Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

luận văn: ĐÁNH GIÁ VỀ THÀNH PHẦN LOÀI, NĂNG SUẤT, CHẤT LƯỢNG CỦA TẬP ĐOÀN CÂY THỨC ĂN GIA SÚC HUYỆN YÊN SƠN - TỈNH TUYÊN QUANG pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 131 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM






MAI HOÀNG ĐẠT






ĐÁNH GIÁ VỀ THÀNH PHẦN LOÀI, NĂNG SUẤT,
CHẤT LƯỢNG CỦA TẬP ĐOÀN CÂY THỨC ĂN GIA SÚC
HUYỆN YÊN SƠN - TỈNH TUYÊN QUANG







LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC











Thái Nguyên – 2009

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM





MAI HOÀNG ĐẠT






ĐÁNH GIÁ VỀ THÀNH PHẦN LOÀI, NĂNG SUẤT,
CHẤT LƯỢNG CỦA TẬP ĐOÀN CÂY THỨC ĂN GIA SÚC
HUYỆN YÊN SƠN TỈNH TUYÊN QUANG




Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60-42-60




LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC





NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. HOÀNG CHUNG





Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Sản lượng VCK và chất lượng những loài cỏ trên vùng đất thấp
vào 45 ngày cắt.
Bảng 1.2. Sản lượng VCK của cỏ Ghinê tía cắt sau 30 ngày
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hoà thảo (tấn/ha/năm)
Bảng 1.4. Giá trị dinh dưỡng của một số cây thức ăn chăn nuôi được phân
tích, đánh giá tại Việt Nam
Bảng 1.5. Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam

Bảng 1.6. Thành Phần hoá học và giá trị dưỡng của một số loài cỏ chính
Bảng 1.7. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cỏ voi
Bảng 1.8. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cỏ Ghinê
Bảng 1.9. Giá trị dinh dưỡng cỏ Stylo theo tháng tuổi
Bảng 1.10. Giá trị dinh dưỡng của ngô trong các giai đoạn khác nhau.
Bảng1.11. Giá trị dinh dưỡng một số cây thức ăn chăn nuôi cơ bản
Bảng 2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện
Bảng 4.1. Thành phần loài tại các điểm nghiên cứu
Bảng 4.2. Năng suất của các nhóm thực vật tại các điểm nghiên cứu
Bảng 4.3. Chất lượng của cỏ tại các điểm nghiên cứu
Bảng 4.4. Thành phần loài, năng suất, diện tích cỏ trồng trên địa bàn huyện
Bảng 4.5. Thống kê diện tích, năng suất, sản lượng của một số cây trồng khác
có thể làm thức ăn gia súc năm 2008 của toàn huyện.
Bảng 4.6. Chất lượng cỏ Voi và cỏ VA 06 tại một số điểm nghiên cứu
Bảng 4.7. Giá trị dinh dưỡng đất tại các điểm nghiên cứu
Bảng 4.8. Giá trị dinh dưỡng đất tại các điểm nghiên cứu cỏ trồng
Bảng 4.9. Tổng hợp kết quả điều tra mô hình chăn nuôi bò sữa tại Hoàng Khai
Bảng 4.10. Số lượng đàn và biến động số lượng qua các năm tại gia đình ông Hoàn
Bảng 4.11. Đàn trâu, bò của huyện Yên Sơn tính đến 1/10/2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC


Trang
Mở đầu
1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
4
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở

Việt Nam
4
1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới
5
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam
9
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên
14
1.2.1. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới
14
1.2.2. Những nghiên cứu về khu hệ thực vật
15
1.2.3. Những nghiên cứu về dạng sống
17
1.2.4. Những nghiên cứu về năng suất
18
1.2.5. Giá trị chăn thả của tập đoàn cây cỏ trong đồng cỏ Bắc Việt
Nam
20
1.2.6. Vấn đề thoái hoá đồng cỏ do chăn thả
23
1.2.7. Những nghiên cứu về sử dụng đồng cỏ Việt Nam
25
1.3. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ trồng
26
1.3.1. Tình hình phát triển đồng cỏ trên thế giới
26
1.3.2. Tình hình phát triển đồng cỏ ở Việt Nam
26
1.3.3. Đặc điểm thành phần dinh dưỡng của cỏ, cây trồng làm thức

ăn gia súc
28
1.4. Nhận xét chung
38
Chƣơng 2: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN – KINH TẾ XÃ HỘI
VÙNG NGHIÊN CỨU
39
2.1. Điều kiện tự nhiên
39
2.1.1. Vị trí địa lý
39
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2.1.2. Địa hình, địa mạo
39
2.1.3. Khí hậu, thời tiết
40
2.1.4. Thuỷ văn
42
2.2. Các nguồn tài nguyên
43
2.2.1. Tài nguyên đất
43
2.2.2. Các loại tài nguyên khác
45
2.3. Thực trạng môi trường
47
2.4. Phát triển kinh tế nông nghiệp
48
2.5. Đánh giá chung

50
Chƣơng 3: ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
51
3.1. Đối tượng nghiên cứu
51
3.2. Phương pháp nghiên cứu
51
3.2.1. Các phương pháp nghiên cứu ngoài thiên nhiên
51
3.2.2. Các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
54
Chƣơng 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
63
4.1. Tập đoàn cây cỏ tự nhiên là thức ăn gia súc huyện Yên Sơn
– Tuyên Quang
63
4.1.1. Thành phần loài cỏ tự nhiên
63
4.1.2. Năng suất, chất lượng của tập đoàn cây cỏ tự nhiên là
thức ăn gia súc huyện Yên Sơn – Tuyên Quang
71
4.2. Thành phần loài, năng suất cây và cỏ trồng làm thức ăn gia
súc
76
4.2.1. Thành phần loài, năng suất cỏ trồng
76
4.2.2. Thành phần loài, năng suất các loài cây trồng khác được
sử dụng làm thức ăn gia súc
81
4.2.3. Chất lượng của cỏ trồng làm thức ăn gia súc tại các điểm


