh phòng chống tội phạm, việc xét xử, áp dụng
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng. Việc
này không chỉ giúp xử lý trách nhiệm hính sự đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật mà cịn góp phần khơng nhỏ vào việc giáo dục ý thức pháp luật và
phòng ngừa tội phạm. Thủ đơ Hà Nội là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa
- xã hội của đất nước Việt Nam, nơi tập trung nhiều dân cư nên có điều kiện
phát triển nhiều về mọi mặt, các dịch vụ, cơ sở hạ tầng được cải thiện và ngày
càng hiện đại, đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên,
dưới những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường nên những năm gần
đây, thủ đô cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức khác, đặc biệt là
phức tạp về tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm xâm phạm
quyền sở hữu nói riêng.
Theo báo cáo thông kê của TAND hai cấp thành phố Hà Nội từ năm
2016 đến hết năm 2020 cho thấy: TAND hai cấp thành phố Hà Nội đã đưa ra
xét xử 41.180 vụ án hình sự, 70.869 bị cáo; trong đó: Số vụ, bị cáo phạm các
tội phạm xâm phạm sở hữu là 9.276 vụ, 15.571 bị cáo, chiếm 22,52% số vụ
án hình sự và 21,97% số bị cáo. Điều này cho thấy, tình trạng phạm các tội
thuộc nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội không
chỉ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tội phạm mà cịn có chiều hướng ngày
càng gia tăng và diễn biến phức tạp, nhất là trong bối cảnh đại dịch Covid 19
gây ra nhiều khó khăn về kinh tế, xã hội.
Mặc dù trong những năm qua, TAND hai cấp thành phố Hà Nội đã
thực hiện các hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về các tội phạm xâm
phạm sở hữu kịp thời, bảo đảm các bản án sơ thẩm tuyên đúng người, đúng

tội, đúng pháp luật có tác dụng răn đe, phịng ngừa tội phạm xâm phạm sở
hữu; tổ chức tổng kết thực tiễn làm căn cứ cho việc xét xử đạt hiệu quả cao;
phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong việc tổ chức thi hành án...


2
Tuy nhiên, khi tiến hành công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự về các tội
phạm xâm phạm sở hữu cũng vẫn còn bộc lộ những hạn chế, vướng mắc nhất
định trong xét xử cịn có sự lúng túng trong việc định tội danh, định khung
hình phạt, quyết định hình phạt, trong việc giải quyết vấn đề dân sự, bồi
thường thiệt hại, xử lý vật chứng..., vẫn cịn tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ
sung tại phiên tòa, số vụ án bị kháng cáo còn cao, số bản án mà tòa án cấp sơ
thẩm xét xử bị tòa án cấp phúc thẩm sửa, hủy án vẫn còn tương đối...
Trên thực tế cho thấy, từ trước đến nay vẫn chưa có cơng trình khoa
học nào nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện hoạt động xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự các tội xâm phạm sở hữu của TAND hai cấp thành phố Hà Nội.
Để khắc phục những hạn chế, thiếu sót đó cần thiết phải đầu tư nghiên cứu
một cách hệ thống, chuyên sâu nhằm tìm ra ngun nhân của thực trạng, qua
đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các
tội xâm phạm sở hữu.
Từ những vấn đề trên, tôi đã lựa chọn nghiên cứu Luận văn thạc sĩ với
chủ đề “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu
trong tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn thành phố Hà
Nội)” mang tính cấp thiết cao ở cả phương diện lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học liên
quan đến vấn đề trên ở một số các khía cạnh khác nhau đã được cơng bố như:
Cơng trình nghiên cứu mang tính đại cương: 1. PGS.TS. Nguyễn Ngọc
Chí – TS. Lê Lan Chi đồng chủ biên (2019), Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà

Nội; 2. PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn làm chủ biên (2019), Giáo trình Luật
tố tụng hình sự Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân.
Cơng trình nghiên cứu chun sâu: 1. Nguyễn Sỹ Thành (2015), Xét xử
sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa
bàn tỉnh Đắk Lắk), Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia


3
Hà Nội; 2. Lâm Văn Luyện (2016), Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tịa án
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luât học, Khoa Luật,
Đại học quốc gia Hà Nội; 3. Trần Huy Long (2017), Áp dụng pháp luật trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội – Qua thực
tiễn Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An ), Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật,
Đại học quốc gia Hà Nội.
Các bài viết: 1. Đỗ Thanh Xuân: “Bàn về một số quy định tại phần xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự theo BLTTHS 2015”, tạp chí Tịa án nhân dân (số
5/T6 – 2021); 2. TS. Võ Quốc Tuấn: “Bảo đảm quyền bình đẳng của bị cáo
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tịa án nhân dân ở Việt Nam hiện
nay”, tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (số 6/T6 – 2021); 3. TS. Vũ Gia Lâm: “
Cần bảo đảm sự thống nhất trong quy định về việc ra quyết định của Tòa án
giai đoạn xét xử sơ thẩm”, tạp chí Tịa án nhân dân (số 3/T8 – 2021).
Có thể thấy có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực tội phạm
xâm phạm sở hữu dưới nhiều góc độ từ tội phạm học, luật hình sự,... hay có
nghiên cứu về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần khơng nhỏ trong việc
phát triển và hồn thiện pháp luật hình sự. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, từ
trước đến nay vẫn chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu về xét xử vụ
án hình sự về các tội xâm phạm sở hữu nói chung và một cách đầy đủ và tồn
diện về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu của
TAND hai cấp thành phố Hà Nội. Để khắc phục những hạn chế, thiếu sót đó
cần thiết phải đầu tư nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu nhằm tìm ra

nguyên nhân của thực trạng, qua đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội xâm phạm sở hữu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm phân tích làm rõ vấn đề lý
luận, quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu. Đồng thời, chỉ ra


4
những bất cập và xây dựng các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà
Nội trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã thực hiện các nhiệm vụ
cụ thể sau:
+ Thu thập tài liệu, số liệu các vụ án hình sự về các tội phạm xâm phạm
sở hữu.
+ Nghiên cứu, làm rõ nhận thức lý luận về tội phạm xâm phạm sở hữu
và đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu.
+ Khảo sát tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu và đánh giá thực trạng
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu của TAND hai
cấp thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó, đưa ra nhận xét, đánh giá và rút ra
những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế, thiếu
sót đó.
+ Đưa ra những dự báo và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu của TAND
hai cấp thành phố Hà Nội.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Những vấn đề lý luận, quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở
hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích vấn đề lý luận
và quy định pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội xâm phạm sở
hữu và thực tiễn áp dụng của TAND hai cấp thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó
đề xuất hồn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội phạm xâm phạm
sở hữu, pháp luật tố tụng về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và nâng cao hiệu


5
quả xét xử sơ thẩm hình sự các tội xâm phạm sở hữu quy định tại chương
XIV, BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 nay được quy định tại
chương XVI, BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Về địa bàn khảo sát: Khóa luận tập trung nghiên cứu kết quả hoạt động xét
xử sơ thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu của TAND hai cấp thành phố Hà Nội.
Về chủ thể tiến hành: Tòa án nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội.
Về thời gian nghiên cứu, khảo sát: Các số liệu, tài liệu được khảo sát,
nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2016 đến hết năm 2020.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam, các chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trong quá tình thực hiện Luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp
cụ thể như sau:
+ Phương pháp nghiên cứu tổng hợp: Nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu,

cơng trình khoa học có liên quan như sách, đề tài khoa học, luận án tiến sĩ, luận
văn thạc sĩ, báo cáo khoa học; báo cáo hoạt động của Tòa án nhân dân hai cấp
thành phố Hà Nội; hệ thống các văn bản pháp luật liên quan xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự các tội xâm phạm sở hữu.
+ Phương pháp thống kê, so sánh và nghiên cứu điển hình: Tiến hành
thống kê, phân tích các số liệu cụ thể đã thu được thông qua khảo sát thực
tiễn. Trong đó chủ yếu nghiên cứu, thống kê, so sánh các số liệu thu thập
được từ các báo cáo của hệ thống Tòa án về xét xử, tổng kết rút kinh nghiệm
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về các tội xâm phạm sở hữu; các tài liệu từ Cục
Cảnh sát Điều tra, Công an thành phố Hà Nội và một số tài liệu khác có liên
quan đến đề tài Luận văn.


