Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Cánh diều và trò chơi thả diều pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.66 KB, 15 trang )

Cánh diều và trò chơi thả diều





diều là một trò chơi thú vị, hấp dẫn, có từ lâu đời. Những năm gần đây, diều
được phục hồi và cải tiến, xuất hiện nhiều kiểu, nhiều vẻ, rất đẹp mắt. Nhiều địa
phương tổ chức thi diều, triển lãm diều, thu hút đông người tham dự. Nhưng, diều
không chỉ là một trò chơi mà còn là một phong tục cổ truyền có nhiều ý nghĩa sâu xa.

Tục thả diều phổ biến ở nhiều nước Đông Nam Á từ Thái Lan, Campuchia,
Lào, Nam Trung Quốc (vốn thuộc cơ tầng văn hóa Đông - Nam Á), Việt Nam cho đến
các nước Đông - Nam Á hải đảo. Một tài liệu có niên đại 972 ghi rằng các vật thờ của
người Khmer cổ gồm có chén, **a, nhạc cụ, lao và năm chiếu diều. Cũng ở
Campuchia, xưa kia, khi có gió mùa đông Bắc, các nhà sư thường thả một hoặc hai
chiếu diều bay lơ lửng trên các chùa. Diều có gắn công cụ phát ra âm thanh. Việc thả
diều có ý nghĩa cầu sự bình yên tốt lành. Hễ có chiếc diều bị rơi, nhà chùa phải làm lễ
xua đuổi tà ma và cầu an.
Diều còn là một phong tục của vua chúa. Ban đêm vào kỳ sáng trăng, vua và
quần thần thả diều coi như là những vật dâng các đấng thần linh. Họ quan niệm tục thả
diều là lễ cúng chiếc răng của Phật được cất giữ ở vương quốc của rắn thần Naga. Ở
Thái Lan, đôi khi người ta gắn vào diều một ngọn đèn tượng trưng cho ngôi sao và
cũng có người đã ghép vào diều một mẩu vàng, để giữ cho dây diều khỏi đứt và phải
kéo nó về nếu nó rơi xa. Vì vậy, vào dịp triều đình thả diều, nhà vua phải ở ngoài trời
suốt hai tháng và các quan phải theo dõi cẩn thận để cùng vua giữ cho diều khỏi đứt
dây.
Ở Thái Lan còn có tục đấu diều. Nhà vua trực tiếp tham dự cuộc đấu này.
Người ta bố trí làm hai phe, diều đực gọi là Kula, diều cái là Pắc kao. Diều đực có
nhiệm vụ làm đứt dây diều của đối phương. Diều cái có hình dáng nhỏ và thon theo
hình thoi, có đính những dải dài để quấn quanh dây của diều đực, nhằm bảo vệ mình,


hạn chế sức công phá của diều đực.
Diều giấy là biểu trưng của loài chim ăn thịt. Nhiều tộc có người có tên diều
giấy trùng với tên loại chim nói trên. ở Campuchia, diều giấy và chim diều đều là
Khlen, người Chăm gọi là Kalan, người Mơnông gọi là Khang, người ÊĐê gọi là
Rlang Cụ thể ở Việt Nam diều giấy và chim diều vừa là đồng âm vừa là cùng nguồn
gốc. ở Trung Quốc cũng vậy.
Chim diều là loại bay lên trời, đối lập với loài dưới nước. Diều ở nơi cao ráo,
đối lập với nơi ẩm thấp. Con diều được coi là sứ giả đem lại sự khô ráo. Tục thả diều
chủ yếu được thực hiện sau mùa mưa, cầu mong tạnh ráo, cầu gió mát trăng thanh.
Lúc bấy giờ nông nghiệp cần khô ráo để thu hái, phơi phóng.