4.3. Đánh giá chất lượng đất tại các điểm nghiên cứu
89
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4.3.1. Đánh giá chất lượng đất cỏ tự nhiên
89
4.3.2. Đánh giá chất lượng đất trồng cỏ
90
4.4. Đánh giá một số mô hình kinh tế chăn nuôi trong địa bàn
huyện
92
4.4.1. Mô hình trồng cỏ Voi thương phẩm
92
4.4.2. Mô hình chăn nuôi bò sữa tại trại bò Hoàng Khai – Xã
Hoàng Khai – Yên Sơn
93
4.4.3. Mô hình trồng cỏ voi, nuôi bò thịt
97
4.4.4. Mô hình trồng cỏ Voi, VA 06 thương phẩm
98
4.4.5. Mô hình kết hợp trồng cỏ giống và thương phẩm
101
4.4.6. Mô hình trồng cỏ, nuôi bò kết hợp chăn thả
103
4.5. Đề xuất mô hình chăn nuôi
106
4.5.1. Mô hình chăn nuôi hộ gia đình
108
4.5.2. Mô hình chăn nuôi trang trại nhỏ

109
4.5.3. Mô hình trồng cỏ, ngô thương phẩm
110
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
112
1. Kết luận
112
2. Đề nghị
113
TÀI LIỆU THAM KHẢO
114

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
Việt Nam là nước có nền kinh tế nông nghiệp lâu đời với hai ngành
truyền thống là trồng trọt và chăn nuôi. Sản lượng xuất khẩu các mặt hàng
nông sản của Việt Nam luôn đứng hàng đầu thế giới.
Ngành chăn nuôi của Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ với số
lượng và chất lượng cao, đặc biệt là chăn nuôi đại gia súc. Xác định tầm quan
trọng của vấn đề này, Bộ NN&PTNT cùng với Cục chăn nuôi đã tổ chức
nhiều hội nghị về đẩy mạnh sản xuất, chế biến, bảo quản thức ăn thô xanh,
phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ, trong đó nêu rõ:
- Chăn nuôi gia súc ăn cỏ là một trong những thế mạnh của Việt Nam,
góp phần quan trọng để chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, tạo việc
làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống cho nông dân.
- Phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ là một trong những định hướng ưu
tiên của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn từ nay đến 2015 và tầm
nhìn 2020 để đữa chăn nuôi lên quy mô trang trại sản xuất hàng hoá cung cấp

các sản phẩm chăn nuôi giá trị cao và an toàn vệ sinh cho nhu cầu của xã hội
- Muốn phát triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ có hiệu quả kinh tế cao cần
phát huy tiềm năng và thế mạnh các vùng sinh thái của các địa phương trong cả
nước, sử dụng hợp lý nguồn thức ăn thô xanh để phát triển chăn nuôi bền vững.
(Hội nghị đẩy mạnh sản xuất, chế biến, bảo quản thức ăn thô xanh phát
triển chăn nuôi gia súc ăn cỏ tháng 7 năm 2007)
Ngày 26 tháng 6 năm 2008, tại Hội nghị triển khai chiến lược phát triển
chăn nuôi năm 2020 tại các tỉnh phía Bắc do Cục Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp
& PTNT tổ chức, Thủ tướng đã phê duyệt chiến lược, đến năm 2010, tỷ trọng
chăn nuôi sẽ chiếm khoảng 32%, đến 2015 là 38% và đạt trên 42% vào năm
2020. Như vậy, trong giai đoạn 2008-2010, ngành Chăn nuôi phải tăng bình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
quân 8%-9%/năm; giai đoạn 2010-2015 là 6% - 7%/năm và giai đoạn 2015-
2020 là 5% - 6%/năm.
Hình thức chăn thả tự nhiên theo cung cách truyền thống như trước ngày
nay không còn phổ biến. Ngày càng xuất hiện nhiều mô hình kinh tế đạt hiệu
quả cao với cách thức trồng cỏ và nuôi nhốt, mô hình chăn nuôi trang trại
ngày càng được nhân rộng và khuyến khích phát triển. Theo báo cáo của 64
tỉnh, thành phố (vào cuối năm 2006), toàn quốc có 17.721 trang trại chăn nuôi
(trong đó có 6.405 trang trại chăn nuôi bò), trong đó miền Bắc là 6.313 trang
trại , chiếm 35,6%; miền Nam là 11.408 trang trại, chiếm 64,4%. Theo báo
cáo của Tổng cục Thống kê năm 2001 toàn quốc có 1.761 trang trại chăn
nuôi, như vậy, sau 5 năm số lượng trang trại chăn nuôi tăng hơn 15.960 trang
trại, bình quân mỗi năm tăng 3.192 trang trại, tăng 58,7%/năm) [4].
Tuy nhiên, trong hình thức nuôi nhốt đại gia súc, nguồn thức ăn là một
vấn đề thiết yếu, quyết định tính thành hay bại của một mô hình.
Khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam là nơi có ngành chăn nuôi đại gia
súc phát triển mạnh, trong đó có tỉnh Tuyên Quang. Theo số liệu của Cục

Thống kê Tuyên Quang, tính đến thời điểm tháng 4/2009, toàn tỉnh
có đàn trâu 144.693 con, đàn bò 53.043 con. Đã có nhiều dự án lớn về chăn
nuôi đại gia súc được thực hiện tại Tuyên Quang, với trọng điểm là huyện
Yên Sơn. Trong đó có những mô hình thành công bước đầu, có mô hình gặp
phải thất bại. Một trong những nguyên nhân chính là do nguồn thức ăn không
đáp ứng đủ số lượng và chất lượng so với nhu cầu thực tế.
Với truyền thống làm nghề nông nghiệp lâu đời, nên huyện Yên Sơn –
Tuyên Quang vẫn rất trú trọng phát triển kinh tế nông nghiệp, với mục tiêu cụ
thể đến năm 2009: Về trồng trọt: Sản lượng lương thực đạt trên 71.000 tấn,
năng suất lúa bình quân đạt trên 59 tạ/ha (năng suất lúa lai đạt trên 63 tạ/ha)
và trồng 2.468,3 ha ngô, năng suất bình quân đạt 45,9 tạ/ ha. Về chăn nuôi:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Tiếp tục phát triển đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn phấn đấu đạt kế hoạch
năm 2009; đàn trâu 29.691 con; đàn bò 15.440 con; đàn lợn 103.100 con; đàn
gia cầm 1.102.552 con. Tiếp tục thực hiện có hiệu quá chương trình cải tạo,
nâng cao thể trạng, chất lượng đàn bò vàng địa phương bằng phương pháp
truyền giống nhân tạo và phối giống trực tiếp cho bò cái bằng giống bò đực
lai Sind; chọn lọc những trâu đực giống đủ tiêu chuẩn đưa vào quản lý và luân
chuyển giữa các vùng để phục vụ tráng đàn trâu khu vực thượng huyện ATK.
Xây dựng kế hoạch cụ thể để thực hiện các dự án, mô hình chăn nuôi
trên địa bàn huyện, khai thác thế mạnh của vùng quy hoạch tập trung chăn
nuôi, xây dựng các mô hình chăn nuôi và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật cho người chăn nuôi. [42]
Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chăn nuôi và đồng cỏ
thực hiện tại Tuyên Quang, nhưng chưa có một công trình nào đánh giá một
cách đầy đủ về thực trạng tập đoàn cây thức ăn gia súc bao gồm cả cỏ trồng,
cỏ tự nhiên và những cây trồng khác tại huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
Chính vì những lí do trên, chúng tôi chọn thực hiện đề tài:” Đánh giá về