6
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và hệ thống
thuộc chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự, đã có những đóng góp
mới về mặt lý luận, như:
Thứ nhất, luận văn làm rõ khái niệm, vai trò, ý nghĩa và nguyên tắc xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự trên cơ sở pháp luật hình sự trong giai đoạn hiện
nay. Đồng thời, luận văn chỉ rõ những vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm
pháp lý của tội phạm xâm phạm sở hữu. Từ những lý luận đó để làm rõ
những đặc điểm trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với các tội phạm
xâm phạm sở hữu.
Thứ hai, luận văn đi sâu quy định pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự từ thẩm quyền, giai đoạn chuẩn bị, quy định chung, trình tự và một số
thủ tục sau phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Để từ đó soi chiếu vào
thực tiễn áp dụng quy định pháp luật vào trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
các tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội. Qua thực tiễn
đó để chỉ ra được những bất cập trong quy định của pháp luật tố tụng hình sự

hiện hành cũng như những vi phạm, sai lầm trong quá trình áp dụng
Thứ ba, luận văn chỉ ra những yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu như xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, yêu cầu cải cách tư pháp và yêu cầu
phòng, chống tham nhũng, đồng thời đưa ra những giải pháp cụ thể để góp
phần nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm
sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội. Ngoài những giải pháp về hoàn thiện
pháp luật hình sự đối với tội phạm xâm phạm sở hữu và pháp luật tố tụng
hình sự về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được tiến hành thuận lợi, hiệu quả,
đúng theo quy định của pháp luật.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu Luận văn còn là nguồn tài liệu tham
khảo cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, đặc biệt là nguồn tài liệu
trong các lĩnh vực hoạt động của cơ quan bảo vệ pháp luật.


7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Bố cục
Luận văn được kết cấu thành 03 Chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các
tội phạm xâm phạm sở hữu.
Chương 2: Quy định pháp luật và thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự các tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội.


8
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN

HÌNH SỰ CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM SỞ HỮU
1.1. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử là biểu hiện rõ nét nhất của việc thực hiện quyền tư pháp; là
hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán
quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định
pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau
trong các tranh chấp hay mâu thuẫn đó. Ngoài các quy định của Hiến pháp và
pháp luật, các Nghị quyết của Đảng cũng đã xác định vị trí của Tòa án là
trung tâm trong các cơ quan tư pháp. Nghị quyết số 49/NQ - TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
đã khẳng định: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp
hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm
việc; trong đó xác định Tịa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động
trọng tâm”.[3]
Theo Từ điển Luật học: “Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản
chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp
lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng
với bản chất mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc”. [31, tr.780]
thì “Xét xử sơ thẩm (là một từ Hán – Việt) có nghĩa là lần đầu tiên đưa vụ án
ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền” [31, tr.870]. Mặc dù phần lớn các
phiên tòa sơ thẩm được tiến hành là để xét xử lần đầu tiên đối với vụ án, đó là
những phiên tòa xét xử sơ thẩm lại do Tòa án cấp trên hủy bản án để điều tra,
truy tố, xét xử lại hoặc chỉ xét xử lại cho nên khái niệm trên chỉ mang tính
chất tương đối.
Theo Thạc sĩ Trương Hồng Sơn:“Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là trình
tự đầu tiên của giai đoạn xét xử vụ án hình sự, được thực hiện sau khi Viện