Chùm diều mà hiện thân nhân tạo của nó là diều giấy được đặt trong sự đối lập
Chim - Cá, Trời - Nước, Khô - Ẩm là những đặc điểm trong hệ thống đặc điểm của
nền văn minh các tộc người Đông - Nam Á. Các đặc điểm gồm:
- Các tổ chức xã hội thành hai bộ phận ngoại hôn với những vật tổ đối lập
nhau, một bên là các động vật sống nơi khô cạn, bên kia là là động sống nơi ẩm ướt
hoặc sống ở nước. Mở đầu lịch sử của Campuchia là triều đại Mặt trăng của Rắn thần
Naga, đối với bên kia là triều đại Mặt trời của Chim thần Garuđa.
- Hát giao duyên nam nữ và việc tính giao theo mùa liên quan đến truyền
thuyết về ngôi tháp và vì sao buổi sáng. Truyền thuyết này trong mối liên quan đến hát
giao duyên lưu truyền rộng rãi ở Campuchia, Thái từ Nam Trung Quốc cho đến
Giava.
- Các huyền thoại đặt nền móng trên sự hướng lập Khô-ẩm, Chim-Rắn. ở người
Mường trong lễ diễn xướng mo có một vật thiêng trên đó vẽ hai vật biểu tượng chim
và cá Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ của người Việt ghi dấu quan niệm
lưỡng lập giữa hai bộ tộc thủy tổ thờ hai vật tổ đối lập nhau. Rồng-Rắc (thuộc vế
Nam) và Chim Âu (thuộc vế nữ)
Có rất nhiều dân tộc Đông-Nam Á có huyền thoại tương tự như trên.
- Hội đua thuyền mang tính chất lưỡng lập gồm một bên là thuyền chim có đầu
chim và đuôi chim, đối với bên kia là thuyền có có đầu cá, đuôi cá.

- Và đặc biệt là tục thả diều với quan niệm lưỡng lập Chim-Rắn, Khô-Ẩm, cầu
cho ưu thế của Chim và của Khô ráo (đã trình bày ở trên).
Quan niệm lưỡng lập được rút ra từ toàn bộ hoạt động thực tiễn của đời sống
kinh tế - xã hội, với nền văn minh sông nước, việc trồng cấy lúa nước và trở thành tư
tưởng quán xuyến của huyền thoại, lễ tiết và cấu trúc xã hội ở Đông-Nam Á. Có thể
nói lưỡng lập là một trong những nền tảng tư duy của văn minh Đông-Nam Á. Người
Trung Quốc đã tổng kết lý thuyết này dưới dạng triết học về sự đối lập và hòa hợp âm
dương. Nó được trình bày một cách chắc chắn lần đầu tiên trong Hy Tử, có thể được
hoàn thành vào cuối thế kỷ 5, trước Công nguyên. Lý thuyết lưỡng lập của nền văn
minh Đông-Nam Á có lẽ hình thành từ thời tiền sử xa xưa.
Khuếch trương việc chơi diều là một việc làm đáng hoan nghênh. Nhưng bên
cạnh việc coi nó như một trò chơi, cần phải tìm hiểu ở đây chiều sâu tâm nguyện của
nhân dân, ý nghĩa triết học chứa đựng trong đó, cơ sở tư tưởng của nền văn minh Việt
Nam (trong Đông-Nam Á). Như vậy chúng ta thấy rõ hơn bản sắc văn hóa dân tộc qua
phong tục truyền thống này.

Văn hóa Huế là tổng thể phức hợp; độc đáo về bản sắc, phong phú về hình thái.
Dù là mãnh đất nghèo nằm giữa eo miền Trung khó khổ, theo một bài hát của Phạm
Đình Chương thì "mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu ăn", thế nhưng Huế là địa phương
lừng lẫy văn hóa ăn. Song song , Huế cũng rất nổi tiếng văn hóa chơi. Chơi đá, chơi
cây, chơi hoa, chơi chim, chơi cá, chơi sách, chơi tem, chơi đồ cổ, tiền cổ. Chơi đàn
địch múa hát tình tang Lắm trò lắm cuộc rất ư cầu kỳ, công phu, đài các, tao nhã,
thanh lịch, tinh tế và tài tình- đúng kiểu mà Nguyễn Công Trứ từng vạch:
Chơi cho lịch mới là chơi
Chơi cho đài các cho người biết tay
Tài tình dễ mấy xưa nay!
Phần đông dân Huế thường tự hào rằng mình thuộc nòi ham chơi. Hoàng Phủ
Ngọc Tường còn luận khá chịu chơi rằng trong mỗi người Huế nói riêng, người Việt
nói chung, có một người- làm, một người- nghĩ và thêm một người- ham chơi. Nhà
văn viết: "Ham chơi, đâu phải do lười biếng. Ham chơi là cách sống đạt đạo của con

