Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

sáng kiến kinh nghiệm rèn kĩ năng sống lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.66 KB, 20 trang )

1

Tên đề tài:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH LỚP 5
Phần 1: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Kĩ năng sống là một mặt giáo dục cần đặc biệt coi trọng. Việc rèn kĩ năng
sống cho học sinh đòi hỏi phải thường xuyên và liên tục của cơng tác giáo dục.
Đồng thời cũng là địi hỏi cấp thiết của việc hình thành nhân cách trong cơng tác
giáo dục hiện nay. Giáo dục trong nhà trường luôn là vấn đề cần được quan tâm
thì việc rèn kĩ năng sống cho học sinh cũng không kém quan trọng. Qua việc rèn
kĩ năng sống trang bị cho học sinh một số chuẩn mực hành vi phù hợp với lứa
tuổi trong mọi mối quan hệ. Học sinh biết nhận xét, đánh giá hành vi của bản
thân và những người xung quanh. Biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện, hình
thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương, tôn trọng con người, yêu cái thiện, cái
đúng, cái tốt, không đồng tình cái ác, cái xấu, cái sai. Giúp cho các em có vốn
kinh nghiệm sống phong phú, vận dụng vốn kinh nghiệm đó vào đời sống thực
tế hằng ngày.
Trong thực tế hiện nay, việc rèn kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường
còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân là do trong tư tưởng giáo viên và phụ huynh
học sinh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức , họ luôn suy nghĩ, đầu tư nên làm
thế nào để học sinh lớp mình dạy, con em của mình học ln đọc, viết tốt, làm
tính tốt mà họ đã quên đi tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh.
Năm 2010-2011, Bộ GD-ĐT đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống lồng ghép
vào các môn học ở bậc tiểu học. Đây là một chủ trương cần thiết và đúng
đắn.Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện về đạo
đức, trí thức, sức khỏe, thẩm mỹ, nghề nghiệp và hình thành nhân cách, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



2

Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một chương trình giáo dục hết
sức cần thiết đối với học sinh và phù hợp mục tiêu giáo dục hiện nay: nhằm đào
tạo con người với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ: để đáp ứng yêu cầu của xã
hội.
Học sinh lớp 5 là lứa tuổi đang bước vào tuổi dậy thì nên ngồi những thay
đổi về thể chất, các em cịn thay đổi về tâm lý tình cảm, giàu ước mơ, ham hiểu
biết, thích tìm tịi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, cịn thiếu
kinh nghiệm sống dễ bị lơi kéo, bị tác động xấu bởi những vấn nạn xã hội nếu
các em khơng được giáo dục tốt. Vì vậy, các em rất cần được giáo dục và rèn
luyện nhiều kĩ năng sống để có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống
của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người,
sống tích cực, chủ động, an tồn, hài hịa và lành mạnh.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh, tôi đã chọn viết sáng kiến về: “Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích:
Nhằm tìm ra một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 5 thông
qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội,
giúp các em hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình, có hành vi, thói
quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật,….
Giúp học sinh có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự
chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban
đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào
đời.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Điều tra, khảo sát thực trạng kĩ năng sống của học sinh lớp 5.

Tìm ra một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 5.
Kết luận về nội dung, ý nghĩa, hiệu quả của sáng kiến.


3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng: Học sinh lớp 5A trường Tiểu học Thuận Hưng C.
3.2 Phạm vi nghiên cứu: Vì đây là đề tài khá nhảy cảm, gặp nhiều khó
khăn trong thực hiện, sử dụng các phương pháp nghiên cứu nên tôi chỉ nghiên
cứu “ Một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5”.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu lí luận: tìm đọc tài liệu có liên quan đến việc rèn kĩ năng sống
cho học sinh.
Khảo sát thực tế học sinh: khảo sát qua 3 đợt (đầu năm, cuối học kì I và
cuối năm).
Phương pháp quan sát: quan sát các hoạt động học tập, vui chơi và giao tiếp
của học sinh.
Phương pháp thực hành: giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các
hoạt động để học sinh tự cảm nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi từ đó
hình thành kĩ năng.
Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm giáo dục: phân tích các
nguyên nhân và tổng hợp các biện pháp giáo dục từ tài liệu, giáo viên, gia đình
và xã hội.
5. Tính mới của đề tài
Đề tài tạo được môi trường gần gũi và thân thiện với học sinh.
Đảm bảo thực hiện đầy đủ các nguyên tắc giáo dục kĩ năng sống.
Rèn kĩ năng sống cho học sinh thơng qua việc tích hợp vào các môn học.
Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục
vui chơi.