thành phần loài, năng suất, chất lượng của tập đoàn cây thức ăn gia súc
huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình nghiên cứu về cây thức ăn gia súc trên thế giới và ở Việt Nam
Cây thức ăn xanh bao gồm sản phẩm cây mùa vụ còn lại, cây cỏ hoà
thảo, cây đậu, cây thân thảo hay thân gỗ mà có thể được sử dụng là thức ăn
cho gia súc. Những cây này cũng có thể được sử dụng vào những mục đích
khác nhau như bảo vệ đất, chống xói mòn, làm tăng độ màu mỡ của đất và
hạn chế cỏ dại [1].
Hòa thảo là loại thức ăn chủ yếu của trâu bò, vì trong cỏ có đầy đủ chất
dinh dưỡng như bột, đường, đạm, khoáng, vitamin mà các loại gia súc nhai lại
có khả năng sử dụng và hấp thụ tốt. Mặt khác, các chất dinh dưỡng trong cỏ
không những rất cần thiết mà lại có tỉ lệ thích hợp đối với nhu cầu sinh lý của
trâu bò. Ví dụ: nếu tỉ lệ đường - đạm thích hợp nhất cho khẩu phần thức ăn
của bò sữa là 1:1 thì tỉ lệ đó trong cỏ non thay đổi từ 1:1 đến 1.4:1 [2]. Cỏ còn
là loại cây thức ăn dễ sản xuất, có năng suất cao, tương đối ổn định và là
nguồn thức ăn rẻ tiền góp phần làm giảm giá thành sản phẩm chăn nuôi, chưa
kể ưu thế của các giống cỏ lâu năm là thường chỉ cần gieo trồng một lần mà
sử dụng được nhiều năm.
Họ Hoà thảo quan trọng không những vì nó phân bố rộng rãi chiếm tỉ lệ
cao trong số thực vật trên đồng cỏ, có giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng
hyđratcacbon và đặc biệt là các chất đinh dưỡng được bảo tồn, ít hao hụt khi
thu hoạch. Các cây họ đậu tuy chiếm tỉ lệ ít hơn trong số cây cỏ làm thức ăn
gia súc nhưng có vai trò quan trọng vì giá trị dinh dưỡng cao, nhất là lượng
Protein và khoáng thích hợp cho việc chế biến thức ăn tinh bổ sung.
Ở bãi cỏ tự nhiên với điều kiện thổ nhưỡng tốt thì 1kg cỏ tươi cung cấp

được 16g protein tiêu hoá và 32g lipit, 8 kg loại cỏ này tương đương 1 đơn vị
thức ăn [38].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
Theo Meilroy (1972) cần chọn cỏ để làm thức ăn gia súc là khi thu
hoạch dưới dạng này hay dạng khác phải đảm bảo các yêu cầu sau [52]:
- Cỏ phải có khả năng tái sinh mầm chồi còn lại sau mỗi lần thu hoạch.
- Các tế bào sinh trưởng phải tập trung phần lớn ở các gốc là nơi thu
hoạch ít bị ảnh hưởng tới.
- Cần sinh trưởng liên tục với khả năng chịu hạn và chịu lạnh cao.
- Cần có thân ngầm để tạo điều kiện phát triển cả trên và dưới mặt đất.
- Có hệ thống rễ phát triển để cho phép chịu đựng sự thu hoạch và đảm
bảo lấy được dinh dưỡng đã được giải phóng hay phân huỷ từ dưới.
Tuy nhiên, để chọn làm cỏ chăn thả hay thu cắt cần phải dựa vào các nhân
tố sau để xét duyệt và quyết định hướng sử dụng cho từng loại cỏ như: độ ngon
miệng cao, nhất là cỏ thu cắt; phải có giá trị dinh dưỡng cao để đáp ứng nhu cầu
gia súc về các mặt; có khả năng cạnh tranh điều kiện sinh tồn và khả năng được
trồng kết hợp; có khả năng chịu đựng sự dẫm đạp liên tục của gia súc và cỏ thu
cắt phải chịu được sự cắt và nén của máy thu hoạch; cỏ chăn và cỏ cắt đều phải
có năng suất cao để đạm bảo nhu cầu gia súc và giảm diện tích gieo trồng;
1.1.1. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc trên thế giới
1.1.1.1. Tình hình phát triển
Trên thế giới, ở các nước có nền chăn nuôi đại gia súc phát triển, vấn đề
thức ăn rất được quan tâm và đầu tư nghiên cứu như: Úc, Mỹ, Brazin, chăn
nuôi là một bộ phận quan trọng trong hệ thống sản xuất vùng đồi núi ở vùng
Đông Nam Á, nên cũng đã có những quan tâm đầu tư cho lĩnh vực này.
- Ở Inđonexia, trong tình hình thức ăn của trâu, bò chiếm 56% là cỏ tự
nhiên, 21% là rơm, 16% là cây khác và 7% là phụ phẩm thì trong 4 giải pháp
để giải quyết thức ăn là thâm canh, trồng giống cỏ tốt (cỏ Voi và cây Đậu)

