Thẩm Ngọc Diệp, Đánh giá tổng hợp về mối quan hệ tự do hố thương mại - đói nghèo nơng thôn - môi trường trong nghề nuôi tôm tại tỉnh Cà Mau
ĐÁNH GIÁ TỔNG HỢP VỀ MỐI QUAN HỆ
TỰ DO HĨA THƯƠNG MẠI – ĐĨI NGHÈO NƠNG THƠN MƠI TRƯỜNG TRONG NGHỀ NI TƠM TẠI TỈNH CÀ MAU
Thẩm Ngọc Diệp
Tóm tắt
Nuôi tôm gần đây tăng trưởng nhanh tại Việt Nam nhờ định hướng về tự do hóa thương
mại và các chính sách phát triển sản xuất xuất khẩu. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Động vật hoang dã
(WWF) Việt Nam và Ngân hàng Thế giới (WB) phối hợp với các cơ quan trong nước đã tiến
hành đánh giá tác động kinh tế, xã hội và mơi trường của tự do hóa thương mại đối với nghề
ni tơm ở Cà Mau. Từ tỉnh chun trồng lúa, Cà Mau đã chuyển đổi mạnh sang ni tơm
xuất khẩu, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế địa phương. Tuy ni tơm mang lại
nguồn sinh kế hấp dẫn hơn nhưng địi hỏi đầu tư lớn và có rủi ro cao nên người nghèo, với ít
đất và nguồn lực tài chính bị hạn chế hơn trong việc tham gia và hưởng lợi từ ni tơm. Tính
bền vững của nghề nuôi tôm đang bị đe dọa do sự kém ổn định và chưa phù hợp về mặt
sinh thái của một số mơ hình ni tơm. Sự phát triển ni tơm tác động nghiêm trọng đến
mơi trường như sự xâm nhập mặn ở đất trồng lúa chuyển đổi, sự suy giảm rừng ngập mặn,
đa dạng sinh học và chức năng của hệ sinh thái, sự ơ nhiễm mơi trường nước… Ngồi ra cịn
có những vấn đề xã hội đáng cảnh báo như sự gia tăng khoảng cách về thu nhập và sử dụng
đất giữa các nhóm xã hội, sự gia tăng tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo… Kết quả nghiên cứu
cho thấy sự cần thiết phải có mơi trường chính sách khuyến khích ni tơm bền vững, cơ chế
chia sẻ cơng bằng lợi ích của tự do hóa thương mại và khuyến khích ni tơm như một chiến
lược giảm nghèo.
1. Phương pháp luận và cơng cụ nghiên cứu
1.1. Phương pháp luận
Nghiên cứu sử dụng khung khái niệm Đánh giá hệ sinh thái thiên niên kỷ làm định hướng
cho nghiên cứu. Khung khái niệm này được hiểu như sau: tự do hóa thương mại là ngun
nhân gián tiếp dẫn đến việc thay đổi sử dụng đất và nước để tạo ra các hàng hóa và dịch vụ
phục vụ thương mại và sự thịnh vượng của con người và sự thay đổi sử dụng cơng nghệ,
đầu tư, tài ngun đất và nước cho NTTS là các tác nhân trực tiếp làm thay đổi các chức
năng và dịch vụ của các hệ sinh thái cung cấp cho con người.
1.2. Cơng cụ nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích các số liệu thống kê (từ nguồn số liệu thống kê
của tỉnh, Tổng cục Thống kê, khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2002 với số lượng 670
mẫu…), phân tích số liệu thứ cấp (từ các báo cáo của tỉnh, huyện, xã, các cơ quan nghiên
cứu…), đánh giá nhanh nơng thơn có sự tham gia của cộng đồng, điều tra hộ gia đình dựa
trên phiếu điều tra thu thập từ 120 hộ được tiến hành trong q trình khảo sát thực địa.
Khảo sát thực địa được tiến hành tại các địa điểm đại diện cho ba mơ hình ni tơm phổ biến
nhất tại Cà Mau: mơ hình tơm – rừng, lúa – tơm và đa dạng hóa lồi ni (với tơm là chủ yếu
kết hợp ni cua, cá) thuộc ba huyện Cái Nước, Đầm Dơi và Năm Căn.
