Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Viết về truyện Kiều lớp 10 sách cũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.39 KB, 3 trang )

Nguyễn Du là một nhà thơ nhân đạo tiêu biểu của văn học Việt Nam, là đại thi
hào của dân tộc và là một nhà văn hóa lớn của thế giới. “Truyện Kiều” viết về số phận
nàng Kiều với một trái tim nhân đạo cao cả, được coi là kiệt tác số một của văn học dân
tộc, di sản văn học nhân loại. Đoạn trích “Trao duyên” cho ta thấy rõ tâm trạng của Kiều
khi trao duyên cho em cũng như tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du
đặc biệt là trong 12 câu thơ đầu:
“Cậy em, em có chịu lời,

Ngậm cười chín suối hãy cịn thơm lây.”
Từ cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Quốc
với tài năng nghệ thuật bậc thầy, nhất là với tấm lòng nhân đạo bao la, Nguyễn Du đã
sáng tạo ra một kiệt tác văn chương bất hủ. “Truyện Kiều” được viết bằng chữ Nôm theo
thể lúc bát gồm 3254 câu. Trong “truyện Kiều”, đoạn trích “Trao dun” có vai trị như
một bản lề, khép mở hai phần đời đối lập của Kiều - hạnh phúc và đau khổ. Sau đó Kiều
bắt đầu cuộc đời 15 năm lưu lạc đầy sóng gió.
Mở đầu đoạn thơ là lời thỉnh cầu chân thành tha thiết của Kiều:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Từ ‘cậy” khơng chỉ là tin tưởng mà cịn là trông mong, hi vọng, âm điệu nặng nề gợi tả
sự quằn quại, đau đớn của Kiều. Từ “chịu” không chỉ là nhận lời mà cịn có sắc thái nài
ép, bắt buộc thơng cảm mà chấp nhận, gợi sự thiệt thịi của Thúy Vân. Trong nhóm các
từ biểu đạt sự nhờ vả, Nguyễn Du đã chọn hai từ đắt giá nhất và cũng là chính xác, phù
hợp hồn cảnh nhất “cậy” và “chịu” chứ không phải là “nhờ”, “nhận” hay bất cứ cặp từ
nào khác. Hành động “lạy” – “thưa” tạo một khơng khí trang trọng, thiêng liêng, hé mở
việc nhờ cậy rất hệ trọng và hàm ẩn sự biết ơn đến khắc cốt ghi tâm. Hai chữ này đã
chuyển quan hệ giữa Kiều và Vân từ quan hệ chị - em thành quan hệ giữa kẻ chịu ơn và
người mang ơn. Sự việc bất ngờ, tưởng chừng phi lý mà lại rất hợp lí. Hai câu thơ với
cách thỉnh cầu vừa lạ lùng vừa hợp lí giúp người đọc nhận ra một nàng Kiều sắc sảo,
tinh tế và nhạy cảm, dù trong hồn cảnh tan nát lịng thì nàng vẫn dùng những lời lẽ
đoan trang, tế nhị. Câu thơ cũng là minh chứng cho sự tinh tế trong biệt tài sử dụng ngôn
ngữ bậc thầy và xây dựng nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du.


Sau khi mở lời nhờ cậy em, Kiều lại thật lòng tâm sự, giãi bày hồn cảnh của
mình mong em có thể thấu hiểu và chấp nhận:


“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khơn lẽ hai bề vẹn hai.”
Điệp từ “khi’ được lặp lại ba lần liệt kê các sự kiện cùng những từ chỉ thời gian “ngày”,
“đêm” và hình ảnh ước lệ “quạt ước”, “chén thề”, mỗi một từ là một kỉ niệm của cái
duyên gặp gỡ đính ước thề nguyền. Một mối tình sâu đậm, thiêng liêng đến như thế
nhưng Kiều lại kể ngắn gọn vắn tắt, đầy đủ chỉ trong một câu lục bát. Thành ngữ ‘Đứt
gánh tương tư”, một cách nói giản dị biểu thị sự dở dang, tan vỡ của tình u. Điển tích
“Keo loan chắp mối tơ thừa”, cách nói trang trọng, với Kiều đó là một mối nhân duyên
tốt đẹp nhưng nàng hiểu Thúy Vân, đó chỉ là một đoạn “tơ thừa” khơng trọn vẹn. Kiều
đã ý thức được sâu sắc sự thiệt thòi của em. Biến cố bất ngờ được nàng nhắc tới bằng
hình ảnh ẩn dụ “sóng gió bất kì”. Nàng bị đặt vào lựa chọn khó khăn “Hiếu tình khơn lẽ
hai bề vẹn hai”. Hạnh phúc đang êm đềm, kéo dài nhưng hồn cảnh bắt buộc nàng phải
chọn bảo vệ gia đình. Lời thơ tuy ngắn ngủi mà hàm súc, Kiều nói với Vân tưởng như
chỉ kể lể đơn thuần để Vân hiểu đc tình cảnh của mình nhưng thực ra bên trong đó là
những mất mát, đau đớn của sự chia lìa.
Đã bày tỏ nỗi lịng nhưng Kiều sợ em khơng chấp nhận nên lại dùng lí trí để
thuyết phục em:
“Ngày xn em hãy cịn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mịn,
Ngậm cười chín suối hãy cịn thơm lây.”
“Ngày xn” là hình ảnh ẩn dụ cho tuổi trẻ, cho hạnh phúc, cho sự trong trắng tinh khôi

của người con gái. Kiều khẳng định tuổi trẻ, hạnh phúc của em cũng là ngầm xót xa cho
cái tuổi xuân ngắn ngủi của mình. Kiều viện đến tình chị em máu mủ - một trong những
tình cảm thân thiết, thiêng liêng nhất của con người. Người xưa vẫn nói “Chị ngã em
nâng”, vả lại lời thề giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là “lời nước non” thiêng liêng, sâu
sắc nên chỉ có tình chị em máu mủ mới cân xứng để thay thế. Kiều cũng bày tỏ lòng biết
ơn và niềm vui dẫu có ở nơi chín suối. Hai câu thơ cuối sử dụng những thành ngữ dân
gian “thịt nát xương mịn”, “ngậm cười chín suối” khiến câu thơ nghe như một lời cầu
khẩn, một lời trăng trối. Cách nói đầy thương cảm thống thiết, Kiều thuyết phục em vừa
có lí, vừa có tình. Đó là cái sâu sắc nước đời của Kiều và cũng là của Nguyễn Du –
người có “đơi mắt nhìn xun sáu cõi, tấm lịng nghĩ suốt nghìn đời”.


Giọng thơ nhẹ nhàng, da diết, giàu cảm xúc cùng biện pháp nghệ thuật liệt kê, ẩn
dụ kết hợp của cách nói văn chương q tộc và ngơn ngữ bình dân. Thúy Kiều được xây
dựng nên là một người con hiếu thảo, có đức hi sinh, có lịng vị tha và là một người nặng
tình, nặng nghĩa. Kiều thuyết phục em bằng ngơn ngữ của lí trí, đặt lí trí lên trên tình
cảm, lời lẽ nàng điềm tĩnh, rạch rịi nhưng dường như ẩn chứa cả sự kìm nén tình cảm và
nỗi đau.
Nguyễn Du quả thực là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ với cách lựa chọn
từ ngữ hay và chính xác đến tuyệt đối. Sử dụng tài tình lời thơ lục bát cổ điển mà trong
đó tác giả có sử dụng nhiều tiểu đối, ẩn dụ, phép sóng đơi,…Nhờ đó vốn từ vựng tiếng
Việt cũng được mở rộng hơn nhờ năng lực sáng tạo từ ngữ tuyệt vời của đại thi hào. Vẻ
đẹp ngôn ngữ trong đoạn trích cịn thể hiện ở tính cá thể hóa. Đoạn trích đã thể hiện
được tính hiện thực, giá trị nhân đạo, nói lên được số phận bất hạnh của nàng Kiều về
tình yêu, người con gái khao khát được yêu nhưng lại chấp nhận hi sinh, khơng được
hưởng tình u trọn vẹn.




×