[30]. Ngoài ra còn có các chương trình về giống cây thức ăn với CIAT và
CSIRO để tìm ra những giống cây thích hợp với đất có độ PH thấp trong thực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
trạng đa dạng các điều kiện canh tác nông hộ, 36 giống cây thức ăn từ úc
(CSIRO), Columbia (CIAT) và Philipin được đưa vào trồng ở vùng Cast
Kalimantan (Ibrahim 1994): Nhiều giống thể hiện thích hợp ở khu vực trong
đó có 18 giống cây đậu và 9 giống cỏ hoà thảo.
- Ở Thái Lan: Với 70% dân liên quan đến sản phẩm nông nghiệp, sản
phẩm trồng trọt có giá trị thấp, thịt bò và sữa dê chưa cung cấp được theo nhu
cầu tiêu dùng. Năm 1992 sản phẩm sữa nhập vào Thái Lan 114.012 tấn, chi
phí mất 2.222.81 triệu USD (nguồn: tài liệu thống kê nông nghiệp Thái Lan
1992 –1993). Chính phủ Thái Lan có chủ trương tăng thu nhập của người
nông dân bằng giải pháp: Giảm trồng lúa, sắn và đẩy mạnh phát triển chăn
nuôi đặc biệt là gia súc nhai lại. Nông dân nuôi bò trong dự án được cấp giống
cỏ để trồng. Thái Lan đã sản xuất được 418 tấn hạt cỏ (1991) và 1.336 tấn
(1994). Trong điều kiện d iện tích chăn thả hẹp, mùa khô kéo dài, đất dinh
dưỡng kém, chua, mặn, ngập nước, dự án cây nhập nội đã đánh giá: ở Khon
Kean 37 giống cây thức ăn trồng để chọn giống thích hợp với đất cát khô, đã
chọn được mười giống cây cỏ họ Đậu và Hoà thảo thích hợp thuộc chi
Andropogon, Brachiaria, Paspalum, Stylo, Leucoena. Ở Marathiwat với mục
đích chọn cây thức ăn chịu đất chua đã xác định được 8 giống cỏ triển vọng
trong số 26 giống nhập nội (Báo cáo dự án trồng cỏ Thái Lan-1994).
Nghiên cứu 19 giống của chi Brachiria thuộc bốn loài (Brachiaria
decubens, Brachiaria brizontha, Brachiria humidicola, Brachiria fubata) đã
xác định được bảy giống có năng suất hạt và năng suất chất xanh ở mùa khô
khá. Những giống này được tiếp tục khảo nghiệm và nhân ra diện rộng.
Giống Paspalum atratum nhập vào Thái Lan năm 1995 được đánh giá
trong mục tiêu là cây thức ăn cho đất thấp nó đã thể hiện là giống tốt, chịu đất

chua, ngập nước, sản xuất chất xanh và khả năng sản xuất hạt cao (Chaing
sang Phai Keow, 1999)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
- Ở Philippiin, với 90% gia súc nhai lại nuôi tại vườn nhà hoặc ở các
trang trại nhỏ được trồng các giống Stylo 184, Panicum maxinum, Paspalum
atratum đều phát triển tốt cung cấp nguồn thức ăn cho gia súc. Ngoài ra, các
giống cỏ trên còn được trồng theo đường đồng mức ở đất dốc, cải tạo đất
trống đồi núi trọc, trồng dưới tán cây ăn quả. Hằng năm sản xuất được trên 1
tấn hạt cỏ (E.F.Lating, F.Gagunada, 1995).
Một số nước khác như Malaysia, Lào, cũng đã chú trọng đầu tư phát
triển cây thức ăn cho gia súc từ những năm 1985. Cho đến nay một số giống
cỏ Hoà thảo và cỏ họ Đậu được chọn lọc, đang phát huy hiệu quả cao trong
sản xuất. Hằng năm sản xuất được 2 -3 tấn hạt cỏ các loại. Như vậy, phong
trào trồng cây thức ăn xanh để chăn nuôi gia súc đang được nhiều nước quan
tâm. Nó thực sự là động lực thúc đẩy ngành chăn nuôi đại gia súc phát triển.
1.1.1.2. Những kết quả nghiên cứu về nâng cao năng suất cây thức ăn gia
súc trên thế giới
Trên thế giới hiện nay ngoài việc tuyển chọn, lai tạo, di nhập các giống
cỏ tốt từ vùng này sang vùng khác, người ta còn tập trung giải quyết vấn đề
năng suất, chất lượng cỏ.
Tại Thái Lan, sản lượng vật chất khô của các giống cỏ Digitaria
decumbens, Paspalum atratum, Brachiaria mutica và Paspalum plicatulum
khoảng từ 15 – 20, 18 – 25, 9 – 15 và 6 – 10 tấn/ha (bảng 1.1).
B¶ng 1.1: S¶n l-îng VCK vµ chÊt l-îng nh÷ng loµi cá trªn vïng ®Êt
thÊp vµo 45 ngµy c¾t.
Tên khoa học
Tên Việt Nam
Năng suất (tấn/ha)

Prôtêin (%)
Brachiaria mutica
Cỏ lông Para
9 – 15
6 – 10
Digitaria decumbens
Pangola
15 – 20
7 -11
Paspalum atratum
Cỏ đắng
18 – 25
6 -7
Paspalum plicatulum

6 -10
5 - 6
Nguồn: Division of Animal Nutrition, Anon (2000) [46]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Ngoài ra, hai giống cỏ là cỏ đắng (Paspalum atratum) và Paspalum
plicatulum là những loài cho sản lượng hạt giống lớn, có thể tới trên
600kg/ha/ Do vậy, hai giống này đã được phân bố rộng rãi ở Thái Lan.
Tại Trung tâm nghiên cứu nuôi dưỡng động vật tỉnh Petchaburi (Thái
Lan) cỏ Ghinê tía được trồng và cắt 30 ngày một lần, với mật độ trồng là 50x
50cm và được bón phân hỗn hợp (15–15–15) trước khi trồng ở mức 300kg/ha
tương đương 18 tấn phân bón/1ha. Lượng cỏ thu hoạch khoảng 8,9 tấn/ha ở
lứa đầu (70 ngày sau trồng) và khoảng 2,6 tấn đến 7,1 tấn/ha cắt sau 30 ngày
[47]. Sản lượng này được thể hiện ở bẳng 1.2.

