Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM
Trần Huy Cương
Đoàn Văn Phụ
Tóm tắt
Trên cơ sở phân tích các số liệu thống kê về q trình phát triển của ngành thủy sản, kế thừa
các kết quả nghiên cứu đã được cơng bố, bài viết này đã đề cập đến khái niệm PTBV trong
lĩnh vực khai thác hải sản. Từ hiện trạng khai thác hải sản, bài viết đã phân tích, lựa chọn các
tiêu chí quan trọng để đánh giá tác động tích cực và tiêu cực của hoạt động khai thác hải sản
đến phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ mơi trường và nguồn lợi thủy sản, đồng thời đánh giá
hệ thống chính sách liên quan đã được các cấp có thẩm quyền ban hành trong thời gian qua.
Những đánh giá trên quan điểm PTBV sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản
lý có cái nhìn tồn diện hơn trong việc đưa ra các quyết sách phù hợp, để vừa đạt mục tiêu
phát triển đất nước hơm nay, vừa cho sự phát triển của các thế hệ mai sau.Quan điểm PTBV
về lĩnh vực khai thác hải sản muốn thành cơng, cần phải có sự đồng thuận của cả trung
ương, của cả địa phương và đặc biệt là cộng đồng ngư dân ven biển.
Mở đầu
Chính phủ Việt Nam đã cam kết với quốc tế thực hiện đầy đủ Chương trình Nghị sự 21 về
phát triển bền vững (PTBV). Sự cam kết này được thể hiện ở Chỉ thị số 36 ‐ CT/TW ngày 25‐
06‐1998 của Bộ Chính trị về cơng tác bảo vệ mơi trường trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Quan điểm PTBV cũng được khẳng định lại tại Đại hội Đảng lần thứ IX và
trong Chiến lược phát triển kinh tế‐ xã hội năm 2000 ‐ 2010 là: “ Phát triển nhanh, hiệu quả
và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đơi với thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội và bảo vệ
mơi trường”.
Ngành thủy sản là ngành kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn lợi tự nhiên tái tạo được. Việc sử
dụng các nguồn tài ngun một cách bền vững khơng chỉ đảm bảo cho phát triển đất nước
ngày hơm nay mà cịn để cho mn đời con cháu sau này. Trước mắt, PTBV ngành thủy sản
tập trung vào 3 lĩnh vực khai thác hải sản, ni trồng thủy sản và bảo vệ mơi trường, nguồn
lợi thủy sản. Ở mỗi lĩnh vực, PTBV được đánh giá theo các yếu tố: kinh tế ‐ xã hội, bảo vệ
mơi trường nguồn lợi và thực hiện các thể chế chính sách đã được ban hành liên quan đến
hoạt động thủy sản. Bài viết này giới hạn trong đánh giá lĩnh vực khai thác hải sản.
PTBV là khái niệm cịn khá mới mẻ ở Việt Nam nói chung và ngành thủy sản nói riêng.
Những nội dung trình bày sau đây mới chỉ là những nghiên cứu ban đầu.
1. Hiện trạng khai thác
Tàu thuyền gắn máy tăng mạnh, từ 29.584 chiếc (1981) lên 90.880 chiếc (2005), tốc độ tăng
bình qn 4,79%/năm, tương ứng 2.554 chiếc / năm.
Tổng cơng suất tăng rất mạnh, từ 453.871 CV (1981) lên 5.314.447 CV (2005), tốc độ tăng bình
qn 10,80%/năm, tương ứng với mức tăng 202.524 CV/năm. Trong tổng số tàu thuyền, loại
32
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản
tàu có cơng suất < 20CV chiếm 37,83%, loại 20‐49 CV chiếm 33,03 %, loại 50‐89 CV chiếm
13,14 %, loại 90‐ 149 CV chiếm 6,19 %, loại từ 150 CV trở lên chiếm 8,91%. Như vậy, loại tàu
có cơng suất < 90 CV chủ yếu khai thác ở vùng ven bờ chiếm đến 84% tổng số tàu thuyền gắn
máy trong cả nước. Cơng suất bình qn cũng tăng từ 15,34 CV/tàu (1981) lên 58,47 CV/tàu
(2005).