người đã nhìn thấy từ lâu bản chất phù hư của thế giới, hiểu rõ rằng những giá trị vật
chất có khả năng đến đâu trong cuộc mưu cầu hạnh phúc của con người".
Không ít trò chơi được người sông Hương núi Ngự nâng lên hàng nghệ thuật,
thậm chí lên hàng đạo- cứ như Hoa đạo, Trà đạo hoặc Kiếm đạo của Nhật Bản.
Cùng với thả thơ, nam phụ lão ấu xứ Thần Kinh còn đam mê trò thoạt ngỡ chỉ dành
cho con trẻ: thả diều. (Xin giới thiệu bài phóng sự : Thú chơi diều của tác giả
Phanxipăng)
Thuở bé, tôi đã bao lần cùng lũ bạn học trò tí toáy gấp giấy, dán nan tre, buộc
dây lèo, tự tạo những cánh diều đơn giản rồi tung tăng chạy thả lên trời. Lại còn gắn
vào diều chiếc sáo trúc để khoái chá lắng nghe âm thanh vi vu rất đỗi bình yên. Lần
nọ, tôi vô cùng sửng sốt khi theo thân phụ ra công viên bên bờ sông Hương xem bằng
hữu của ông thả diều. Ô! hóa ra đâu chỉ trẻ nít như tôi mê diều, cả người lớn cũng
khoái tít! Mà diều của họ mới to, mới đẹp làm sao! Tôi ngẩn ngơ trước những con
diều bướm màu sắc rực rỡ, bề ngang rộng cả mét, lần lượt rẽ gió bay lên, tạo nên đàn
bướm lượn lờ trong nắng.
Khai mạc, cánh diều mang hình bồ câu trắng- tượng trưng cho ước nguyện hòa
bình- cất cánh. Thoắt cái, hàng đàn bồ câu, bướm bướm muôn màu hân hoan múa
lượn rợp trời. Một hồi trống vang rền. Hàng ngàn khán giả vỗ tay reo hò chào đón sự
xuất hiện của một con rồng khổng lồ giữa không trung. Cùng với hình tượng rồng
thiêng là hình tượng tiên nữ tuyệt sắc mềm dẻo tung bao cánh hoa trong vũ khúc nghê
thường. Tiết mục mở màn đã nhắc nhở về truyền thuyết Rồng Tiên đầy tự hào của dân
tộc Việt.
Nhiều huyền thoại, truyền thuyết và cổ tích Việt Nam đã được thể hiện khéo
léo, sinh động, thông qua cánh diều. Nào trận thư hùng ác liệt giữa Sơn Tinh- Thủy
Tinh, phản ánh quá trình phòng tránh lũ lụt hết sức cam go của dân ta từ thời lập quốc
tới mãi hôm nay. Nào Thạch Sanh dũng cảm giết chằn tinh, rồi mưu trí hạ đại bàng,
cứu công chúa. Hay như tiết mục Tấm Cám được dàn dựng thật kỳ công với tinh thần
sáng tạo nghệ thuật rất đáng nể. Trong sách Phong vị xứ Huế, tác giả Trần Đức Anh
Sơn nêu nhận xét: "Có thể nói, với cánh diều Huế, một loại hình nghệ thuật mới được
khai sinh- nghệ thuật múa rối trên không. Việt Nam và thế giới đã có rối cạn, rối