B¶ng 1.2. S¶n l-îng VCK cña cá Ghinª tÝa c¾t sau 30 ngµy
Thời gian cắt
Năng suất VCK (tấn/ha)
11/8/2000
8,9
11/9/2000
7,1
11/10/2000
6,9
11/11/2000
6,8
11/12/2000
4,6
11/01/2001
2,6
11/02/2001
4,1
11/03/2001
4,3
11/04/2001
5,8
11/05/2001
3,7
Nguồn: Annual Report on Animal Nutrition Division (2001) [47]
Theo Quilichao (Colombia CIAT, 19780 [48], giống Brachiaria
decumbens có thể đạt năng suất chất khô trên 42.000 kg/ha/năm với thí
nghiệm không bón phân đạm nhưng bón đủ lân và nó là một giống cỏ tốt nhất
trong điều kiện bón lân và đạm thích hợp. Thí nghiệm cắt hàng năm cho năng
suất chất khô đạt 36.700 kg/ha, kết quả này cao hơn so với cỏ Pangola
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
(Digitaria decumbens), Para(Brachiaria mutica) và Ghinê (Panicum
maximum) (Barnard, 1969) [48].
Tại Purertorico, Vieente- Chandler Silva và Figarella (1959) [57] thông
báo năng suất giống Panicum maximum Cv Makueni đạt 26.846 kg VCK/ha
với mức bón 440kg đạm/ha và cứ 40 ngày cắt 1 lần khi trồng cỏ. Middleton
và Micosker, (1975) [54] cho biết vào năm 1973 và 1974 tại miền Nam
Johnstone, vùng Queensland, vẫn giống Panicum maximum Cv Makueni đã
sản xuất được 60.000kg VCK/ha với điềukiện cung cấp 300kg đạm/ha.Tại
Samford, Queesland năng suất hàng năm giống Paspalum rinâttum là
15.000kg VCK/ha (Davies, 1970) [51].
Đối với giống cỏ Setaria Sphacelata các kết quả nghiên cứu của Riveros và
Wilsson (1970) [55] tại Redlanbay, Queensland, thông báo năng suất đạt từ
23.500 – 28.000kg/ha qua mùa sinh trưởng 6 tháng trong điều kiện cỏ được tưới
nước và cung cấp 225 kg đạm/ha/năm trên nền đất đỏ Bazan mầu mỡ
1.1.2. Tình hình nghiên cứu cây thức ăn gia súc ở Việt Nam
1.1.2.1. Tình hình phát triển
Ở Việt Nam, trong thời gian 10 năm trở lại đây, thông qua hoạt động
hợp tác quốc tế và từ nhiều nguồn khác nhau, chúng ta đã nhập trên 100 giống
cây thức ăn hoà thảo và họ đậu có nguồn gốc nhiệt đới (CSIRO, CIAT,
Philippin, Inđônêsia, Thái Lan), nhằm phát triển khả năng sản xuất thức ăn
xanh cho chăn nuôi. Cụ thể như: Năm 1990 chương trình bò thịt VIE86/008
nhập 17 giống cây thức ăn họ đậu, hoà thảo khác nhau từ Autralia.
Năm 1995 chương trình cây thức ăn xanh cho nông hộ nhập vào 70
giống (51 giống đậu và 19 giống hoà thảo) từ CSIRO và CIAT chương trình
cây keo đậu nhập 22 giống keo dậu từ Australia.
Năm 1997 thông qua hoạt động hợp tác quốc tế đã nhập 10 giống Stylo
từ Trung Quốc và Philippin.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


10
Năm 1998 chương trình “Phát triển thịt bò một cách hiệu quả ở Việt
Nam - ACIAR Projeet as 2/97/18”, nhập 55 loại cây thức ăn gồm 15 loại cây
họ đậu và 40 loại cây hoà thảo.
Thông qua hoạt động hợp tác quốc tế với trường Đại học Hohenhein
(Đức), 20 loại Flemingia được nhập vào nước ta. Ngoài ra một số giống cây
thức ăn được nhập thông qua con đường các chuyên gia đi lại công tác.
Một số giống cây cỏ nhập nội đã được đánh giá ban đầu và thu được kết
quả tốt, ứng dụng vào trong sản xuất ở một số vùng.
Tuy nhiên, do không có sự quản lý, chỉ đạo thống nhất cho nên một số
giống sau khi đánh giá đã bị thất lạc, mất đi hoặc chưa có điều kiện thử
nghiệm ở các vùng khác để có cơ sở chắc chắn mở rộng ra sản xuất.
1.1.2.2 Những kết quả nghiên cứu
Kết quả những công trình nghiên cứu về cây thức ăn chăn nuôi cũng
chưa nhiều. Trong những năm gần đây, một số nhà khoa học mới tập trung
vào nghiên cứu một số giống cây thức ăn hoà thảo, họ đậu nhập nội ở một số
vùng như: Lê Hoà Bình và cộng sự (1992), khảo sát năng suất cây thức ăn
mới nhập nội ở một số vùng và ứng dụng trong hộ chăn nuôi đã có kết quả
như trình bày ở bảng 1.3 [6].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Bảng 1.3. Năng suất của các giống cỏ hoà thảo (tấn/ha/năm)
TT
Tên giống
Long Mỹ
Sơn Thành
Bà Vì
Thụy Phƣơng

Xanh
VCK
Xanh
VCK
Xanh
VCK
Xanh
VCK
1
Panicum maximum hamil
56.91
9.73
92.9
17.6
86.3
16.5
90.5
17.3
2
Pancium maximum Liconi
40.57
8.11


99.96
18.9
97.5
17.5
3
Panicum maximum

Trichoglumen
40.89
8.21
62.4
12.6
44
10.1
68.2
15.7
4
Panicum maximum Makueni
59.96
11.92
77.1
15.1
60.8
12.4
108
19.4
5
Pennisetum King grass
119
19.02


170.1
22.3
207
23.6
6

Pennisetum purpureum
99.73
16.95
176
22.9
169.5
20.4
198
21.8
7
Setaria splendida
28.13
5.56


75.1
14.1
80.4
12.6
8
Brachiaria mutica
28.42
7.61
68.9
12.7
42.6
10.2
86.6
15.9
9

Brachiaria decumbens
44.16
8.77
72.6
13.7
56.7
11.2
73.8
11.8
Nguồn: Lê Hoà Bình, Nguyễn Ngọc Hà và CTV,1992
Theo Nguyễn Thiện – Lê Hoà Bình (1994) trong năm 1990 chương trình
VIE/86/008 đã đưa vào nước ta 2 đợt cỏ giống với 25 giống cỏ hoà thảo gồm
11 loài khác nhau các cỏ trên được chuyển tới các vùng để đánh giá tuyển
chọn giống thích hợp. Một số kết quả trồng thử đã được ghi nhận như sau:
Các tác giả Lê Hoà Bình, Nguyễn Ngọc Hà, Hoàng Mạnh Khải và Ngô
Đình Giảng (1994) cho biết:
Tại Long Mỹ giống Makueni và Hamil cho năng suất chất xanh đạt
56,9-59,9 tấn/ha tương ứng với 9,7 – 11,9 tấn VCK.
Tại Sơn Thành: Giống Hamil lại cho năng suất cao hơn cả, đạt 92,9 tấn
chất xanh tương ứng 17,6 tấn VCK/ha/năm.
Như vậy trong cùng một giống cỏ nhưng năng suất có sự khác nhau giữa
các vùng khá lớn do ảnh hưởng của khí hậu, đất đai và các yếu tố khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Phan Thị Phần và CTV (1998) [28]; Vũ Thị Kim Thoa, Khổng Văn
Đĩnh (2001) [34] khi nghiên cứu cỏ Ghinê TD58 ở khu vực miền Nam và
miền Bắc cho kết quả:
- Khu vực phía Bắc trên 2 loại đất của vùng đồng bằng và vùng đất đồi
trong điều kiện trung tính, đất tốt, hoặc đất chua nghèo. Lân và Kali cỏ đều có