6.000.000
5.000.000
4.000.000
3.000.000
2.000.000
Tỉng c«ng st
100.000
90.000
80.000
70.000
60.000
50.000
40.000
30.000
20.000
10.000
0
1.000.000
Số lượng tàu lắp máy (chic)
05
04
20
03
20
02
20
20
01
00
20
99
20
98
19
97
19
96
19
95
19
94
19
93
19
92
19
19
19
19
91
0
90
Số lợng tà u thuyền
Diễn biến số lợng tàu thuyền và công suất giai đoạn 1990- 2005
Tng cụng sut (cv)
Laongkhaithỏchisntngmnh,t207.587ngi(1990)lờn717.014ngi(2003),tc
tăng bình quân 13,83 %/năm, tương ứng với mức tăng 50.400 người/năm. Số lao động
khai thác xa bờ cũng tăng dần từ 13% trong tổng số lao động khai thác ( 2001), lên14% (2002)
và 15% (2003 )
Theo thống kê, sản lượng khai thác hải sản trong giai đoạn 1981‐ 2005 liên tục tăng, từ
419.470 tấn (1981) lên 1.809.700 tấn (2005), tốc độ tăng bình quân 6,28 %/năm, tương ứng
mức tăng gần 58.000 tấn/năm.
Hiệu suất khai thác (tấn/CV/năm) giảm mạnh, từ 0,92 tấn/CV/ năm (1981) xuống còn 0,34
tấn/CV/năm ( 2005), chứng tỏ nguồn lợi vùng biển gần bờ của nước ta có dấu hiệu giảm sút.
Năng suất lao động giảm mạnh, từ 3,24 tấn/lao động/năm (1990) xuống 1,65 tấn/lao
động/năm (2003). Như vậy, so với năm 1990 năng suất lao động giảm gần một nửa. Điều này
ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập và cuộc sống của cộng đồng ngư dân khai thác hải sản.
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
33
Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản
Biểu đồ năng suất khai thác
3,50
1
0,9
Tấn /CV/năm
0,7
2,50
0,6
2,00
0,5
0,4
1,50
0,3
1,00
0,2
Tấn /ngườ i/năm
3,00
0,8
0,50
0,1
0
0,00
9 0 91 92 9 3 94 95 96 9 7 98 99 0 0 0 1 02 03 0 4 05
19 1 9 19 19 1 9 1 9 19 19 19 19 20 20 2 0 20 20 20
Năng suất (tấn/cv/năm)
Năng suất lao động (tấn/người/năm)
Nhận xét chung:
‐
‐
‐
‐
‐
Theo số liệu thống kê, số lượng tàu thuyền khai thác và tổng cơng suất tăng khá nhanh,
nhưng trong thực tế cịn có một số khá lớn tàu thuyền khai thác xa bờ, sản xuất khơng
hiệu quả nên nằm tại bờ khơng thống kê được cụ thể. Vì vậy số liệu trên cịn thiếu sức
thuyết phục. Chính do số liệu thiếu chính xác nên chỉ tiêu hiệu suất khai thác
(tấn/cv/năm) chưa phản ánh đúng thực tế sản xuất.
Xu hướng số lượng tàu gắn máy khai thác ngày càng giảm do triển khai Quyết định số
10/2006/QĐ‐ TTg, theo đó sẽ ổn định khoảng 50.000 chiếc vào năm 2010. Tốc độ tăng
cơng suất cũng thấp hơn thời gian vừa qua một mặt do giảm số lượng tàu, mặt khác do
chí phí nhiên liệu tăng nên đầu tư để đóng mới các tàu cơng suất lớn sẽ hạn chế.
Xu hướng tăng sản lượng cũng sẽ hạn chế vì theo tính tốn của các nhà khoa học, sản
lượng khai thác đã đến giới hạn cho phép, và cũng phù hợp với tinh thần của Quyết định
số 10 nói trên.
Lao động khai thác sẽ giảm do số lượng tàu thuyền khai thác giảm, một phần do tác
động của Quyết định số 10 sẽ ổn định số lượng lao động vào năm 2010, phần khác do
nghề khai thác nhiều rủi ro nên một số con em ngư dân khơng muốn theo nghề.