Giáo viên tuyên truyền đến bậc cha mẹ học sinh việc dạy các em kĩ năng
sống cơ bản
Đầu tư vào các phong trào mũi nhọn do trường tổ chức như: phong trào vở
sạch chữ đẹp, an tồn giao thơng, trường học thân thiện học sinh tích cực, phong
trào gây quỹ đội,…


4

Phần 2: Nội dung
1. Cơ sở lí luận
Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lí xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại
và thích ứng trong cuộc sống, vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức
cũng như nhiều cơ hội trong thực tại… kĩ năng sống đơn giản là tất cả điều cần
thiết mà chúng ta phải biết để có khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra
hằng ngày trong cuộc sống.
Theo tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), kĩ
năng sống được gắn với 4 trụ cột của giáo dục:
Học để biết: gồm các kĩ năng tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết
định vấn đề, nhận thức được hậu quả của việc làm,…
Học để làm: gồm kĩ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ như: kĩ năng đặt
mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm,…
Học để làm người: gồm các kĩ năng cá nhân như ứng phó với căng thẳng,
kiểm sốt cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,…
Học để chung sống: gồm các kĩ năng như giao tiếp, thương lượng, khẳng
định hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm thơng,…
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là việc tổ chức các hoạt động giáo dục
đa dạng, phong phú nhằm kích thích học sinh tham gia một cách tích cực chủ
động, qua đó hình thành hoặc thay đổi hành vi của trẻ theo hướng tích cực nhằm
góp phần phát triển nhân cách tồn diện, giúp học sinh có thể sống an tồn, khỏe

mạnh và tích cực, chủ động trong cuộc sống hằng ngày. Giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh là giáo dục cho các em có cách sống tích cực trong xã hội hiện đại,
là xây dựng hoặc thay đổi ở các em các hành vi theo hướng tích cực phù hợp với
mục tiêu phát triển toàn diện nhân cách người học trên cơ sở giúp học sinh có tri
thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp.
2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu:
Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học
tập không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là


5

mọi tri thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với
môi trường xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối
với mỗi cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển. Chương trình học hiện nay
đang gặp phải nhiều chỉ trích do quá nặng nề về kiến thức trong khi những tri
thức vận dụng cho đời sống hàng ngày bị thiếu vắng. Hơn nữa, người học đang
chịu nhiều áp lực về học tập khiến cho học sinh khơng cịn nhiều thời gian cho
các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội. Điều này dẫn đến sự “xung đột”
giữa nhận thức, thái độ và hành vi với những vấn đề xảy ra trong cuộc sống.
Mặc dù ở một số mơn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng
sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức
truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép
chưa cao.
Năm học 2014-2015 tôi được phân công giảng dạy ở lớp 5A, trường Tiểu
học Thuận Hưng C. Lớp tơi có tổng số 28 học sinh, trong đó số học sinh nữ 13,
học sinh dân tộc 23. Học sinh học đúng tuổi 17 chiếm 60,7% học sinh lớp.
Trong 28 học sinh có 89,2% học sinh là con em gia đình làm nghề nơng. Cịn lại
10,8% là con giáo viên.
Nhìn chung trong năm học này, lớp tơi có một số thuận lợi và khó khăn như

sau:
Thuận lợi:
Đa số học sinh đều nằm trong địa bàn xã Thuận Hưng .
Trình độ giảng dạy của giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn.
Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học.
Các ban ngành, đồn thể ln tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ nhiệt tình về
mọi mặt.
Cơ sở vật chất của trường đảm bảo cho việc dạy và học.
Trường học có cây xanh tương đối thống mát, có sân chơi sạch sẽ đảm bảo
cho sự phát triển thể chất của học sinh.
Phòng học khang trang đảm bảo ánh sáng, thoáng mát.