tốc độ sinh trưởng khá tốt (1,96 – 2,01 cm/ ngày). Năng suất đạt 90 – 100
tấn/ha/năm, cỏ ghinê có khả năng cho hạt năng suất hạt đạt 450kg/ha, tỷ lệ, sử
dụng của gia súc đối với cỏ cao: Trâu 94%, bò sinh trưởng 100%, bò sữa
77%, ngựa 85%.
- Ở khu vực phía Nam: Địa điểm tại vùng đất xám Bình Dương với liều
lượng phân bón 20 tấn phân chuồng, 80kg K
2
O và 500kg vôi /ha/ năm, lượng
phân đạm bón từ 60 – 90 kg/ha. Năng suất chất xám cỏ TD 58 đạt 64,59 –
83,33 tấn/ha/lứa cắt thích hợp là 40 ngày/lứa/ Tỷ lệ tiêu hoá của dê đối với cỏ
TD 58 cao, khả năng sử dụng của gia súc như: Trâu sữa, bò sữa, bò thịt, dê
sữa đều tiêutốn từ 80 – 100%.
Tại trung tâm nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi Thái
Nguyên, tác giả Nguyễn Văn Quang (2002) khi nghiên cứu so sánh về tốc độ
sinh trưởng, năng suất, chất lượng, tính ngon miệng của 5 giống cỏ nhập nội
cho biết: Cả 5 giống cỏ đều có tốc độ sinh trưởng khá cao từ 1,45 – 1,82
cm/ngày. Trong đó 2 giống cỏ Paspalum astratum và Panicum maximum TD
58 tốc độ sinh trưởng cao nhất (1,82 và 1,70 cm/ngày) [29].
Ở Việt Nam cây trồng làm thức ăn cho gia súc khá phong phú, ngoài cỏ
tự nhiên và cỏ trồng, rất nhiều loài cây trồng, cây mọc hoang dại hoặc các phụ
phẩm nông nghiệp khác cũng được sử dụng làm thức ăn gia súc: Bèo, thân lá
cây ngô, cây mía, rơm… Giá trị dinh dưỡng của một số loài và phụ phẩm
được phân tích ở Việt Nam được thể hiện ở bảng 1.4 [18].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Bảng 1.4. Giá trị dinh dưỡng của một số cây thức ăn chăn nuôi được
phân tích, đánh giá tại Việt Nam
TT
Tên cây trồng

Vật
chất
khô
(%)
Protêin
thô
(%)
Lipid
thô
(%)

thô
(%)
Dẫn suất
không
đạm (%)
Khoáng
tổng số
(%)
Can
xi
(%)
Phốt
pho
(%)
1
Bèo tấm

1.46
0.24

5.4
0.09
1.1
1.1
1.1
2
Bèo hoa dâu
7
1.3
0.3
0.7
3.2
1.5
0.05
0.02
3
Bèo lục bình

0.8
0.3
1.4
5.8
1.4


4
Cây ngô ngậm sữa
cả bắp và lá
21.4
2.5

0.7
4.4
12.9
0.9
0.09
0.07
5
Keo dậu
23.9
6.27
1.19
5.22
9.55
1.67
0.42
0.07
6
Rơm lúa mùa
90.81
5.06
1.67
30.61
37.23
16.24
0.56
0.41
7
Thân lá ngô sau
thu hoạch
73.2

2.5
1.2
9.9
10.11
3.09
0.12
0.06
8
lõi Bắp ngô
67
3.15
0.55
24.12
36.03
3.15
0.36
0.21
9
Ngọn,lá mía tuơi
29.61
0.78
0.54
8.52
18.52
1.25
0.06
0.06
10
Ngọn,lá mía khô
85.49

8.17
1.89
42.89
39.15
7.9
0.45
0.21
11
Rỉ mật mía
78
11
1.43
0
59.5
7.5
0.22
0.02
12
Ngọn, lá sắn đỏ
16.67
4.72
0.67
3.12
6.82
1.34
0.18
0.09
13
Ngọn, lá sắn trắng
15.48

4.77
0.6
3.07
5.35
1.7
0.16
0.09
14
Cây Keo dậu
(Leucaeana
Ieucocephala)
23.9
6.27
1.19
5.22
9.55
1.67
0.42
0.07
15
Cây chè khổng lồ
(Trichantera
Ghigantea)
13.68
2.08
0.6
1.72
6.07
3.21
0.86

0.04
16
Cây đậu Sơn Tây
(Flemingia
macrophilla)
28.5
17.3
1.76
37.9

5.76


17
Cây Mía (ngọn,lá tươi)
29.61
0.78
0.54
8.52
18.52
1.25
0.06
0.05
18
Cây lạc (thân,lá)
25.93
4.05
0.79
6.53
11.7

2.86
0.52
0.15
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
1.2. Tình hình nghiên cứu về đồng cỏ tự nhiên
1.2.1. Vấn đề nguồn gốc và phân bố đồng cỏ trong đai nhiệt đới
Qua quá trình nghiên cứu nguồn gốc đồng cỏ trong đai nhiệt đới có
nhiều tác giả đưa ra các ý kiến khác nhau. Đa số tác giả cho rằng trong điều
kiện khí hậu nhiệt đới không có đồng cỏ tồn tại, các quần xã cỏ ở đây là lại
hình savan.
Tác giả J.Vidal (1958) khi phân chia thực bì ở Lào đã xếp các quần xã
cỏ vào savan: Trong đai dưới 1000m thì có savan cây bụi. Ở độ cao từ (1000-
1800m) với nhiệt độ trung bình là 20
0
C, lượng mưa 2000mm thì có các kiểu
savan khác nhau như: savan bụi, savan gỗ, savan cỏ tranh và thảo nguyên giả.
Karbanop (1962) khi phân loại thực bì Nam Trung Quốc (tỉnh Vân Nam) đã
gọi các quần xã cỏ thứ sinh là savan; ông chia thành savan bụi và savan rừng
(savan điểm cây) chiếm diện tích lớn hơn, nó phân bố ở độ cao từ 250m trở
lên và phát triển trên đất rừng bị chặt phá. Kiểu này được chia thành 5 tầng,
trong đó tầng cỏ là liên tục và khép tán [58].
Nguyễn Đình Ngỗi và Võ Văn Chi (1964) khi nghiên cứu thành phần
loài cỏ vùng Hữu Lũng (Lạng Sơn) đã gọi loại hình này là savan cỏ [26].
Cooper, Taitôn (1968), Dương Hữu Thời (1981) khi nghiên cứu nguồn gốc
thứ sinh của các thảm cỏ trong các vùng nhiệt đới khác nhau đã đi đến kết
luận các quần xã rừng bị chặt hạ [10].
Thái Văn Trừng (1970, 1978) khi giải quyết những khó khăn về việc
phân chia các đơn vị nhỏ trong hệ thống phâm loại thảm thực vật và chia các