Lực lượng sản xuất tăng mạnh gồm số lượng tàu thuyền máy, cơng suất, cơng suất bình
qn/tàu và lực lượng lao động tăng hàng năm nhưng quan hệ sản xuất chưa phù hợp,
khâu tổ chức sản xuất chưa được chú trọng, hiệu quả sản xuất thấp.
2. Đánh giá khai thác hải sản từ góc độ kinh tế
Trong giai đoạn 1981‐2005, cơng suất khai thác tăng bình qn 202.524 CV/năm. Để đầu tư
cho 1 CV cần 4‐5 triệu đồng theo giá hiện hành (tính tốn của Viện Kinh tế và Quy hoạch
thủy sản), như vậy mỗi năm đã đầu tư từ 810‐ 1.012 tỷ đồng để đóng mới các tàu cá. Việc
đầu tư này thể hiện mức độ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ngành thuỷ sản, từng bước
chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu sản phẩm trong khai thác hải sản, vươn ra khai thác
xa bờ nhằm tăng sản lượng khai thác.
34
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản
Sản lượng hải sản tăng đã cung cấp nguồn nguyên liệu ngày càng nhiều cho các cơ sở chế
biến xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu để đầu tư lại cho
ngành và tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước, đồng thời đóng góp thêm lượng đạm động vật
từ thủy sản trong thành phần dinh dưỡng của người dân.
Giá trị sản xuất là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh hoạt động của lĩnh vực khai thác hải
sản. Từ năm 1990 đến năm 2004, trong khi tốc độ tăng sản lượng khai thác bình qn là 5,5‐6
%/năm, thì tốc độ tăng giá trị sản xuất là 7,4 %/năm. Như vậy giá bán sản phẩm (theo giá so
sánh năm 1990) đã có lợi cho người sản xuất, cơ cấu mặt hàng thay đổi theo hướng khai thác
nhiều hơn các lồi hải sản có giá trị kinh tế cao.
Vốn đầu tư là chỉ tiêu quan trọng phản ánh lượng tiền cần bỏ ra để đầu tư cho tàu thuyền và
ngư lưới cụ để có thể tiến hành khai thác được ở một số nghề:
Nghề lưới kéo đơn xa bờ:, loại tàu cơng suất từ 151‐ 300 CV: đầu tư cao nhất là vùng biển
vịnh Bắc Bộ (778 triệu đồng), Tây Nam Bộ ( 396 triệu đồng), Đơng Nam Bộ (321 triệu đồng).
Loại tàu từ 90‐ 150 CV ở vùng biển miền Trung có mức đầu tư 164 triệu đồng.
Nghề kéo đơi xa bờ, loại tàu từ 151‐300 CV: đầu tư cao nhất là vùng biển miền Trung ( 2.228
tỷ đồng), vịnh Bắc Bộ (1,860 tỷ đồng), Đơng Nam Bộ (1,032 tỷ đồng) và thấp nhất là khu vực
Tây Nam Bộ (1,008 tỷ đồng).
Nghề lưới vây, loại tàu từ 151‐300CV: đầu tư cao nhất là vùng biển Đông– Tây Nam Bộ
(809,5 triệu đồng), vịnh Bắc Bộ (788 triệu) và thấp nhất là vùng biển miền Trung (gần 640
triệu đồng).
Nghề lưới rê, loại tàu từ 141‐299 CV: đầu tư ở vùng biển Đơng Nam Bộ (1,115 tỷ đồng) và ở
vùng biển miền Trung (713 triệu đồng).
Nghề câu vàng chỉ phát triển ở các tỉnh Nam Trung Bộ, loại tàu từ 141‐ 299 CV có mức đầu
tư 786 triệu đồng.
Nghề chụp mực chủ yếu có ở các tỉnh phía bắc, loại tàu từ 151‐ 300 CV có mức đầu tư 564
triệu đồng.
Hiệu quả kinh tế của một số nghề khai thác
Chúng tôi chỉ sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận (lợi nhuận/tổng vốn đầu tư) phản ánh việc
đầu tư 1 đồng vốn thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Nghề lưới kéo đơn: loại tàu từ 90‐ 150 CV: tỷ suất lợi nhuận cao nhất là ở vùng biển miền
Trung là 1,13.