6

Ngay từ đầu năm học, trường đã tổ chức được cuộc họp với phụ huynh để
chấn chỉnh nế nếp học tập của các em.
Đa số học sinh đều chịu khó, chăm chỉ học tập, việc tiếp thu bài tương đối.
Các em ln đồn kết, tương trợ lẫn nhau, lễ độ, kính thầy, yêu bạn, yêu lao
động.
Bản thân là giáo viên chủ nhiệm nhiều năm lớp 5.
Bản thân nhiệt tình trong cơng tác, hết lịng vì học sinh thân u.
Khó khăn:
Phần lớn gia đình của các em cịn gặp nhiều khó khăn, nên việc đầu tư học
tập cho con em còn nhiều hạn chế. Học sinh trong lớp tơi có hồn cảnh khó khăn
10 em, học sinh thiếu sự quan tâm sâu sắc của gia đình, các em ở chung với ông
bà do cha mẹ đi làm ở Bình Dương là 8. Nhìn chung các em học tập cịn thụ
động chưa có tính tự giác, các em chỉ có kiến thức, khả năng ứng phó với các
tình huống trong cuộc sống còn kém, kĩ năng giao tiếp của các em còn hạn chế,
các em vẫn cịn có hiện tượng cãi nhau, chửi nhau, đánh nhau, chưa lễ phép, gây

mất đoàn kết trong tập thể lớp, trốn học đi chơi,...Một số em có tính nhút nhát,
khơng cởi mở, ngại giao tiếp với bạn. Có em lại hiếu động thường trêu ghẹo, nói
chuyện, đùa giỡn trong giờ học. Một số em lại chưa biết nói lời “thưa” “gửi”,
chưa biết nói “cảm ơn”, “xin lỗi”, khi đưa hoặc nhận gì từ người lớn chưa biết
dùng “hai tay”. Nhiều em thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn, các em
cịn ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tịi cịn hạn chế.
Một số phụ huynh lại nóng vội trong việc dạy con, họ chỉ chú trọng đến
việc con mình về nhà đọc bài được, làm toán tốt, viết văn hay,… Đồng thời học
lại chiều chuộng, cung phụng con như một báo vật mà lại quên đi việc hướng
dẫn, dạy dỗ con sự lễ phép, kính trọng người lớn. Ngược lại, một số phụ huynh
vì bận nhiều cơng việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần
thiết. Cũng có một số gia đình lại coi việc giáo dục trẻ là bổn phận và trách
nhiệm của nhà trường mà đặc biệt là của giáo viên.


7

Từ những khó khăn trên dẫn đến lớp tơi chỉ có một số em có hành vi, thói
quen, kĩ năng tốt còn rất nhiều em kĩ năng sống chưa cao.
Qua tiến hành khảo sát ( lần 1) ở lớp 5A đầu năm học với chủ đề “ Kĩ
năng của em”; kết quả như sau:

Tổng số học
sinh
28

Tổng số

Kĩ năng tốt
Có hình thành kĩ năng

Kĩ năng chưa tốt
SL
%
SL
%
SL
%
3 10,7
9
32,1 16
57,1
Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp
tác

học sinh
28

Tổng số
học sinh
28

SL
10

%
35,7

Chưa biết cách lắng nghe,
hay tách ra khỏi nhóm

SL
%
18
64,2

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hịa, khá
Hay cãi nhau, xơ đẩy
phù hợp.
SL
16

%
57,1

bạn khi chơi.
SL
12

%
42,9

Từ thực tế trên, tơi tự hứa với lịng mình phải cố gắng thật nhiều để làm tốt
công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh và phải đặc biệt quan tâm, gần gũi
hơn với những học sinh này.
3. Các giải pháp tiến hành giải quyết vấn đề
3.1. Gần gũi và tạo môi trường thân thiện với học sinh
Đầu tiên, sau khi nhận lớp, để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và
giáo viên chủ nhiệm, bản thân người giáo viên cần sắp xếp nhiều thời gian cho
học sinh được giới thiệu về mình, động viên khuyến khích các em chia sẻ với

nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng như mong muốn của mình với
các em. Đây là hoạt động giúp cơ trị hiểu nhau, đồng thời tạo một môi trường
học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi nhà thứ hai của các em,
các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình". Đây cũng là một điều kiện