nước, nhưng "rối trời" thì chỉ Huế mới có".
Được biết hồi đầu thế kỷ XX, dưới triều Bảo Đại, nhiều cuộc thi thả diều
thường được Phủ Doãn Thừa Thiên tổ chức long trọng trong các dịp lễ hàng năm.
Làng diều Huế còn nhắc tên những "tài tử" từng cống hiến những phát minh, cải tiến
nhằm nâng cao nghệ thuật chơi diều, trong đó có cả hoàng thân quốc thích: Nguyễn
Văn Bân, Đoàn Chước, Trần Văn Đông, Ưng Sừng, Ưng Hạng Nối gót cha ông, một
số nghệ nhân mê chơi diều ở Huế đã lập nên hội Cầu Phong (mong gió). Năm 1973,
hội đổi tên là Thừa Phong (cưỡi gió). Tròn một thập niên sau, năm 1983, trên cơ sở
hội Thừa Phong, Câu lạc bộ thả diều Huế hình thành và từ bấy đến nay đã liên tục gặt
hái nhiều kết quả rất đáng phấn khởi.
Tháng 9-1994, lần đầu tiên tham dự Hội diều Quốc tế tổ chức tại Dieppe
(Pháp), Câu lạc bộ diều Huế đã cử hai nghệ nhân lão thành là anh em Nguyễn Văn Ry
(72 tuổi) và Nguyễn Văn Bê (68 tuổi) xuất dương. Kết quả: đông đảo đại biểu của 27
quốc gia tham dự đã "mê như điếu đổ" lúc thưởng thức các tiết mục biểu diễn đặc sắc
bởi những cánh diều Huế đẹp tựa cổ tích được tạo tác chủ yếu bằng giấy và tre. Tiếp
đó, mùa hè năm 1995, Hiệp hội Codev Việt- Pháp lại mời Câu lạc bộ này sang thành
phố Dordogne để thả diều truyền thống cố đô, đồng thời dạy kỹ thuật chơi diều Việt
Nam cho bạn bè ngoại quốc
Điều mà người dân sông Hương núi Ngự thực sự mong muốn là làm thế nào
bầu trời quê hương luôn phấp phới những cánh diều ngày càng đạt trình độ kỹ thuật và
mỹ thuật xuất sắc hơn. Ngắm nghía, nghe ngóng diều vi vu trong gió lộng, nghệ nhân
khoái hoạt đã đành, mà khán thính giả cũng thích thú trong cảm giác "thả hồn tít tận
mây xanh". Đó là khung cảnh rất đỗi hòa bình. Và cũng là hình ảnh thể hiện khát vọng
tự do.

Diều bướm
- Chẳng rõ cánh diều Huế ra đời từ năm nào, chỉ biết rằng thuở ban đầu, đó là
một trò chơi của trẻ em. Sau đó, người lớn cũng nhập cuộc vào thú vui này. Rồi từ
những miền quê đầy nắng gió, cánh diều đã bay vào chốn cung đình và trở thành một
trò chơi sang trọng, đầy hứng thú, được giới quý tộc, quan lại nhà Nguyễn ưa chuộng

và lan rộng dần trong mọi tầng lớp nhân dân sống ở chốn kinh kỳ.
Diều Huế là chiếc gạch nối giữa tuổi thơ với sự trưởng thành; giữa dân dã với
cung đình, giữa mặt đất với khoảng trời xanh mênh mông và cuối cùng là giữa những
thực tại bé nhỏ, tầm thường với những ước mơ diệu vợi, bao la. Thuở ấy, trong các
dịp hội hè, người ta thường thả diều để tôn thêm sự long trọng và phong phú của lễ
hội, đồng thời để giải trí và thưởng thức thú vui bay bổng và trí tuệ này.
Thoạt tiên cánh diều xuất hiện trong tay trẻ mục đồng và đám học trò đi guốc
mộc với những con diều cung, diều dơi, hay diều phên rất đơn giản. Lũ nhỏ dùng giấy
học trò hay giấy vàng mã gấp lại hoặc dán lên những khung tre hình cánh cung, đính
cho chúng vài cái đuôi ngo ngoe, lòng thòng, rồi tung lên trời cao với bao nỗi ước mơ
và niềm đam mê thơ dại của chúng. Từ khi được người lớn, đặc biệt là lớp người
quyền quý trong hoàng cung quan tâm, diều Huế đã có được những bước phát triển
mới về hình dáng, chất liệu, dây nhợ, màu sắc đến kỹ thuật chế tạo và nghệ thuật biểu
diễn. Trong tay tầng lớp quý tộc, những cánh diều không còn là đồ chơi của trẻ con
mà trở thành những tác phẩm hội hoạ, điêu khắc thẩm mỹ. Có thể nói, với cánh diều
Huế, một loại hình nghệ thuật mới được khai sinh - nghệ thuật múa rối trên không.
Việt Nam và thế giới đã có rối cạn, rối nước, nhưng "rối trời" thì chỉ Huế mới có.
Những ai cho nhận xét này là phóng đại, xin hãy đến Huế chiêm ngưỡng một buổi
biểu diễn (chứ không phải thả) diều trên sân Ngọ Môn. Lúc ấy ắt rõ thực hư.
Dưới thời Bảo Ðại, Phủ Doãn Thừa Thiên thường tỏ chức những cuộc thi diều
trong những cuộc lễ hàng năm. Bấy giờ trong làng diều đã xuất hiện những tên tuổi
nổi tiếng: Nguyễn Văn Bân, Ðoàn Chước, Trần Văn Ðông, Ưng Sừng, Ông Hạng
Họ là những người đã tìm tòi, sáng chế ra những chất liệu mới để cải tiến con diều và
nâng cao nghệ thuật thả diều. Các nghệ nhân này đã tham khảo các loại diều sáo của
miền Bắc để chế ra những ống sáo cho diều Huế. Họ đã dùng vải bện dây thả diều,
thay cho loại dây tre xoắn lại mà trước đây vẫn dùng. Diều thuở ấy thường có hai màu
xanh - trắng hoặc đỏ - vàng. Trong những năm 1935 - 1940, ở Huế đã phổ biến loại
diều bướm có màu sắc sặc sỡ do nghệ nhân Ưng Sừng sáng chế.