9

kiểm sát quyết định truy tố bị can, Tòa án tiến hành các hoạt động tố tụng
hình sự, mở phiên tòa, xem xét chứng cứ của vụ án, ra bản án, quyết định xử
lý vụ án theo quy định của pháp luật” [8, tr.418]
Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: “Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một
giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó Tịa án tiến hành việc xét xử lần đầu, tồn
diện vụ án hình sự trên cơ sở cáo rạng của Viện kiểm sát được tiến hành theo
nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa làm cơ sở để ra các phán quyết về tội
phạm, hình phạt và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án một cách bình
đẳng, cơng khai bảo vệ cơng lý, quyền con người và trật tự pháp luật”.
[5, tr. 428]
Theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành, xét xử sơ thẩm
được xác định như là một trong các giai đoạn tố tụng hình sự khi mọi tài liệu
chứng cứ của vụ án do trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố thu thập trong
quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai tại phiên toà, những
người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai
của nhau, được tranh luận chất vấn những điều mà tại CQĐT họ khơng có
điều kiện thực hiện. Xét xử sơ thẩm được coi như là đỉnh cao của quyền tư
pháp, tại phiên toà quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng được thực hiện một cách công khai, đầy đủ nhất; những lo âu
của bị cáo, bị hại và của những người tham gia tố tụng khác được giải toả tại
phiên toà. Tâm lý nói chung đối với những người tham gia tố tụng là mong
muốn vụ án nhanh được đưa ra xét xử để họ biết được Toà án sẽ phán quyết
như thế nào. Theo Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 và Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì
Tồ án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm ở Việt Nam là các Toà án nhân dân cấp
huyện, Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự khu vực, Tồ án qn sự
cấp qn khu.
Từ nhận thức trên có thể khái niệm như sau: Xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự là lần đầu tiên do Tịa án được giao có thẩm quyền thực hiện theo quy định



10
của pháp luật đưa vụ án ra xét xử một cách cơng khai tại phiên tịa để xác
định những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự từ đó đưa ra các
quyết định,bản án theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có vai trị trung tâm và quan trọng để
tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và lợi ích của cơng dân, góp phần có
hiệu quả vào cuộc đấu tranh phịng và chống tội phạm trong tồn xã hội.
Đồng thời, qua công tác xét xử sơ thẩm để nhằm áp dụng các biện pháp cần
thiết do luật định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các
quyết định mà CQĐT và VKSND đã thơng qua trước khi chuyển vụ án hình
sự sang TAND, nhằm loại trừ các những hậu quả tiêu cực của các sơ xuất, sai
lầm hoặc sự lạm dụng đã bị bỏ lọt trong ba giai đoạn tố tụng hình sự trước đó
(khởi tố, điều tra và truy tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả lại hồ sơ
để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ án một cách đúng đắn,
hiệu quả ngay từ đầu tránh bản án sơ thâm bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Ngồi ra, qua các giai đoạn mang
tính biện chứng nối tiếp nhau từ khởi tố, điều tra, truy tố và đến xét xử mà đặc
biệt xét xử sơ thẩm với tính chất là cấp xét xử thứ nhất thì chất lượng xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật ngay từ giai đoạn này có vai trị hết sức
quan trọng đảm bảo mọi hành vi tội phạm có sự trừng trị thích đáng bên cạnh
ý nghĩa răn đe, giáo dục người phạm tội cũng như mọi người dân trong xã
hội. Ngoài ra, việc xét xử sơ thẩm được tiến hành đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật giúp việc giải quyết vụ án hình sự được thực hiện nhanh chóng, kịp
thời, đúng thời gian luật định, tránh hiện tượng bỏ lọt tội phạm và làm oan
người vô tội, đồng thời còn giúp tiết kiệm tiền bạc của Nhà nước, thời gian,
cơng sức của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng, v.v…
Việc xét xử diễn ra công khai, liên tục, trực tiếp để đảm bảo tính cơng
bằng, nghiêm minh của pháp luật hình sự đối với người phạm tội; là bài học