8

rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi học sinh không
thể mạnh dạn, tự tin trong một mơi trường mà giáo viên ln gị bó và áp đặt.
Tiếp theo trong tuần đầu, bản thân cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi
của mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh
dạn hay nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay khơng thích...Và
tiếp tục qua những tuần học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái
độ học tập, những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có
điều chỉnh phù hợp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có thể thực hiện trong bất cứ lúc
nào, giờ học nào. Để việc rèn luyện diễn ra một cách thường xuyên và đạt hiệu
quả cao, bản thân tôi đã vận dụng qua biện pháp tiếp theo.
3.2. Đảm bảo các nguyên tắc giáo dục kĩ năng sống
Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lí xã hội cơ bản giúp cá nhân tồn tại và
thích ứng trong cuộc sống, giúp cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều
thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tại…Kĩ năng sống đơn giản là tất
cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những
thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Vì thế giáo viên cần nắm rõ 5
nguyên tắc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh:
Nguyên tắc tương tác: các kĩ năng thương lượng, kĩ năng giải quyết vấn
đề…được hình thành tốt trong quá trình học sinh tương tác với bạn bè và những
người xung quanh. Tạo điều kiện để các em có dịp thể hiện ý kiến của mình và
xem xét ý kiến của người khác. Do vậy giáo viên cần tổ chức các hoạt động có

tính tương tác trong các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp để giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh.
Nguyên tắc trải nghiệm: kĩ năng sống chỉ được hình thành khi người học
được trải nghiệm qua các tình huống thực tế. Học sinh chỉ có kĩ năng khi các em
tự làm việc đó, chứ khơng chỉ nói về việc đó. Kinh nghiệm có được khi học sinh
được hành động trong các tình huống đa dạng giúp các em dễ dàng sử dụng và
điều chỉnh các kĩ năng phù hợp với điều kiện thực tế. Giáo viên cần thiết kế và


9

tổ chức thực hiện các hoạt động trong và ngoài giờ học sao cho học sinh có cơ
hội thể hiện ý tưởng cá nhân, tự trải nghiệm và biết phân tích kinh nghiệm sống
của chính mình và người khác.
Ngun tắc tiến trình: giáo dục kĩ năng sống khơng thể hình thành trong
“ngày một ngày hai” mà địi hỏi có cả quá trình: nhận thức- hình thành thái độthay đổi hành vi. Đây là một quá trình mà mỗi yếu tố có thể là khởi đầu của một
chu trình mới. Do đó nhà giáo dục có thể tác động lên bất kì mắt xích nào trong
chu trình trên: thay đổi thái độ dẫn đến mong muốn thay đổi nhận thức và hành
vi hoặc hành vi thay đổi tạo nên sự thay đổi nhận thức và thái độ.
Nguyên tắc thay đổi hành vi: mục đích cao nhất của giáo dục kĩ năng sống
là giúp người học thay đổi hành vi theo hướng tích cực. Giáo dục kĩ năng sống
thúc đẩy người học thay đổi hay định hướng lại các giá trị, thái độ và hành động
của mình. Thay đổi hành vi, thái độ và giá trị ở tứng con người là một q trình
khó khăn, khơng đồng thời. Có thời điểm người học lại quay trở lại những thái
độ, hành vi hoặc giá trị trước. Do đó giáo viên cần kiên trì chờ đợi và tổ chức
các hoạt động liên tục để học sinh duy trì hành vi mới, tạo động lực cho các em
điều chỉnh hoặc thay đổi giá trị, thái độ và những hành vi trước đây, thích nghi
hoặc chấp nhận giá trị, thái độ và hành vi mới. Giáo viên khơng nhất thiết phải
tóm tắt bài giùm học sinh mà cần tạo điều kiện để các em tự tóm tắt những ghi
nhận cho bản thân sau mỗi giờ học.

Nguyên tắc thời gian- môi trường giáo dục:giáo dục kĩ năng sống cần được
thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc và thực hiện càng sớm càng tốt đối với trẻ em. Môi
trường giáo dục được tổ chức nhằm tạo cơ hội cho học sinh áp dụng kiến thức
và kĩ năng vào các tình huống thực trong cuộc sống. Giáo dục kĩ năng sống
được thực hiện trong gia đình, trong nhà trường và cộng đồng. Người tổ chức
giáo dục kĩ năng sống có thể là bố mẹ, là thầy cơ, là bạn cùng học hay các thành
viên cộng đồng. Trong nhà trường phổ thong, giáo dục kĩ năng sống được thực
hiện trên các giờ học, trong các hoạt động lao động, hoạt động đoàn thể xã hội,
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và các hoạt động giáo dục khác.