Nghệ nhân chơi diều

Lớp người đã qua, con cháu họ tiếp tục theo bước cha ông và đã có những bước
tiến vượt bậc. Họ đã đến với nhau trong một tổ chức có tên là Hội Cầu Phong để cùng
nhau tìm tòi, trao đổi và sáng chế ra những loại diều mới, biến thú thả diều từ chỗ
riêng rẽ thành một nghiệp đoàn văn hoá - nghệ thuật. Cầu Phong nghĩa là cầu gió. Tên
gọi này nghe có vẻ nhún nhường quá! Bác Nguyễn Văn Bê, thành viên của Hội Cầu
Phong lúc bấy giờ (nay là Chủ tịch Câu lạc bộ diều Huế) đã nói rằng: "Diều là thành
quả của chúng tôi tạo ra. Chúng tôi là người chủ của trò giải trí này vậy việc gì phải
cầu gió. Tên gọi này không thể hiện được ý chí và tài nghệ của chúng tôi. Do đó,
chúng tôi đổi từ Cầu Phong thành Thừa Phong (nghĩa là cưỡi gió)" Với hơn 10 thành
viên, Hội Thừa Phong chính thức ra đời vào tháng 11 năm 1973 đã hoạt động cho đến
năm 1975. Sau ngày miền Nam giải phóng, Hội Thừa Phong không còn, song số thành
viên cũ của Hội vẫn chơi diều lẻ tẻ, thi thoảng họ tập hợp lại để biểu diễn chung với
nhau. Cho đến năm 1983, Câu lạc bộ diều Huế ra đời.
Nét độc đáo của nghệ thuật thả diều Huế là sự phong phú của các loại diều, của
nghệ thuật tạo hình và cách thức biểu diễn diều Huế. Diều Huế có đầy đủ các loại hình
với dáng đẹp, màu sắc hài hoà: diều bướm, diều công, phượng hoàng, máy bay, diều
rít, diều rồng, nàng tiên, công chúa Mỗi loại đều có vẻ đẹp riêng, một xảo thuật tạo
hình tuyệt mỹ, một kích thước và chi phí ngang nhau.
Cái hay ở diều Huế thể hiện ở chủ đề và nghệ thuật biểu diễn. Nghệ nhân chơi
diều ở cố đô không chỉ thả con diều lên không trung rồi để mặc nó đùa giỡn với gió.
Họ đã tạo cho cánh diều một sức sống, sự linh hoạt và sự sinh động qua nghệ thuật
điều khiển dây, thể hiện những chủ đề như: Tấm Cám, Phượng hoàng sinh con, gà
chọi, chèo bẻo đánh quạ, Tề Thiên Ðại Thánh không chiến Ngưu Ma Vương, Sơn
Tinh, Thuỷ Tinh, đá bóng Những tiết mục này đã đưa bộ môn thả diều Huế thành
nghệ thuật múa rối trong không gian. Có điều, đây là những con rối đủ loại kích
thước, hình dạng, có nguồn gốc từ cổ tích đến cuộc sống hiện tại.
Một buổi biểu diễn Huế thường diễn ra theo trình tự nhất định. Thoạt tiên,
người ta "tung" lên trời đủ các loại chim, ó, bướm, bồ câu, diều rồng để khai mạc
hội diều. Sau đó là thả diều theo từng tiết mục cùng với lời thuyết minh để minh hoạ.
Hàng ngàn cặp mắt đang lướt trên bầu trời xanh để theo dõi tiết mục Phượng