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
191
Thẩm Ngọc Diệp, Đánh giá tổng hợp về mối quan hệ tự do hố thương mại - đói nghèo nơng thôn - môi trường trong nghề nuôi tôm tại tỉnh Cà Mau
2. Kết quả thảo luận
2.1. Tự do hóa thương mại và ngành thủy sản
Tự do hóa thương mại ở Việt Nam trải qua một q trình phát triển lâu dài, bắt đầu từ cuối
những năm 1980 với những cải cách về cơ chế quản lý kinh tế và được thúc đẩy vào những
năm 1990 tập trung vào việc tự do hóa các chính sách thương mại, khuyến khích đầu tư
nước ngồi và hố trợ xuất khẩu. Ngành thủy sản là một trong những ngành được hưởng lợi
từ q trình tự do hóa thương mại ở Việt Nam, chủ yếu nhờ sự mở rộng thị trường, đặc biệt
với những cơ hội tiếp cận các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Châu Âu, Đơng Nam Á,
v.v... Chính phủ Việt Nam cũng ban hành nhiều chính sách mạnh dạn để khuyến khích
NTTS như một ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu bao gồm các chính sách quan trọng như
Chương trình 773 khởi xướng năm 1994 nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng NTTS, Chương trình
224 về phát triển NTTS giai đoạn 1999‐ 2010, Nghị định 09 của Chính phủ ban hành năm
2000 cho phép chuyển đổi đất nơng nghiệp sản xuất kém hiệu quả sang NTTS v.v... và một
số chính sách gián tiếp hỗ trợ NTTS.
NTTS là một trong những ngành tăng trưởng nhanh nhất tại Việt Nam trong những năm
gần đây, trong đó ni tơm đóng vai trị quan trọng. Trong khoảng thời gian từ năm 2001
đến 2005, diện tích ni tơm trên cả nước tăng từ 210.000 đến 604.480 ha và sản lượng tăng
từ 163.000 đến 310.000 tấn. Giá trị xuất khẩu của sản phẩm tơm khoảng 1,26 tỷ USD, năm
2004, chiếm tới 52,5% sản phẩm thủy sản xuất khẩu. Lao động NTTS tiếp tục gia tăng, năm
2003 có khoảng 2,5 triệu người trong đó vùng đồng bằng sơng Cửu Long, vùng có diện tích
và sản lượng ni tơm nước lợ cao nhất, chiếm 59%.
2.2. Vai trị của sự phát triển NTTS đối với nền kinh tế của tỉnh Cà Mau
Nghiên cứu cho thấy cả sự mở rộng thị trường xuất khẩu cho sản phẩm tơm và sự thay đổi
giá sản phẩm cũng như các chính sách của Chính phủ nhằm thúc đẩy ngành NTTS, kể cả các
chính sách cấp tỉnh chỉ đạo việc sử dụng kênh mương trong khu vực rừng ngập mặn,
chuyển đổi đất trồng lúa sang NTTS và chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2000‐2010 coi
thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn, đã khuyến khích sự phát triển của nghề ni tơm ở Cà
Mau.
Sự phát triển của nghề ni tơm có những ảnh hưởng quan trọng đối với nền kinh tế của
tỉnh. Từ năm 2001 đến 2003, GDP từ sản phẩm thủy sản của tỉnh tăng 2,21 lần, tỷ lệ tăng
trưởng kinh tế hàng năm khá cao, khoảng 11‐12%. Cũng trong thời gian này, tỉnh có 58.000
việc làm mới chủ yếu trong ngành thủy sản. Thu nhập bình qn của các hộ tăng đáng kể
với 57,8% thu nhập từ ni tơm trong tổng thu nhập của các hộ NTTS. Tỷ lệ nghèo đói giảm
từ 15,48% năm 2001 xuống 7,8% năm 2004.