kiểu thảm cỏ, ông đã chia rừng nhiệt đới theo điều kiện của nới sống với sự
phân chia ra các kiểu ngoại mạo (kiểu nơi sống, kiểu đất rừng) và gọi các
thảm cỏ là "trảng", trảng cây bụi, trảng cỏ, theo ông “trảng” không phải là
savan cũng không phải đồng cỏ [39], [40].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
Theo M. Numatta Bắc Việt Nam nằm trong vùng khí hậu gió mùa,
đông khô, hè ẩm. Trong điều kiện như vậy các kiểu quần xã cỏ thuộc kiểu
đồng cỏ, savan thuộc kiểu đồng cỏ, savan chỉ gặp ở các vùng có lượng mưa
thấp từ 200 - 800m, mùa khô kéo dài trên tháng 7 tháng [56]. Vì vậy Bắc Việt
Nam không có savan, Dương Hữu Thời (1981) cũng đưa ra kết luận tương tự.
Theo Hoàng Chung (1980) là: Trên thực tế Bắc Việt Nam tồn tại nhiều
kiểu savan, đồng cỏ và dạng trung gian. Trong đai nhiệt đới, trên những vùng
rừng bị phá, khi mà đất còn khá tốt, độ ẩm còn khá cao thì sẽ hình thành ở đây
loại hình đồng cỏ. Trong quá trình tác động tiếp theo của con người sẽ làm
cho tỉ lệ cây hạn sinh tăng lên, cuối cùng chỉ tồn tại ở đồng cỏ các loài cỏ, cây
bụi hạn sinh và cây đoản mệnh, hình thành savan cây bụi. Quá trình này trên
miền Bắc Việt Nam có thể tóm tắt như sau: rừng nguyên sinh → rừng thứ
sinh → đồng cỏ → savan cỏ → savan bụi → thảm cây bụi hạn sinh [10].
1.2.2. Những nghiên cứu về khu hệ thực vật
Nghiên cứu khu hệ thực vật có thể ở từng vùng hay trên từng thảm thực
vật khác nhau. Đối với loại hình đồng cỏ, thảo nguyên, ở Liên Xô (cũ), có
nhiều công trình nghiên cứu về thành phần loài thực vật trong đồng cỏ, thảo
nguyên đã công bố như: Alekhin (1904), Vưsotxki (1915), Graxits (1927),
Sennhicop (1938), Creepva (1978), [10]. Nói chung, theo các tác giá thì ở
mỗi một vùng sinh thái xác định sẽ hình thành các thảm thực vật đặc trưng, cơ
sở để phân biệt sự khác nhau giữa chúng là thành phần loài và dạng sống, đó
là chỉ tiêu quan trọng của các công trình nghiên cứu thực vật.
Ở Việt Nam, những nghiên cứu về khu hệ thực vật trong đồng cỏ, savan

hoặc một số loại hình thuộc thảo khác mới chỉ được tiến hành từ những năm 1950
trở về đây. Các tác giả đã tiến hành nghiên cứu khu hệ thực vật trong đồng cỏ như:
Hoàng Chung (1980) nghiên cứu thành phần loại và dạng sống của
đồng cỏ miền núi Bắc Việt Nam đã được ra bảng phân loại các kiểu đồng cỏ,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
savan, thảo nguyên. Tác giả đã công bố thành phần loại thu được là 233 loại
thuộc 54 họ và 44 chi [10]. Trong cuốn “Đồng cỏ vùng núi Bắc Việt Nam”
năm 2004 là 79 họ, 402 loài [11].
Đặc biệt là Dương Hữu Thời (1981) đã công bố công trình tổng hợp
“Đồng cỏ Bắc Việt Nam”, tác giá đã đề cập khá đầy đủ về loại hình đồng cỏ
của vùng này với sự phân chia 5 vùng đồng cỏ Bắc Việt Nam [36].
Dương Hữu Thời, Nguyễn Ngọc Chất, Hoàng Chung, Phạm Quang
Anh (1969), khi nghiên cứu thành phần loại đồng cỏ Ngân Sơn (Bắc Kạn) đã
gọi đây là đồng cỏ [35].
Khi nghiên cứu về loại hình savan, các tác giả: Nguyễn Đình Ngỗi, Võ
Văn Chi (1964), đã nghiên cứu thành phần loại của thảm thực vật ở Hữu Lũng
(Lạng Sơn) đã gọi loại hình này Savan cỏ [26].
Nguyễn Thế Hưng, Hoàng Chung (1997), nghiên cứu thành phần, dạng
sống của savan Quảng Ninh và các mô hình sử dụng, đã phát hiện được 60 họ
với 131 loại thực vật khác nhau [21].
Lê ngọc Công, Hoàng Chung (1997), nghiên cứu thành phần loại, dạng
sống của savan bụi ở vùng đồi trung du Bắc Thái (cũ) đã phát hiện được 123
loài thuộc 47 họ khác nhau [8]
Phạm Thị Hương Lam, Hoàng Chung (2007), điều tra, đánh giá tập đoàn
cây thức ăn gia súc hiện có ở xã Hà Hiệu huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn đã thống
kê được 72 loài thuộc 40 họ khác nhau dưới tán rừng trồng keo và rừng phục
hồi tự nhiên, 56 loài thuộc 21 họ ở soi bãi hoang hóa [24].
Nguyễn Anh Hùng, Hoàng Chung (2007), điều tra tiềm năng thức