Loại tàu từ 151‐ 300 CV: tỷ suất lợi nhuận ở khu vực Tây Nam Bộ (0,25), Đông Nam Bộ
( 0,155 ) và thấp nhất ở vùng biển vịnh Bắc Bộ (0,004 ).
Nghề lưới kéo đôi: loại tàu từ 151‐ 300 CV: tỷ suất lợi nhuận cao nhất là ở khu vực Tây Nam
Bộ (0,28), vùng biển Đông Nam Bộ (0,11), khu vực vịnh Bắc Bộ (0,045). Riêng vùng biển miền
Trung bị lỗ (‐ 0,009 ).
Nghề lưới vây: tỷ suất lợi nhuận của loại tàu từ 151‐300 CV, cao nhất là khu vực biển Đông‐
Tây Nam Bộ (0,35), tiếp đến vịnh Bắc Bộ (0,22) và thấp nhất là khu vực biển miền Trung
(0,19).
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
35
Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản
Nghề lưới rê: tỷ suất lợi nhuận của loại tàu từ 141‐ 299 CV, ở vùng biển miền Trung (0,13 ) và
vùng biển Đông Nam Bộ là (0,10 ).
Nghề câu vàng: tỷ suất lợi nhuận của loại tàu từ 141‐ 299 CV ở vùng biển Nam Trung Bộ là
0,025 .
Nghề chụp mực: tỷ suất lợi nhuận của loại tàu từ 151‐ 300 CV ở vùng biển vịnh Bắc Bộ là
0,13.
3. Đánh giá khai thác hải sản từ góc độ xã hội
Tổ chức sản xuất kém hiệu quả: Việc nghiên cứu, tìm ngư trường mới chưa thực sự có hiệu
quả, khơng chỉ ra được cho ngư dân địa điểm khai thác; Các tổ hợp tác và hợp tác xã sản
xuất cịn ít, hoặc nếu có cũng chỉ tồn tại một cách hình thức; Hệ thống cung ứng và dịch vụ
cho khai thác, nhất là các tàu xa bờ chưa được tổ chức tốt, cịn mang tính tự phát; Cơng nghệ
bảo quản sản phẩm sau thu hoạch cịn sơ sài; Thiếu sự tham gia quản lý của cộng đồng dẫn
đến việc khai thác q mức cho phép ở vùng biển gần bờ.
Việc thu hút được lượng lớn lao động hàng năm (bình qn 50.400 người /năm) đã tạo ra
nhiều việc làm cho người lao động,tăng thu nhập và nâng dần mức sống của ngư dân. Trình
độ lao động khai thác hải sản (trừ khối quốc doanh) cịn thấp: số lao động có trình độ văn
hố cấp 2 chỉ chiếm khoảng 20 %, cịn lại là trình độ cấp 1 và chưa biết chữ. Hầu hết ngư dân
đi biển theo kinh nghiệm cha truyền con nối. Số lao động ngồi quốc doanh (chiếm trên 90 %
tổng số lao động khai thác) đa số là những người nghèo khơng mua sắm được phương tiện
khai thác phải đi làm th (thợ bạn) cho các chủ tàu.
Nghề khai thác là một nghề nặng nhọc và đầy rủi ro, kể cả tính mạng con người và phương
tiện khai thác.
Đời sống của ngư dân cịn thấp (thu nhập của 1 ngư dân năm 2003 chỉ đạt khoảng 2,4 triệu
đồng/ năm), khó có điều kiện chuyển sang các nghề khác, con em họ cũng khó có điều kiện
đi học ở cấp phổ thơng trung học và cao hơn.
Vấn đề cạnh tranh trong khai thác hải sản chưa được giải quyết: Đó là cạnh tranh giữa tàu
cá trong và ngồi nước, cạnh tranh giữa tàu cá của các địa phương khác nhau và cạnh tranh
giữa nghề khai thác xa bờ và ven bờ.