10

3.3. Rèn kĩ năng sống qua việc tích hợp vào các môn học
Trên đây là những bước chuẩn bị đầu tiên của bản thân. Để giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh có hiệu quả bản thân đã vận dụng vào các môn học, tiết
học, nhất là các môn như: Tiếng Việt; Đạo đức; Khoa học.... để những giờ học
sao cho các em được làm để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực.
Trong chương trình lớp 5, ở mơn Tiếng Việt có nhiều bài học có thể giáo
dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: viết đơn,
làm báo cáo thống kê, thuyết trình tranh luận, lập chương trình hoạt động, viết
đoạn đối thoại, diễn thử màn kịch,... được lồng ghép cụ thể qua các tình huống
giao tiếp. Tơi chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hồn tồn
khơng gị bó áp đặt. Bên cạnh đó, nhiều bài kể chuyện và tập đọc có nội dung
rèn luyện các kĩ năng giao tiếp ứng xử lắng nghe và phản hồi tích cực,…hoặc
cung cấp những câu chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn
kĩ năng sống. Để hình thành những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh qua môn Tiếng Việt, người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp
dạy phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao
tiếp, trò chơi học tập, phương pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ

chức hoạt động nhóm, phương pháp hỏi đáp,…Thông qua các hoạt động học
tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng
vai,…học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực hành nhiều kĩ năng sống cần thiết.
Ở môn Đạo đức, để các chuẩn mực đạo đức, pháp luật xã hội trở thành tình
cảm, niềm tin, hành vi và thói quen của học sinh. Giáo viên phải sử dụng
phương pháp dạy học đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của học sinh. Tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động học tập phong
phú, đa dạng như: kể chuyện theo tranh, quan sát tranh ảnh, băng hình, tiểu
phẩm, phân tích, xử lí tình huống, chơi trị chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc
thơ, vẽ tranh,…Sử dụng nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như:
học theo nhóm, theo dự án, đóng vai, trị chơi,…Và chính thơng qua việc sử
dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực đó, học sinh đã được tạo cơ hội


11

để thực hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với lứa tuổi. Đó
là lối sống lành mạnh, các hành vi ứng xử phù hợp với nền văn minh xã hội. Lối
sống, hành vi như gọn gàng, ngăn nắp, nói lời đẹp, chăm sóc bố mẹ, ơng bà, hợp
tác, giúp đỡ, chia sẻ với bạn…
Ví dụ: Khi dạy bài Những con sếu bằng giấy
Giáo viên nêu câu hỏi: Nếu được đứng trước tượng đài Xa-xa-cô em sẽ nói
gì với bạn để bày tỏ sự cảm thơng?
Qua câu hỏi học sinh được bày tỏ ý kiến của cá nhân về sự cảm thông với
những nạn nhân bị bom nguyên tử sát hại. Sau vài lời khuyến khích đầu tiên, tơi
tổ chức cho các em đứng thành vịng trịn giới thiệu, bày tỏ ý kiến,… Lúc đầu
các em rất ái ngại không tự tin khi bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng bản thân đã kịp
thời nhắc nhở các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một
mơi trường hịa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, khơng cịn những cái
nhìn ái ngại mà thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng,

chắc gọn, mạnh dạn hơn.
Khi dạy môn Đạo đức bài: “Hợp tác với những người xung quanh” tôi tổ
chức cho các em làm việc theo nhóm theo kĩ thuật khăn phủ bàn thảo luận về lợi
ích của sự hợp tác. Qua thảo luận các em được trình bày ý kiến cá nhân đồng
thời cùng nhau thảo luận thống nhất ý kiến để thấy được tầm quan trọng của sự
hợp tác.
Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu là những
bài học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội.
Giáo viên luôn tạo khơng khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo
điều kiện cho các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua
việc học nhóm.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Tập viết đoạn đối thoại” môn tập làm văn
Tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm viết tiếp lời đối thoại để hồn
chỉnh màn kịch, tơi gợi ý khi viết các em cần làm rõ tính cách của các nhân vật,
khơng bỏ sót nhân vật, các nhân vật đối thoại hợp lí, bộc lộ đúng tính cách, lời