192
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
Thẩm Ngọc Diệp, Đánh giá tổng hợp về mối quan hệ tự do hố thương mại - đói nghèo nơng thôn - môi trường trong nghề nuôi tôm tại tỉnh Cà Mau
500000
450000
400000
350000
300000
250000
200000
150000
100000
50000
0
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
DiƯn tÝch nu«i t«m (ha)
104371 106102 90511 153373 217898 239398 248028 247510
Sản lợng tôm nuôi (tấn)
18932
Kim ngạch XK (1000 USD)
16817 19720 49232 55330 60619 62241 85912
150178 232051 251862 307768 412026 451000
Diện tích ni tơm, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu tơm của Cà Mau năm 1997 – 2004
Tuy nhiên, do ni tơm trở thành ngành kinh tế lớn nhất của tỉnh, lại phụ thuộc nhiều vào
thị trường quốc tế, nền kinh tế của tỉnh và đời sống của rất nhiều người ni tơm và những
người kiếm sống bằng các nghề liên quan đến ni tơm cũng bị ảnh hưởng lớn khi có những
trở ngại về thương mại như trường hợp thất bại trong việc bán tơm sang thị trường Châu Âu
trong năm 2002 và vụ kiện bán phá giá tơm của Hoa Kỳ năm 2004.
2.3. Sự liên quan giữa nghề nuôi tôm và chiến
Chuyển đổi rừng ngập mặn sang nuôi tôm
lược sinh kế của các nhóm xã hội
ở Cà Mau 1983-1998
Nhờ có những tín hiệu thị trường tích cực, nghề
ni tơm trở thành một nguồn sinh kế hấp dẫn
100000
đối với nơng hộ hơn việc canh tác nơng nghiệp
80000
truyền thống hoặc thu hoạch sản phẩm từ rừng.
60000
Tuy
nhiên, để có thể ni tơm, cần phải có
40000
20000
những tài sản nhất định, do vậy chiến lược sinh
0
kế của người dân địa phương trước những tín
1983 1988 1990 1991 1993 1995 1998
hiệu thị trường lại rất khác nhau. Các hộ nơng
dân nghèo có ít đất (diện tích mặt nước) và
nguồn tài chính hạn chế thường khó có thể mở rộng diện tích ni tơm và nâng cao mức độ
thâm canh để có nguồn thu lớn hơn từ ni tơm. Trong khi đó, các nơng hộ khá giả có nguồn
tài chính ổn định vì họ có một diện tích đất đủ lớn và đáp ứng được u cầu về thế chấp của
ngân hàng để đầu tư vào ni tơm ở quy mơ lớn hơn và kỹ thuật tiên tiến hơn, giúp giảm
thiểu được rủi ro do dịch bệnh và có nguồn thu lớn hơn. Những người nghèo khơng có đất
thường khó có thể tiến hành ni tơm mà chỉ có thể kiếm sống bằng những cơng việc lao
động theo mùa vụ hoặc công nhật.
140000
120000
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
193
Thẩm Ngọc Diệp, Đánh giá tổng hợp về mối quan hệ tự do hố thương mại - đói nghèo nơng thôn - môi trường trong nghề nuôi tôm tại tỉnh Cà Mau
2.4. Tính bền vững của nghề ni tơm
Nghề ni tơm khơng chỉ bị rủi ro do sự thay đổi giá cả và các thỏa thuận thương mại mà
cịn do dịch bệnh, thời tiết và các vấn đề mơi trường. Nhìn chung, ni tơm mang lại thành
cơng trong một số vụ đầu nhưng tính bền vững của hoạt động sản xuất này đang bị đe dọa,
đặc biệt khi người ni tơm cố gắng tăng mức độ thâm canh thì khả năng gây suy thối mơi
trường đất và nước cũng như sự lan truyền dịch bệnh cũng tăng lên. Trên tồn tỉnh, 50‐60%
diện tích ni tơm bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh bùng phát năm 2003. Kết quả từ khảo sát hộ
gia đình và đánh giá nhanh nơng thơn trong
Diễn biến diện tích trồng lúa và nuôi tôm
khuôn khổ của nghiên cứu này cũng cho thấy
ở Cà Mau 1997-2004
sự gia tăng của hiện tượng thất thu tơm ở các 300000
mơ hình rừng‐ tơm và lúa‐tơm trong năm 2004 250000
diễn ra trên diện rộng hơn so với các năm 200000
trước.