Xây dựng nơng thơn mới ven biển: Hệ thống các cơ sở dịch vụ được mở rộng, hệ thống cơ sở
hạ tầng xã hội như điện, nước, đường giao thơng, trường học, bệnh xá …làm thay đổi bộ mặt
nơng thơn ven biển. Lực lượng lao động khai thác thường xun bám biển để sản xuất cũng
đã góp phần cùng các lực lượng khác giữ gìn an ninh trên biển. Ngư dân ra biển khai thác
góp phần đảm bảo an ninh và quốc phịng.
4. Đánh giá khai thác hải sản từ góc độ mơi trường và nguồn lợi thuỷ sản
Tình trạng đánh bắt có tính tận diệt và huỷ diệt vẫn chưa chấm dứt: Từ năm 1998‐ 2000, các
cơ quan chun ngành đã bắt 843 trường hợp sử dụng chất nổ, 19.658 vụ sử dụng xung điện
và 106 trường hợp dùng hố chất độc khai thác hải sản. Ngồi ra, hiện tượng khai thác rạn
36
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản
san hơ để bán cho các nhà máy sản xuất xi măng và khách du lịch diễn ra khá thường xun
ở khu vực biển miền Trung. Hầu hết các ngư cụ sử dụng để khai thác hải sản đều vi phạm
quy định về kích thước mắt lưới. Do vậy tỷ lệ cá tạp và cá nhỏ trong mẻ lưới cao: chiếm 60‐
80% trong sản lượng của các mẻ lưới kéo tơm; 40 –80% đối với lưới kéo cá; 90% đối với lưới
đáy; 90‐ 93 % đối với lưới te, xiệp. Các ngư cụ bị cấm vì huỷ diệt nhiều cá con như đăng, đáy
cửa sơng, te đẩy vẫn hoạt động.
Lượng rác thải vẫn xả trực tiếp xuống biển: Các đội tàu khai thác hải sản hàng ngày thải
xuống biển những chất rắn như chất thải sinh hoạt, các ngư cụ hỏng, các túi nylon bảo quản
cá…làm cho mơi trường biển bị ơ nhiễm. Trong số các chất thải, nguy hiểm nhất là lưới hỏng
vì sau khi vứt xuống biển sẽ làm cho một số loài hải sản bị đóng lưới và chết. Ngư dân
thường khơng ý thức được hậu quả của những hành động vơ tình này.
Hiện tượng ơ nhiễm dầu tăng: Theo đánh giá sơ bộ có khoảng 61,5‐ 86,5 % tổng lượng dầu rị
rỉ trong q trình khai thác, sửa chữa của các tàu cá chảy ra biển. Hệ số ơ nhiễm dầu ở các
cửa sơng phía bắc đã tăng từ 0,8mg/l/ năm (1995) lên 2,2 mg/l (năm 2001). Tại 4 cảng cá miền
Bắc gồm Cát Bà, Bạch Long Vĩ, Đồ Sơn và Diêm Điền đều có dấu hiệu ơ nhiễm dầu, trong đó
cao nhất là cảng cá Cát Bà (0,28 mg/l) và thấp nhất là Bạch Long Vĩ (0,01 mg/l). Tháng 8/1998,
hàm lượng dầu đo được tại vùng giữa vịnh Bắc Bộ là 0,108 mg/l.
Nguồn lợi hải sản ven bờ có dấu hiệu suy giảm: Hơn 80 % tổng sản lượng khai thác là ở
vùng nước ven bờ, thành phần sản lượng và kích thước khai thác của các lồi có giá trị kinh
tế cao ngày một giảm.
5. Đánh giá các thể chế chính sách liên quan đến khai thác hải sản
Các văn bản pháp luật liên quan đến khai thác thuỷ sản đã được ban hành khá đầy đủ: 12
văn bản từ Luật Thủy sản, các nghị định, thơng tư của Chính phủ và các quyết định của Bộ
Thủy sản...), 4 chính sách (chủ yếu là miễn giảm thuế, cho vay ưu đãi). Các văn bản này đã
đề cập đến tính PTBV, nhưng khi đi vào cuộc sống ít đạt hiệu quả, chưa phát huy được tác
dụng trong thực tế.