Hoàng sinh con. Người ta thả lên bầu trời con diều hình chim Phượng kích cỡ 2m2 rồi
điều khiển dây để chim múa lượn, vẫy vùng trong không trung. Chừng ba phút sau,
một đàn chim sẻ, ó, hoàng anh được thả lên, lượn quanh bà chúa tể của loài chim để
đón chào. Ngay lúc đó, một tiếng nổ nhỏ vang trên không và một chú phượng hoàng
con xuất hiện trên nền trời bay cùng chim mẹ. Thực ra, trước đó chim con đã được
buộc lên lưng mẹ bằng hai sợi dây: một sợi ngắn có gắn pháo nổ chậm và một sợi dai
hơn để giữ con chim con luôn bay cùng với chim mẹ. Khi pháo nổ, sợi dây ngắn bị
đứt làm chim con rớt ra và nhờ sợi dây dài mà nó không bị rớt xuống mặt đất và bay
theo chim mẹ. Ở tiết mục Chèo bẻo đánh quạ, người ta làm con chim chèo bẻo bằng
vải, quét màu đen tuyền, dáng thon khoẻ, cho nó đánh nhau với chú quạ bằng giấy.
Kết quả chim quạ tuy to nhưng sau mấy lần giáp trận với chèo bẻo (do người điều
khiển bằng cách giật dây) thì bị rách nát và thua trận. Chèo bẻo làm bằng vải, bền hơn
nên thắng cuộc. Người ta còn gắn vào mình con vật nhiều ống sáo khácn nhau để khi
lâm trận, do hiệu quả của động tác giật dây, các ống sáo phát ra những tiếng khác
nhau tượng trưng cho tiếng kêu của con chim khi giao chiến. Khó nhất vẫn là các loại
diều mang hình dạng người như: Tấm Cám, Thạch Sanh, Ông Bụt, Sơn Tinh - Thuỷ
Tinh, Tôn Ngộ Không. Ðể chúng có thể bay được, các nghệ nhân phải làm những đôi
cánh dưới dạng đám mây, cái gậy hay vật dụng khác có diện tích thể hiện khá lớn, đủ
sức mang các con diều hình người bay lên không trung. Không chỉ biểu hiện tài nghệ
trong cách làm diều và biểu diễn, những nghệ nhân chơi diều ở Huế còn có óc tưởng
tượng phong phú, am hiểu các sự tích và nắm bắt sở thích của mọi người một cách
nhanh nhạy và cho ra đời những con diều mới, những tiết mục hấp dẫn mới.Cách đây
ít năm, tiết mục Thạch Sanh bắn rơi con phượng hoàng đang cắp công chúa hay
những trận không chiến, ném bom, hoả tiễn tiêu diệt máy bay là những tiết mục đặc
sắc, thu hút sự chú ý của khán giả. Còn bây giờ, nó đã trở nên lỗi thời. Và các nghệ
nhân chơi diều ở Huế đang sáng tạo những mẫu diều mới, cầu kỳ hơn, công phu hơn,
chuẩn bị cho mùa biểu diễn sắp tới. Bác Nguyễn Văn Bê, một tay cự phách trong làng
diều xứ Huế về nghệ thuật làm diều, thả diều và sáng chế diều, người đã nhiều lần
tham gia các kỳ festval thả diều ở Pháp, Singapore, Indonesia, từng nói: "Ðối với tôi,
nghệ thuật chơi diều là vô cùng, luôn mới mẻ và cũng lắm khó khăn, đòi hỏi học hỏi

liên tục". Có lẽ nhờ vậy mà cánh diều Huế luôn được cách tân, hoàn thiện. Vấn đề duy
nhất ảnh hưởng đến sự thành công của nghệ thuật múa rối trên không này là tiền vốn
chứ không phải tài năng của những người chơi diều ở Huế.