11
đối với mọi người tham gia phiên tòa hiểu rõ về quy định, đường lối và chính
sách của Nhà nước đối với người phạm tội để không mắc phải.
Bên cạnh đó, xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng mà ở đó địi hỏi
những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải tập trung giải
quyết nhanh chóng, kịp thời, các lý lẽ đưa ra trên cơ sở tuân theo các quy định
của pháp luật hiện hành địi hỏi sự chính xác, sắc bén, có sức thuyết phục.
Thơng qua phiên tồ có thể đánh giá được trình độ nghiệp vụ của Thẩm phán,
của Hội thẩm nhân dân, của Kiểm sát viên, của Luật sư và những người tham
gia tố tụng tố tụng thác; đồng thời, đối với những người dự phiên toà hiểu biết
thêm về pháp luật, củng cố thêm lịng tin vào Tồ án.
1.1.3. Nguyên tắc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo tác giả luận văn, nguyên tắc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được
hiểu là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, có giá trị bắt buộc chung đối với mọi
chủ thể tham gia quá trình xét xử vụ án hình sự nhằm xử lý cơng minh, kịp
thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi
người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Và theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, những quy định xuyên suốt trong
giải quyết mọi vụ án hình sự trong giai đoạn xét xử được thể hiện qua các
nguyên tắc sau đây:
- Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo
thủ tục rút gọn.
Nguyên tắc này được quy định tại điều 103 Hiến pháp năm 2013 và
Điều 10 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 và bắt nguồn từ nguyên tắc
tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước.

Xét xử là hoạt động đặc thù do tòa án nhân dân thực hiện nhằm bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp


12
của các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cơng dân. Bằng bản án, quyết định
của tịa án mà các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được hưởng các quyền hoặc
phải thực hiện các nghĩa vụ nhất định. Vì vậy, việc xét xử của tịa án phải
khách quan, đúng pháp luật. Muốn có bản án, quyết định khách quan, đúng
pháp luật địi hỏi phải phát huy trí tuệ tập thể. Do đó khi xét xử tất cả các vụ
án, ở tất cả các trình tự tố tụng đều phải thành lập hội đồng xét xử, trừ trường
hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
Các văn bản pháp luật về tố tụng đã quy định cụ thể thành phần của hội
đồng xét xử ở từng cấp xét xử:
Theo luật định thì hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai
hội thẩm nhân dân, trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì
hội đồng xét xử có hai thẩm phán và ba hội thẩm.
Nguyên tắc này phát huy được trí tuệ tập thể và đảm bảo cho việc xét xử
của Tòa án thận trọng, khách quan, tồn diện, chống độc đốn hoặc tùy tiện cá
nhân. Hội đồng xét xử làm việc tập thể và chịu trách nhiệm phán quyết của
mình. Mọi thành viên hội đồng xét xử ngang quyền nhau khi giải quyết những
vấn đề phát sinh tại phiên tòa. Khi quyết định bản án bằng cách biểu quyết
theo đa số từng vấn đề một. Trong hội đồng xét xử sơ thẩm, thẩm phán biểu
quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình
bằng văn bản và được lưu trong hồ sơ vụ án.
- Việc xét xử sơ thẩm của tịa án nhân dân có hội thẩm tham gia, trừ
trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn
Nguyên tắc này được quy định tại điều 103 Hiến pháp năm 2013 và
Điều 8 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 và được xuất phát từ bản chất
của Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

Nguyên tắc việc xét xử sơ thẩm có hội thẩm tham gia khẳng định tính dân chủ
của chế độ nước ta, coi cơng dân là chủ đất nước, có quyền tham gia quản lí
đất nước với nhiều hình thức khác nhau, trong đó có quyền tham gia vào
hoạt động xét xử của tòa án.


13
Hội thẩm nhân dân là những người lao động công tác ở cơ sở, thay mặt
nhân dân lao động tham gia hoạt động xét xử của Tòa án, đảm bảo cho việc
xét xử đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, phù hợp
với nguyện vọng, quan điểm của nhân dân và sát với thực tế của vụ án.
Luật quy định hội thẩm chỉ được tham gia hội đồng xét xử sơ thẩm chứ
không được tham gia hội đồng xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm. Khi tham
gia xét xử, hội thẩm bình đẳng với thẩm phán trong việc giải quyết các vấn đề
phát sinh khi xét xử. Khi xét xử các thành viên trong hội đồng xét xử đều có
quyền đưa ra thảo luận tất cả những vấn đề quan trọng cần giải quyết tại phiên
tòa, có quyền tham gia xét hỏi và nghị án, mọi quyết định đều được biểu
quyết theo đa số.
Hiện nay, điều 85 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định
rõ tiêu chuẩn của hội thẩm, nhưng trong thực tế sự tham gia xét sử của hội
thẩm còn mang tính hình thức, làm hạn chế hiệu quả cơng tác xét xử của Tịa
án. Do đó, vấn đề đặt ra hiện nay là phải nâng cao trình độ nghiệp vụ của hội
thẩm để đảm bảo cho hội thẩm bằng chính năng lực của mình có thể ngang
quyền với thẩm phán khi xét xử.
- Bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm
Nguyên tắc này được quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm
2013 và Điều 6 Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2014. Nội dung nguyên tắc
này được thể hiện: Bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực của tịa án
nhân dân có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do