Lực lượng giám sát và thực thi các văn bản liên quan đến khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy
sản (chủ yếu là lực lượng thanh tra thủy sản) chưa đủ mạnh, các vụ vi phạm chưa được ngăn
chặn có hiệu quả.
6 . Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển , số lượng tàu thuyền, cơng suất và lực lượng lao
động đều tăng, nhưng quan hệ sản xuất (tổ chức sản xuất) chưa phù hợp đã làm giảm hiệu
quả khai thác.
Khai thác có tính tận diệt và hủy diệt chưa chấm dứt, mắt lưới q nhỏ so với quy định, sử
dụng xung điện, thuốc nổ và hóa chất độc hại chưa được ngăn chặn đã làm cho nguồn lợi
ngày càng suy giảm.
Sản lượng khai thác hải sản ven bờ đã vượt q ngưỡng khai thác cho phép, lượng cá con
trong các mẻ lưới ngày càng tăng.
Đời sống của đại bộ phận ngư dân cịn thấp, khó có điều kiện để đầu tư đóng mới tàu
thuyền khai thác và tạo sinh kế khác.
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
37
Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản
Kiến nghị
Triển khai sớm Quyết định số 10/2006/QĐ_TTg nhằm duy trì và giữ ổn định sản lượng khai
thác từ 1,5 ‐1,8 triệu tấn vào năm 2010 và các năm tiếp theo.
Giảm lượng tàu thuyền khai thác hải sản cịn 50.000 chiếc vào năm 2010 và giữ ổn định ở các
năm tiếp theo.
Khẩn trương nghiên cứu và đề xuất các phương án tổ chức sản xuất khai thác phù hợp.
Cần rà sốt lại các quy hoạch, nhất là quy hoạch khai thác hải sản để giảm sức ép khai thác
vùng ven bờ và vươn ra khai thác xa bờ.
Sớm xây dựng và áp dụng mơ hình quản lý cộng đồng, trong đó có việc giao quản lý vùng
biển cho các cấp chính quyền địa phương.
Cần có sự phối hợp đồng bộ của các ban ngành liên quan tiếp tục nghiên cứu, có thể chỉ ra
ngun nhân và đề xuất các giải pháp hợp lý trong thời gian tới nhằm đảm bảo cho lĩnh vực
khai thác hải sản ngày càng hiệu quả và bền vững.
Tài liệu tham khảo
1. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam 2003: Luật Thủy sản, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
2. Thủ tướng Chính phủ 2005: Quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành
thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020‐ Hà Nội.
3. Bộ Thủy sản: Các văn bản pháp luật liên quan đến khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy
sản.
4. Viện nghiên cứu Hải sản 2005: Dự án ALMRV.
5. Viện nghiên cứu Hải sản 2004: Dự án ven bờ.
6. Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản 2005: Số liệu điều tra.
7. Niên giám thống kê các năm từ 1995‐2004, NXB Thống kê, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Chiêm và nhóm chuyên gia Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản:
Báo cáo chuyên đề 2006: Quản lý khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
8. Đào Mạnh Sơn‐ Viện nghiên cứu Hải sản 2004: Đề tài Cá nổi lớn.
10. Phạm Huy Sơn ‐Viện nghiên cứu Hải sản 2003: Dự án xa bờ.
38
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
Trần Huy Cương, Đoàn Văn Thụ, Đánh giá hiện trạng phát triển bền vững ngành thuỷ sản
REVIEW THE STATUS OF SUSTAINABLE FISHERIES DEVELOPMENT IN VIET NAM
Abstract
This paper will focus on the concept of sustainable development in fishing field based on
statistic data analyzed on the development of fisheries sector and taking over relevant
published results. Considering marine fisheries exploitation status, key criteria for
assessment of the positive and negative impacts of fishing activities on the socio‐
economic development and protection of environment and natural resources as well as
assessment of relevant legal system in the recent time will be analyzed and selected.
Assessment based on sustainable development point of view will help policies makers
having more comprehensive vision in putting forward appropriate policies in order to
achieve development objectives of the country for today as well as development of next
generation. Sustainable development in marine exploitation field is successfully achieved
only if getting consensus between national, provincial and especially coastal community
levels.
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
39