150000
100000
2.5. Các tác động môi trường do nuôi tôm
50000
0
Sự gia tăng sản lượng tơm ni chủ yếu là do
1997
2000
2001
2002
2003
2004
gia tăng diện tích hơn là sự gia tăng về năng
Diện tích trồng lúa Diện tích ni tơm
suất. Ở Cà Mau, việc chuyển đổi sử dụng đất
đã diễn ra rất mạnh mẽ thậm chí cịn vượt cả
chỉ tiêu đặt ra trong kế hoạch phát triển của tỉnh. Sự mở rộng ni tơm trong rừng ngập mặn
dù ở quy mơ nhỏ hay lớn đều dẫn tới sự mất một diện tích rất lớn rừng ngập mặn. Từ năm
1983 đến năm 1998, việc ni tơm theo kiểu kết hợp rừng‐tơm đã dẫn tới việc chuyển đổi
120.000 ha rừng (trong đó 72.529 ha rừng ngập mặn, 41.204 ha mặt nước ni tơm bao gồm
cả 25.000 ha đất bờ liếp khơng thể trồng rừng được). Ngồi ra, việc chuyển đổi đất trồng lúa
sang ni tơm đã đóng góp cho sự gia tăng diện tích ni tơm từ 153.300 ha lên tới 247.510
ha trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến 2004. Những thay đổi về sử dụng đất, cả theo
quy hoạch lẫn tự phát, đều gây ảnh hưởng lớn tới mơi trường đất, nước và các hệ sinh thái
ven biển.
Việc chuẩn bị các ao ni tơm trong vùng rừng ngập mặn và việc dẫn nước mặn vào ruộng
lúa đã làm đất bị mặn hóa. Điều này dẫn đến nguy cơ khơng thể cải tạo đất trở lại và mất đất
nơng nghiệp. Ở những vùng đất trồng lúa được chuyển đổi thành các vng tơm theo mơ
hình lúa‐ tơm, những năm gần đây lúa thường xun bị mất mùa và người dân dường như
khơng thể trồng cây ăn quả hay các loại cây khác do độ mặn của đất q cao.
Chất lượng nước giảm do chuẩn bị ao ni, nước và chất thải từ ao ni và các nhà máy chế
biến, v.v. .. là điều có thể nhận thấy rõ ràng. Độ đục cao, nồng độ sắt cao và thậm chí cao hơn
tiêu chuẩn mơi trường đến hàng trăm lần, hàm lượng chất rắn lơ lửng cao đặc biệt vào đầu
tháng 9, khi ao tơm được nạo vét để chuẩn bị cho vụ mới và vào cuối tháng 4 khi nước trong
ao được xả ra ngồi để thu hoạch, hàm lượng DO thấp, pH thấp, vv… Một số chỉ số khơng
đạt tiêu chuẩn nước NTTS, điều này đe dọa sự thành cơng của ni tơm trong tương lai.
194
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
Thẩm Ngọc Diệp, Đánh giá tổng hợp về mối quan hệ tự do hố thương mại - đói nghèo nơng thôn - môi trường trong nghề nuôi tôm tại tỉnh Cà Mau
Sự suy giảm đáng kể tính đa dạng sinh học
đã được ghi nhận do sự suy thối và chia cắt
300
sinh cảnh. Nhiều sân chim, một số lồi chim
q hiếm và một số lồi thực vật đã khơng
cịn tồn tại ở địa phương.
200
Các dịch vụ hệ sinh thái bị suy giảm, đặc
biệt là chức năng cung cấp của hệ sinh thái.
100
Qua khảo sát hộ gia đình và đánh giá nhanh
nơng thơn nhận thấy việc khai thác các sản
phẩm tự nhiên như đánh cá và thu hoạch
0
các sản phẩm rừng (củi, mật ong, chim…)
1999
2000
2001
2002
2003
trước đây đã mang lại nguồn sinh kế nhất
định cho người nghèo nhưng hiện nay
nguồn thu từ hoạt động này khơng đáng kể nên chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ các hộ tham gia khai
thác sản phẩm tự nhiên.