Ðối với người Huế, thả diều là món ăn tinh thần không thể thiếu. Cánh diều đã
nâng tâm hồn và trí tuệ con người lên những tầng mây, ban cho họ sự bao dung, rộng
lượng của trời đất và làm đẹp mãi bầu trời, chúng ta được chiêm ngưỡng những hoạ
phẩm biết bay. Một khối đường nét và màu sắc chuyển động trong không trung đã tạo
ra như ng phút thư giãn tinh thần, làm cho thoả mãn tâm hồn và ước nguyện của con
người. Chơi diều, đấy là một cách đơn giản nhất để cụ thể hoá nghĩa thực của hai chữ
tự do. Ðến với diều, mọi sự phân biệt về tuổi tác bị triệt tiêu. Lúc đó, lớn, nhỏ, già, trẻ
đều là bạn bè. Họ cùng hoà chung một niềm vui, một ước nguyện được vùng vẫy trên
trời như một cánh diều. Do tính năng hoạt động của thú chơi diều như chạy, nhảy, vận
động cơ bắp, nó đã trở thành một môn thể thao thực sự. Diều là một thú tiêu khiển đầy
nhân ái, mang niềm vui tới cho mọi người. Nghệ nhân chơi diều là người phục vụ, đáp
ứng niềm vui và lòng ngưỡng mộ cho hàng ngàn khán giả. Trước mắt những nghệ
nhân và khán giả chỉ còn một mảng trời xanh ngắt, ở đó tâm hồn họ đang đùa giỡn với
những tầng mây và tương lai như chợt đến đây qua những cánh diều khiến lòng người
trở nên trẻ lại. Có lẽ vì thế mà nhà thơ Võ Quê đã viết về diều với những ngôn từ đẹp,
trìu mến và sâu sắc nhất:
Vươn tới cao xanh khát vọng của đời
Diều no gió gửi niềm vui về mặt đất
Chỉ là giấy thôi mà trở thành ngọn nguồn hạnh phúc
Khi diều bay tóc trắng cũng thành xanh.

Hội thả diều làng Bá Giang ở xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây
diễn ra vào ngày rằm tháng ba âm lịch. Hội thả diều này gắn với "tiệc" ông Nguyễn
Cả, một danh nhân của làng, nguyên là tướng giỏi của Đinh Tiên Hoàng.
Sau khi giúp vua Đinh thu giang sơn về một mối, dựng nền độc lập, ông
Nguyễn Cả từ quan, về quê dạy dân trồng trọt, mở mang cơ nghiệp. Có truyền thuyết