12

đối thoại thú vị, sáng tạo, màn kịch có ý nghĩa. Các nhóm trao đổi thi hồn thành
nhanh màn kịch. Qua màn kịch được viết học sinh rèn được kĩ năng giao tiếp và
hợp tác có hiệu quả, các em biết đối thoại tự nhiên, hoạt bát, đúng mục đích,
đúng đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp
Rèn kĩ năng sống có hiệu quả cịn được tơi vận dụng khá nhiều trong các
mơn học thơng qua xử lí tình huống hay các trị chơi học tập có nội dung gần gũi
với cuộc sống hằng ngày của các em.
Ví dụ: Trong mơn Khoa học. Ở bài: “Phịng tránh bị xâm hại” tơi cho học
sinh tham gia thảo luận nêu những tình huống có nguy cơ bị xâm hại và cách
ứng phó. Sau đó tổ chức cho các em đóng vai ứng phó với nguy cơ bị xâm hại,
qua trò chơi “Vẽ bàn tay tin cậy” kể ra được các địa chỉ, người tin cậy sẽ giúp

đỡ khi bị xâm hại. Qua bài học hình thành kĩ năng phân tích, phán đốn những
tình huống có nguy cơ bị xâm hại, kĩ năng ứng phó, ứng xử phù hợp khi rơi vào
tình huống có nguy cơ bị xâm hại, kĩ năng tìm kiếm sự giúp đỡ nếu bị xâm hại.
Bài: An toàn và tránh lãng phí khi sử dụng điện
Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm xử lí tình huống về các việc
nên và khơng nên làm gì để sử dụng an tồn, tránh lãng phí năng lượng điện.
Qua hoạt động trên các em rèn được kĩ năng ứng phó, xử lí tình huống đặt ra
(khi có người bị điện giật, khi dây điện đứt,..), biết sử dụng điện tiết kiệm.
Hiệu quả đào tạo kĩ năng sống không đo đếm được bằng những con số
chính xác nhưng được thể hiện bằng những biểu hiện cụ thể: các em có ý thức,
thái độ khác với mọi người trong gia đình; ln hồ đồng với bạn bè; tự tin khi
nói năng... đó chính là hiệu quả từ đào tạo kĩ năng sống. Việc sinh hoạt theo
nhóm tạo mơi trường làm việc thân thiện, giúp các em cải thiện hành vi giao tiếp
thông qua các hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên. Các em trở nên thân
thiện, từ đó giúp bầu khơng khí học tập, lao động trở nên sôi động hơn. Tham
gia sinh hoạt theo nhóm giúp các em học sinh hưng phấn hơn trong học tập và
tạo nên cách ứng xử hợp lý trong mọi tình huống. Khi sinh hoạt nhóm phải luôn


13

đưa ra nhiều tình huống tạo sự phát triển tư duy cho các em. Đó cũng là cách tạo
sự gần gũi giữa các em với nhau.
Một điều nữa theo tôi cũng khá quan trọng là kĩ năng ứng xử có văn hoá
cũng là lối sống lành mạnh mà các em cần phải được đào tạo, vì thế bản thân
tiếp tục áp dụng biện pháp tiếp theo.
3.4. Rèn kĩ năng sống hiệu quả qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo
dục, vui chơi
Ngay những ngày đầu tiên khi các em vào lớp học, bản thân đã phát động
các phong trào: “Nói lời hay làm việc tốt” qua cách ứng xử lễ phép như biết đi