2.6. Các tác động xã hội của nghề nuôi tôm
Chất thải từ ni tơm (triệu m3 )
Nghiên cứu đã phát hiện ra sự chênh lệch lớn
về thu nhập giữa các hộ tham gia ni tơm và
25.17%
khơng ni tơm, giữa nhóm hộ nghèo và giàu
(trong ngũ vị phân chi tiêu), giữa hộ khơng có
35.24%
đất và hộ có đất từ tính tốn dựa trên kết quả
khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam 2002.
Nếu nhìn vào thu nhập từ ni tơm nói riêng,
thu nhập của hộ nghèo thấp hơn 3 lần so với
các nhóm hộ khác, theo kết quả đánh giá
17.15%
nhanh nơng thơn ở một số xã.
10.64%
11.80%
Xu hướng tích tụ đất cũng khá rõ trong vịng 5
Khơng có đất
1-5000m2
2
2
năm trở lại đây ở các vùng nuôi tôm ở Cà
5000-10000m
10000-20000m
> 20000m2
Mau, làm gia tăng tỷ lệ hộ khơng có đất. Sự
chênh lệch về sử dụng đất cũng được ghi
Phân loại hộ gia đình theo diện tích
sử dụng đất ở Cà Mau năm 2002
nhận với 35,2% hộ khơng có đất và 25% hộ có
trên 2 ha đất [5]. Điều này dẫn đến sự gia tăng
số lượng người làm th.
Tỷ lệ hộ cận nghèo khá cao so với vùng đồng bằng sông Cửu Long và cả nước. Tỷ lệ tái
nghèo có xu hướng gia tăng ở Cà Mau. Có nhiều lý do nhưng lý do cơ bản là các hộ thốt
nghèo trước đây bị thất bại trong ni tơm và phải bán đất và thay đổi sinh kế.
[5] Diện tích đất trung bình của các hộ có đất ở Cà Mau là 20.000 m2, trong khi con số này ở đồng bằng sơng Cứu
Long là 10.800 m2, và cả nước thấp hơn 8.000 m2
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
195
Thẩm Ngọc Diệp, Đánh giá tổng hợp về mối quan hệ tự do hố thương mại - đói nghèo nơng thôn - môi trường trong nghề nuôi tôm tại tỉnh Cà Mau
Tỷ lệ tái nghèo ở Cà Mau năm 2003
Huyện
U Minh
Thới Bình
Trần Văn Thời
thành phố Cà Mau
Cái Nước
Đầm Dơi
Ngọc Hiển
Tổng
Tỷ lệ hộ nghèo
12,9
10,44
11,02
3,4
13,19
8,16
7,8
9,41
Tỷ lệ hộ tái nghèo/tổng số hộ
nghèo
15,83
10,78
22,49
13,95
16,63
27,11
12,43
17,66
Hiện tượng vay nợ lớn cũng gắn liền với nghề ni tơm vì nó đại diện cho sự chuyển đổi từ
sản xuất nơng nghiệp với đầu tư, lợi nhuận và rủi ro thấp sang NTTS với đầu tư, lợi nhuận
và rủi ro cao. Phần lớn người ni tơm trơng chờ vào vụ thu hoạch để trả nợ nhưng nghề
ni tơm hiện nay gặp nhiều rủi ro dẫn tới tình trạng dư nợ và nợ q hạn lớn.