cho rằng, ông Nguyễn Cả vốn là con của một Hầu Công (ông khỉ). Về cuối đời, ông
sống cảnh điền viên và bày những trò vui thanh cao, trong đó có chơi diều cùng đám
trẻ mục đồng. Một hôm, trên gò đất ông hay cùng mọi người chơi diều, bỗng Hầu
Công xuất hiện. Ông cúi đầu làm lễ kính cẩn. Khi đó, hiện ra mây trắng sà xuống nâng
hòn đá bay lên. Mây trắng bọc hòn đá thoắt biến thành mây ngũ sắc. Và văng vẳng có
giọng đọc thơ:
"Giáng sinh trần thế tại gò này
Nay lại về trời tựa áng mây "
Tiếng thơ vừa dứt thì sấm chớp, mưa gió. Ông Nguyễn Cả cũng hóa lúc đó.
Nhân dân tiếc thương lập miếu thờ ông Nguyễn Cả n_ ở gò đất này. Hiện nay, miếu
ông Cả còn đôi câu đối:
"Sinh tiền tích trứ Đinh triều soái
Hóa hậu linh chiêu Bá ấp thần"
(Khi sống triều đình lừng tướng giỏi
Hóa rồi ấp Bá rạng thần thiêng)
Ngày nay, miếu Bá Giang đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa.
Cửa miếu nhìn ra cánh đồng rộng và con đê sông Hồng. Đây cũng là địa điểm hằng
năm mở hội thả diều.
Tháng ba mới là hội thi, nhưng từ tháng tám năm trước, trong làng đã rục rịch
làm diều. Người ta chọn tre, mua giấy, khoét sáo, chuốt dây rất tỷ mỉ, công phu.
Xưa kia, dây diều làm bằng tre bánh tẻ vót chuốt đều, nối dài, rồi cuộn lại ngâm vào
nước quả cây chuối hột và muối, rồi ninh sôi trong nồi ba mươi cả một ngày, thành
dây vừa dai vừa mềm. Làm sáo diều bằng cách dùng nan tre đan thành ống, dùng sơn
ta đun mà gắn với miệng sáo khoét bằng gỗ vàng tâm. Chiếc sáo vừa nhẹ, lại có tiếng
vừa thanh, vừa ấm. Giấy dán diều bồi bằng giấy bản. Thời nay, dây diều là dây ni-
lông, diều càng nhẹ càng dễ bay cao.
Mở màn hội thi thả diều là lễ rước bánh dày tưởng nhớ thần nhân. Sau đó, cuộc
thi diều bắt đầu. Một người khéo tay nhất làng được cử làm chiếc diều tượng trưng to
nhất, dài 5m, rộng 1,5m dán giấy hồng điều, trên cánh diều có đề bài thơ:
Gió hát trăng thanh hồn non nước

Sải cánh diều bay nhạc sáo ngân
Khi thiêng tướng Cả lưu truyền thống
Anh hùng rạng rỡ sáng lòng dân.
Mở đầu cuộc thi là lễ trình diều. Mọi người dự thi đều mang diều đến trình
trước cửa Miếu. Mỗi năm có dăm, sáu chục người dự thi, ngoài người Bá Giang, còn
có người Hạ Mỗ, Tân Hội, Liên Trung Diều dự thi có thể dài đến 3 m, nhỏ thì cũng
dài tới 1 m. Trong gió nồm nam của buổi chiều quê, mấy chục cánh diều cùng bay lên.
Dưới đồng, lúa đang thì con gái rì rào. Trên trời, tiếng sáo vi **t bay xa. Người ở trên
bờ đê, ở trước sân đình, ở trong làng đều có thể ngắm diều bay và nghe tiếng sáo hòa
âm nhiều giọng rất đa cảm. Thỉnh thoảng, có con diều đứt dây, bay về phía sông
Hồng. Người xem hội hò reo huyên náo và cười vang rất sảng khoái. Trẻ nhỏ trong
làng đua nhau thả lên trời hàng trăm diều nhỏ có đuôi bay phấp phới. Như vậy, trên
không gian có mấy tầng diều cao thấp bay chấp chới nhiều vẻ. Tiếng sáo càng cao lại
càng vang xa, làng diều trông thật ngoạn mục.
Hội diều diễn ra chừng hai tiếng đồng hồ thì một số diều bị đứt dây, tự loại
khỏi cuộc thi. Số diều đạt đến tầng cao và bay đậu giữa trời đã giảm dần. Vào giai
đoạn chung kết chỉ còn mươi chiếc diều. Ban tổ chức hội thi tập trung ở đền Châu
Trần, n_ cạnh miếu Bá Giang. Những người ứng thí lùa dây diều vào buộc ở hàng cột
trước cửa đền Châu Trần. Các giải nhất, nhì, ba trao cho những người có diều bay cao,
không chao đảo và có tiếng sáo hay nhất. Sau khi người trúng giải đem phần thưởng
vào lễ tạ nhân thần, hội thi kết thúc.
Vậy nhưng, những con diều vẫn còn bay đến tận đêm khuya. Làng Bá Giang
trong đêm trăng với tiếng sáo diều thật thanh bình, thật thương mến

×