thưa về trình, chào hỏi những người lớn tuổi, biết xin lỗi khi có khuyết điểm,
cảm ơn khi được tặng quà, vui vẻ hoà nhã với bạn bè, lễ phép với thầy cô và
những người lớn tuổi,... và tổng kết vào các tiết sinh hoạt lớp. Bản thân học cách
lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, và dùng lời lẽ mềm mỏng bằng những tình
cảm, cử chỉ u thương của mình khi u cầu điều gì đó với học sinh. Tránh
hành hung, nói nặng lời để các em bớt đi tính hung hăng đối với những học sinh
nghịch ngợm, mắc lỗi.
Để rèn kĩ năng sống có hiệu quả tơi cịn vận dụng thơng qua các hoạt động
ngồi giờ học. Đó là qua các buổi ngoại khóa của trường, lớp.
Ví dụ: Nhân ngày 26/3 trường tổ chức cho các em tham quan khu Căn cứ
Tỉnh quỹ rừng tràm Mỹ Phước, ngày 10/4 trùng tu khu di tích lịch sử chùa Tà
Ong. Qua hoạt động trên giúp các em giao lưu, học hỏi những kĩ năng xác định
giá trị yêu quê hương, biết phê phán đánh giá những quan điểm, hành vi, việc
làm không phù hợp với quê hương, biết truyền thống văn hóa, truyền thống cách
mạng, về danh lam thắng cảnh, con người của quê hương.
Ngoài ra, những buổi chào cờ, bản thân ln khuyến khích các em xung
phong trả lời những câu hỏi mà thầy(cô) Tổng phụ trách đưa ra. Luôn lắng nghe
các nội dung, hoạt động cần làm trong tuần. Nhờ vậy các em mạnh dạn dần và
thực hiện tốt các phong trào.


14

Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của
các em. Vì đối với học sinh bậc học tiểu học trị chơi có một vai trò rất quan
trọng trong việc rèn kĩ năng sống cho các em. Các em lớn lên, học hành và
khám phá thơng qua trị chơi. Các hành động chơi địi hỏi các em phải suy nghĩ,
giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng. Khơng những thế, tơi cịn khuyến
khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận, những suy nghĩ, những quan sát của
mình với cơ với bạn một cách thoải mái, tự nhiên khơng gị bó, áp đặt. Hoặc ở

những giờ sinh hoạt lớp, giờ ra chơi bản thân cùng các em tham gia những trò
chơi dân gian, trị chơi giúp các em phát triển trí tuệ (Cờ vua, Ơ ăn quan),…
Ngồi ra, Giáo viên cần tranh thủ đọc sách cho các em nghe trong mọi tình
huống như những lúc sinh hoạt đầu giờ, hoặc đọc sách các em nghe trong giờ
sinh hoạt lớp.Tăng cường kể cho các em nghe các câu chuyện cổ tích, câu
chuyện trong bài tập đọc, bài thơ,…để qua đó rèn luyện đạo đức cho các em,
giúp các em hồn thiện mình, dạy các em yêu thương bạn bè, yêu thương con
người.Tạo hứng thú cho các em qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi
mở tính tị mị, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ.
Bên cạnh đó, để rèn kĩ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí
lớp học xanh - sạch - đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã
hướng dẫn các em trồng cây xanh và chăm sóc cây xanh trong lớp hàng ngày.
Một điều khơng thể thiếu để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các
em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kĩ năng là giáo viên luôn chú ý đến
công tác động viên, khen thưởng học sinh. Hằng ngày, tôi ln khích lệ và biểu
dương các em kịp thời, ca ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình
khuyết điểm. Tơi cố tìm ra những ưu điểm nhỏ nhất để khen ngợi động viên các
em. Nhưng trong khi khen tôi cũng không quên chỉ ra những thiếu sót để các em
khắc phục và ngày càng hồn thiện hơn.
3.5. Giáo viên tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em các kĩ
năng sống cơ bản


15

Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công
bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các em.Tạo điều kiện tốt nhất cho các
em vui chơi. Giáo viên, cha mẹ ln khuyến khích các em nói lên quan điểm của
mình, nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về
những lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thơng số để theo đó