Ngồi ra, cịn có một số vấn đề xã hội nữa liên quan đến nghề ni tơm như sự thay đổi lối
sống và sự giảm tỷ lệ trẻ em tới trường, v.v…
3. Kết luận
Từ nghiên cứu có thể thấy rõ rằng nghề ni tơm mang lại những lợi ích kinh tế đáng kể cho
địa phương. Tuy nhiên, nghề ni tơm cũng gắn với những rủi ro lớn hơn. Để ni tơm tiếp
tục mang lại những lợi ích, cần phải đảm bảo rằng sự tăng trưởng của nghề ni tơm khơng
hủy hoại mơi trường. Áp dụng phương thức sản xuất phù hợp với điều kiện sinh thái sẽ
đảm bảo tương lai lâu dài cho nghề ni tơm. Những kết quả đạt được từ nghiên cứu cũng
cho thấy cần phải xác định một cơ chế để giải quyết vấn đề chia sẻ cơng bằng lợi ích từ tự do
hóa thương mại và cần khuyến khích ni tơm như một chiến lược cho giảm nghèo. Nhìn
chung, nghiên cứu cũng đã nhấn mạnh sự cần thiết có một mơi trường chính sách cho ni
tơm bền vững cũng như các biện pháp để giải quyết những hạn chế về kỹ thuật trong các mơ
hình ni tơm.
Tài liệu tham khảo
1. Cục Thống kê Cà Mau. Niên giám thống kê tỉnh Cà Mau 2000, 2001, 2002 và 2003
2. Cục Thống kê Cà Mau (1997). Số liệu kinh tế xã hội tỉnh Cà Mau giai đoạn 1991‐1996
3. Đặng Công Bửu và Đỗ Xuân Phương (1999). Trung tâm nghiên cứu rừng ngập mặn
Minh Hải
4. Phạm Đình Đơn (2004). Mơi trường nước trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất lúa‐tơm ở
Cà Mau. Hội thảo khoa học: Sự chuyển đổi hiện trạng sử dụng đất và nước do tác động
của con người vùng bán đảo Cà Mau
5. Sở NN và PTNT Cà Mau. Báo cáo tổng kết kế hoạch nông nghiệp và phát triển nông
thôn năm 2001, 2002, 2003 và 2004.
6. Sở Thủy sản Cà Mau. Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 2001, 2002, 2003 và
2004.
196
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
Thẩm Ngọc Diệp, Đánh giá tổng hợp về mối quan hệ tự do hố thương mại - đói nghèo nơng thôn - môi trường trong nghề nuôi tôm tại tỉnh Cà Mau
Lưu ý: Các số liệu và nơi dung trong bài viết được thu thập và tổng hợp từ các báo cáo hợp
phần và báo cáo tổng hợp của Nghiên cứu về mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại, đói
nghèo và mơi trường do WWF và WB cùng các cơ quan trong nước thực hiện trong khn
khổ Dự án Tự do hóa thương mại, Đói nghèo nơng thơn và Mơi trường do Chính phủ Hà
Lan và Cộng đồng Châu Âu tài trợ.
GENERAL REVIEW OF INTERRELATIONS ON TRADE LIBERALIZATION, POVERTY
AND ENVIRONMENT: A CASE STUDY IN SHRIMP FARMING IN CA MAU PROVINCE
Abstract
Shrimp aquaculture is growing in Viet Nam thanks to trade liberalization and export‐led
growth policies. WWF Viet Nam and the World Bank, with financial support from Dutch
Government and the EU carried out an integrated assessment named Trade
Liberalization, Rural Poverty and the Environment. The project studied social, economic
and environmental impacts of trade liberalization on shrimp aquaculture in Ca Mau. Ca
Mau initially specialized in rice cultivation, but switched massively to shrimp
aquaculture. The move contributed to the countryʹs exports and the rapid economic
growth of the province. Though shrimp aquaculture is an attractive field with large
interest, it requires large investment as well, not to mention high risk due to weather,
disease or trading policy. Hence the poor with little access to land, financial resources or
information found it extremely difficult to engage in the industry or gain any financial
benefit from it. On the other hand, the developing shrimp aquaculture affects the
environment significantly in terms of salinization of the converted rice fields; degradation
of mangrove area, biodiversity and functions of ecosystems; water pollution, etc. Along
with the development of shrimp farming are some alarming social problems such as the
increasing income gap, land use gap between different social groups, the increase of the
near poor ratio, migration. Thus a supportive policy environment is a must for
sustainable shrimp farming, a mechanism to address fair beneficial distribution of trade
liberalization and promotion of shrimp aquaculture as a strategy for poverty alleviation
is also needed.
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Phát triển bền vững ngành thuỷ sản Việt Nam: Các vấn đề và cách tiếp cận"
197