pháp luật quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử theo trình tự phúc
thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
- Tịa án xét xử cơng khai
Ngun tắc này được quy định từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp
năm 2013 và các Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002,


14
2014. Nguyên tắc xét xử công khai là một trong những nguyên tắc dân chủ
của hoạt động xét xử xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này góp phần vào việc
giáo dục và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống
xã hội, thu hút đông đảo nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống
tội phạm và các vi phạm. Mặt khác nguyên tắc này thu hút nhân dân tham dự
phiên tòa, tạo điều kiện cho nhân dân lao động giám sát hoạt động của Tòa án
cũng như của các cơ quan cơ quan chức năng khác, nâng cao ý thức trách
nhiệm của những người tiến hành tố tụng và do đó nguyên tắc này là một
trong những nguyên tắc đảm bảo cho hoạt động xét xử được thực hiện theo
pháp luật.
Tính cơng khai trong hoạt động xét xử được hiểu là việc xét xử các vụ
án hình sự, dân sự, kinh tế… được tiến hành cơng khai tại phiên tịa, mọi cơng
dân từ 16 tuổi trở lên đều có quyền tham dự và theo dõi diễn biến của phiên
tòa. Tòa án nhân dân phải niêm yết kế hoạch xét xử tại trụ sở tịa án hoặc
thơng báo việc xét xử trên các phương tiện thông tin đại chúng để nhân dân
biết, tham dự hoặc tòa án tổ chức các phiên tòa lưu động để xét xử lưu động ở
nơi xảy ra vụ án.
Tuy nhiên khơng phải mọi phiên tịa của tịa án nhân dân đều phải tiến
hành công khai, mà Hiến pháp năm 2013 cịn quy định tịa án nhân dân có thể
xét xử kín để giữ bí mật của Nhà nước, thuần phơng, mĩ tục của dân tộc, bảo
vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư sự theo yêu cầu chính đáng

của đương sự.
- Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
Nguyên tắc này được quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiếp pháp năm
2013 và Điều 13 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014. Đây là một nguyên
tắc mới được đưa vào trong Hiến pháp nước ta trên tinh thần thực hiện các
nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp. Cụ thể: “Nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho những


15
người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử. Việc thực
hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định của luật tố tụng.”
Có thể thấy, quy định về nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp năm
2013 và Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2014 chính là cơ sở pháp lý quan
trọng cho Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành
chính cụ thể hóa nhằm bảo đảm sự khách quan, công khai, minh bạch trong
hoạt động xét xử của tịa án. Từ đó, giúp tịa án xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, cũng như không làm oan người vô tội.
Đồng thời, bảo đảm tốt hơn nữa các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân
khi tham gia quá trình tố tụng.
- Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự
Theo quy định của pháp luật tố tụng, trong một số trường hợp nhất
định, nếu bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào
chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tịa án phải yêu cầu Đoàn luật
sư cử người bào chữa cho họ. Đó là những trường hợp sau: Bị cáo có nhược
điểm về thể chất và tinh thần; Bị cáo phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt cao
nhất là tử hình; Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội.
Để thực hiện tốt nguyên tắc này thì pháp luật cũng quy định việc thành
lập các tổ chức luật sư. Theo Luật Luật sư năm 2012, ở các tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương được thành lập các Đoàn luật sư để giúp bị can, bị cáo
và đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
1.2. Khái niệm và đặc điểm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự các tội
phạm xâm phạm sở hữu
1.2.1. Khái niệm tội phạm xâm phạm sở hữu và xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự các tội phạm xâm phạm sở hữu
Quyền sở hữu là quyền thiêng liêng, quan trọng. Do đó, bảo vệ quyền sở
hữu là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước ta. Quyền sở hữu bao gồm quyền
chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy


16
định của pháp luật. Vì vậy, các tội xâm phạm sở hữu là hành vi nguy hiểm
cho xã hội xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản hoặc
xâm phạm một trong ba quyền trên. Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm
2015, chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản. Chiếm hữu bao gồm của
chủ thể sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ thể sở hữu. Người
không phải là chủ sở hữu cũng có quyền chiếm hữu tài sản trong trường hợp
được chủ sở hữu chuyển giao hoặc do pháp luật quy định. Quyền chiếm hữu
của chủ thể sở hữu là chủ thể được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình
để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo
đức xã hội. Quyền sử dụng là quyền của chủ sở hữu khai thác công dụng,
hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Đối với những người khơng phải là chủ sở
hữu cũng có quyền sử dụng tài sản trong các trường hợp được chủ sở hữu
chuyển giao quyền sử dụng hoặc do pháp luật quy định. Quyền định đoạt là
quyền của chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác
hoặc từ bỏ quyền sở hữu, như chủ sở hữu có quyền tự mình bán, trao đổi, cho
tặng, cho vay, thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác đối
với quyền sở hữu. Theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu có quyền tự bảo

vệ ngăn chặn bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm đến quyền của mình
bằng các biện pháp khơng trái với quy định của pháp luật. Chủ sở hữu có
quyền u cầu Tịa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành
vi xâm phạm phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở pháp luật việc thực
hiện quyền sở hữu đối với tài sản và u cầu bồi thường thiệt hại.
Q trình đấu tranh phịng, chống tội phạm xâm phạm sở hữu việc xác
định và phân biệt tội phạm xâm phạm sở hữu cũng có những khác biệt về
nhận thức.
Theo Thạc sĩ Đinh Văn Quế thì: “Các tội phạm sở hữu là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có


17
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
đến quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức và của công dân”. [13].
Quan điểm của GS, TS Trần Minh Hưởng cho rằng: “Các tội xâm
phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, do người có đủ
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định thực hiện, gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định cho quan hệ sở hữu...”. [6].
Kế thừa các quan điểm trên, tác giả cũng cho rằng: Các tội xâm phạm
sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
Hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý
hoặc vơ ý xâm phạm đến quan hệ sở hữu được pháp luật bảo vệ gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại quyền sở hữu đối với tài sản của người khác.
Các tội xâm phạm sở hữu quy định trong Chương XVI Bộ luật Hình sự
năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây xin gọi tắt là BLHS năm 2015)
gồm 13 Điều luật (từ Điều 168 đến Điều 179); so với BLHS năm 1999,
Chương XVI giữ nguyên số lượng 13 Điều, chỉ sửa đổi, không bổ sung mới
hoặc bãi bỏ Điều luật nào. Để xác định hành vi có phải là tội phạm hay không
phải dựa vào cấu thành tội phạm. Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu

hiệu được quy định trong luật hình sự đặc trưng cho một loại tội phạm cụ thể.
Từ nhận thức trên cho thấy, các tội phạm xâm phạm sở hữu có những đặc
điểm pháp lý như sau:
- Khách thể của các tội phạm xâm phạm sở hữu
Các tội xâm phạm sở hữu xâm phạm gây thiệt hại cho quyền sở hữu đối
với tài sản. Đối tượng tác động chủ yếu của các tội phạm trong chương này là
tài sản. Tại Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định: “Tài sản là vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản.
Bất động sản có thể hình thành trong tương lai.” [22]
- Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu
Đó là những biểu hiện bên ngồi của tội phạm, tất cả các tội phạm sở
hữu đều được thể hiện: bằng hành vi. Hành vi của loại tội phạm này được thể