ăn cho chăn nuôi đại gia súc của xã Bắc Sơn - Móng Cái đã thống kê
69 loài thuộc 35 họ có mặt ở thảm cỏ dưới tán rừng trồng và rừng
phục hồi tự nhiên [20].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
1.2.3. Những nghiên cứu về dạng sống
Dạng số là sự biểu hiện về thích nghi với môi trường sống của thực vật
nên đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ rất sớm.
Theo E. warming (1884, 1908, 1909) khi nghiên cứu và phân chia dạng
sống của thực vật thuộc thảo vùng ôn đới đã sử dụng những đặc điểm sinh vật
học như: đặc điểm chồi, những phương thức sinh sản, sự kéo đời sống, sự phát triển
Drude (1913), Raunkiner (1905, 1934) khi phân chia dạng sống đã sử
dụng vị trí của chồi và khả năng tồn tại trong điều kiện bất lợi làm tiêu chuẩn
để phân chia [11].
I.K.Patrotxki (1915) chia thảm thực vật thành 5 nhóm: Thực vật thường
xanh, thực vật rụng lá và điều kiện bất lợi, thực vật có thời kỳ sinh trưởng và
phát triển ngắn, thực vật có thời kỳ sinh trưởng và phát triển lâu năm.
Đối với cây thuộc thảo có các bảng phân loại dạng sống đã được làm
do Cannon (1911), Markie (1917),… Ở Liên Xô (cũ) có G.N.Vưsoxki (1915),
Kadakêvich (1922), Laprenko (1935) Đặc biệt, trong phân loại dạng sống
thực vật của T.Isatrenko (1954), I.V.Brixôva (1960, 1961), đã sử dụng
những đặc điểm cấu trúc cả phần dưới đất của thực vật. Dôdulin (1969),
Xêbêbriacôp (1954, 1955, 1962, 1964) cũng đã đưa ra một số hệ thống dạng
sống tương tự. Như hệ thống dạng sống hoàn mỹ hơn cả cho hoà thảo có lẽ là
của Golubep (1957, 1962, 1968) [11].
Những công trình nghiên cứu về dạng sống thực vật thuộc thảo ở Việt
Nam cũng như ở Đông Dương hình như chưa có. Doãn Ngọc Chất (1969) đã
nghiên cứu dạng sống của một số loài thuộc họ hoà thảo. Hoàng Chung

(2004) dựa trên những nguyên tắc phân loại của Golubep (1962, 1968), thống
kê thành phần dạng sống cho loại hình đồng cỏ Bắc Việt Nam đã đưa ra 18
kiểu dạng sống cơ bản và bảng phân loại nó được trình bày ở bảng 1.5 [11].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
1.2.4. Những nghiên cứu về năng suất
Nghiên cứu về năng suất sinh vật học của các thảm thực vật đã bắt đầu từ
thế kỷ XIX, ban đầu chủ yếu là những công trình nghiên cứu có tính chất thống
kê trong kinh tế nông nghiệp. Sang đầu thế kỷ XX, Những công trình nghiên cứu
về năng suất sinh vật học của các quần xã cỏ tự nhiên và cỏ cho chăn nuôi đã
được nghiên cứu nhiều hơn, với những thí nghiệm trên các kiểu đất khác nhau.
Cuối thế kỷ XX, những công trình nghiên cứu tập chung chủ yếu và
nghiên cứu vào phần trên mặt đất, hoặc là số lượng các chất hữu cơ ở trạng
thái sống và chết, sự tăng trưởng của nó, phần chết hàng năm, thảm mục
Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ miền núi Bắc Việt Nam được
thống kê ở bảng 1.5.
Bảng 1.5. Những dạng sống chính của thực vật đồng cỏ vùng núi Bắc
Việt Nam
(Không tính các loại cây trồng)
Stt
Kiểu dạng sống
% loài trong
tổng số loài
chung của vùng
Đông Bắc
% loài trong
tổng số loài
chung của

vùng Tây Bắc
1
Cây gỗ
8.8
6.2
2
Cây bụi
9.3
9.3
3
Cây bụi thân bò
2.3
3.1
4
Cây bụi nhỏ
10.6
9.3
5
Cây bụi nhỏ thân bò
0.9
2
6
Cây nửa bụi
4.6
4.2
7
Cây thảo lâu năm có rễ cái
4.2
4.2
8

Cây có chồi mọc từ rễ
0.9
1
9
Cây thảo lâu năm có hệ rễ cái, có thân rễ ngắn
0.9
0
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
10
Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm
14.4
14.7
11
Cây thảo có hệ rễ chùm, sống lâu năm có thân bò
2.3
4.2
12
Cây thảo mọc thành búi thưa, sống lâu năm
15.7
12.4
13
Cây thảo mọc thành búi dày, sống lâu năm
4.2
7.3
14
Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài
4.2
5.2

15
Cây thảo sống lâu năm có thân rễ dài và thân bò
5.1
7.3
16
Cây thảo một năm có rễ cái
6.5
5.2
17
Cây thảo một năm có hệ rễ cái, có thân bò
0.4
0
18
Cây thảo một năm có hệ rễ chùm
4.2
2
Tổng số


- Cây thuộc thảo, sống nhiều năm
51.9
56.3
- Cây thuộc thảo, sống một năm
11
7.2
- Cây có hệ rễ cái
49.1
44.5

Sau đó nhiều công trình nghiên cứu phần trên mặt đất được tiến hành

cùng với phần dưới đất trong sự phụ thuộc từ những điều kiện tạo thành nó
của các kiểu thực bì khác nhau: Balôchina (1950), Gorskova (1954), Salưt
(1950), Andreev, Lapverenko và Leonchiev (1955); Badilevich (1958)
Xưrokomskaia và Ponhiatopkaia (1960), Igơnachenkôn (1965), Xemen-Nova-
Chiansianskaia (1966), Alekxenko (1967), Hoàng Chung (1974), Alekxeev
(1975), Uchekhi (1977), Nghiên cứu riêng phần trên mặt đất có các tác giả:
Kalininna (1954); Xemennôva-Chian-Sanskia (1966)
Nghiên cứu riêng phần dưới mặt đất có các tác giả: Baranops - Kaia (1954);
Krưm (1960); Xemennop (1966); Kharitonôp (1967); Gawood (1968);
IgonachenKo, Kirillova và PonhiatopsKaia (1968); Hoàng Chung (1980).
Ivannop (1941), Odum (1968) và Rodin (1968); Mantranop và Siminop
(1967) có những công trình nghiên cứu quá trình tích luỹ chất hữu cơ, cũng

×