18
hiện ở các dạng sau đây:
Hành vi chiếm đoạt tài sản: người phạm tội cố ý chuyển dịch một cách
trái pháp luật tài sản đang thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác thành tài sản
“của mình”... Hành vi chiếm đoạt bao giờ cũng thực hiện bằng hành động tích
cực. Cách thức và hình thức chiếm đoạt rất đa dạng và được mô tả, khái quát
thành những tội danh cụ thể trong chương: Cướp tài sản; Bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản; Cưỡng đoạt tài sản; Cướp giật tài sản; Công nhiên chiếm đoạt tài
sản; Trộm cắp tài sản; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản.
Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản: người phạm tội cố ý chuyển dịch
tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác, chủ thể quản lý tài sản đã mất năng
lực thực tế thực hiện quyền chiếm hữu đối với tài sản. Ở đây chủ thể phạm tội
khẳng định sự mong muốn chiếm hữu tài sản khơng phải của mình bằng cách
tỏ những thái độ định đoạt với tài sản trên.
Hành vi sử dụng trái phép: Đó là việc khai thác giá trị, giá trị sử dụng

các tài sản mà không được phép, không được sự đồng ý của chủ sở hữu hoặc
người có chức năng quản lý về nghiệp vụ đối với loại tài sản bị khai thác trái
phép đó.
Hành vi hủy hoại, làm hư hỏng, làm mất mát, lãng phí tài sản: Đó là
những hành vi được thể hiện thông qua đối tượng tác động làm mất hoàn toàn
giá trị, giá trị sử dụng của tài sản (hủy hoại), làm mất giá trị từng phần có thể
khơi phục được (làm hư hỏng), làm thất thoát gây thiệt hại cho chủ sở hữu...
Các hành vi xâm phạm sở hữu có thể được thể hiện bằng hành động
hoặc được thể hiện bằng không hành động. Riêng các tội phạm có tính chất
chiếm đoạt chỉ có thể được thực hiện bằng hành động. Một số tội phạm quy
định dấu hiệu bắt buộc, quy định giá trị tài sản ở mức độ khởi điểm để xử lý
hình sự. Mức định lượng giá trị tài sản trong mỗi loại tội phạm khác nhau là
khác nhau tùy thuộc vào tính chất của từng tội phạm. Đối với những tội phạm
có tính chất nguy hiểm cho xã hội cao, các điều luật không quy định mức khởi


19
điểm của giá trị tài sản để xử lý hình sự, chỉ quy định giá trị tài sản ở những
cấu thành tăng nặng. Những tội phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội khác
nhau mức khởi điểm giá trị tài sản để xử lý hình sự cũng khác nhau. Các dấu
hiệu khác trong mặt khách quan của tội phạm như công cụ, phương tiện, thời
gian, địa điểm, v.v... không phải là dấu hiệu bắt buộc trừ trường hợp luật định
ở những cấu thành tăng nặng hoặc giảm nhẹ.
-

Mặt chủ quan của các tội xâm phạm sở hữu
Đa số các tội phạm xâm phạm sở hữu được thể hiện do lỗi cố ý. Mục

đích và động cơ phạm tội có thể là vụ lợi nhưng không phải là dấu hiệu bắt
buộc trong cấu thành tội phạm. Trong số 13 tội xâm phạm sở hữu thì có đến

11 tội được thực hiện do cố ý đó là các tội: Cướp tài sản; bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản; cưỡng đoạt tài sản; cướp giật tài sản; công nhiên chiếm đoạt tài
sản; trộm cắp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản; chiếm giữ trái phép tài sản; sử dụng trái phép tài sản và hủy hoại
hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Chỉ có hai tội được thực hiện với lỗi vơ ý là
các tội: Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp và vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Mục đích
và động cơ phạm tội có thể là vụ lợi nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc
trong cấu thành tội phạm. Chỉ có hai tội khơng có tính chất vụ lợi đó là: Thiếu
trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản và vô ý gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản; các tội còn lại động cơ, mục đích có tính chất vụ lợi.
- Chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu
Các tội phạm đều do các chủ thể có đủ năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện, đạt độ tuổi theo luật định. Người có năng lực trách nhiệm hình sự
là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức
được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng
điều khiển được hành vi ấy; là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
(Điều 12) và khơng thuộc trường hợp ở trong tình trạng khơng có năng lực
trách nhiệm hình sự (Điều 13).


×