mà lựa chọn, cố gắng khơng chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ
hình thành kĩ năng tự kiểm sốt bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi
tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận tại trường sau này.
Giáo viên, cha mẹ giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm
bảo rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý
thích đó.
Tơi thường xuyên liên hệ, trao đổi với phụ huynh để cùng phối hợp giáo
dục, động viên giúp đỡ kịp thời từng học sinh nhất là đối với những học sinh cá
biệt để nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện phát triển trí tuệ, năng lực.
Tơi trao đổi với phụ huynh bằng nhiều hình thức như : có thể gặp trực tiếp
hoặc trao đổi qua điện thoại mỗi khi có việc cần trao đổi, đôi khi chỉ là những
thăm hỏi việc học tập sinh hoạt của học sinh ở nhà để tìm nguyên nhân của việc
học sa sút hay cùng nhau phối hợp để giúp học sinh tiến bộ.
3.6 Đầu tư vào các phong trào mũi nhọn do trường tổ chức:
Đầu năm học, tôi dựa vào kế hoạch, chỉ tiêu của trường và các đoàn thể
trong trường để đề ra các chỉ tiêu cụ thể cho lớp tôi phấn đấu trong các phong
trào chung của nhà trường như: vở sạch chữ đẹp, trường học thân thiện học sinh
tích cực, các phong trào gây quỹ heo đất, phong trào thể dục thể thao,... Thơng
qua q trình phấn đấu, giúp giáo viên phát hiện những năng lực đặc biệt của
từng học sinh, và chọn lọc những học sinh có năng khiếu tham gia các hội thi do
trường tổ chức.
4. Thực nghiệm và kết quả thực hiện:
Qua khảo sát lần 2 ở lớp 5A ( cuối học kì I ) với chủ đề “ Kĩ năng của
em”; kết quả so với đầu năm thì các em tiến bộ rất nhiều. Cụ thể như sau:


16

Tổng số
học sinh

28

Tổng

SL
14

Kĩ năng chưa

năng

%
50

SL
12

tốt
SL
2

%
42,8

%
7,1

Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp
Chưa biết cách lắng nghe, hay


số học sinh
28

Có hình thành kĩ

Kĩ năng tốt

tác
SL
20

tách ra khỏi nhóm
SL
%
8
28,57

%
71,4

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Tổng
số học sinh
28

Biết cách ứng xử hài hịa,
khá phù hợp.
SL
20


Hay cãi nhau, xơ đẩy bạn khi
chơi.

%

SL

%

71,4

8

28,57

Qua khảo sát lần 3 ở lớp 5A ( cuối học kì I 1) với chủ đề “ Kĩ năng của
em”; kết quả so với đầu năm thì các em tiến bộ rất nhiều. Cụ thể như sau:

Tổng số
học sinh
28

Có hình thành kĩ

Kĩ năng tốt

năng

SL


%

SL

%

20

71,4

8

28,57

Kĩ năng chưa
tốt
SL

%

Thực hành thảo luận nhóm
Tổng

Biết cách lắng nghe, hợp

số học sinh
28

tác

SL

%

28

100

Chưa biết cách lắng nghe, hay
tách ra khỏi nhóm
SL
%

Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể


17

Tổng
số học sinh
28

Biết cách ứng xử hài hòa,
khá phù hợp.
SL
%
28
100

Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi

chơi.
SL

%

Qua việc thực hiện các biện pháp trên, tơi nhận thấy các em có tiến bộ rõ
rệt. Đa số các em đều có ý thức tốt trong việc rèn luyện các kĩ năng, được thể
hiện rõ qua: Việc sinh hoạt hằng ngày trên lớp, trong nhiều nghi thức lời nói, các
em biết vận dụng những lời nói thân thiện vào thực tế, những lời chào, cảm ơn
hay xin lỗi, những yêu cầu, đề nghị lịch sự,... đã trở thành thói quen được các
em vận dụng hằng ngày. Các em rất hăng hái phát biểu trong tiết học. Phụ huynh
học sinh rất vui mừng phấn khởi với kết quả này của lớp.
Phần 3: Kết luận
1. Kết luận về nội dung, ý nghĩa, hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Bằng nhiều hình thức khác nhau, tơi ln cố gắng rèn cho học sinh những
kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận
thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi
trường hợp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua học tập – sinh hoạt ở nhà
trường là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt được điều đó, giáo
viên cần kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt quá trình
giảng dạy.
Qua từng tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh kĩ năng làm việc theo
nhóm: biết cách phân công công việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận,
biết chấp nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống
nhất… Đây là kĩ năng hết sức cần thiết khi các em trưởng thành, làm việc trong
tập thể.
Trong sinh hoạt hằng ngày, giáo viên cần chú ý nâng dần kĩ năng giao tiếp
- tự nhận thức cho các em như biết sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi, xin



18

phép, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu… Biết cả thông cảm chia sẻ buồn vui với mọi
người.
Giáo dục kĩ năng sống cho mọi người nói chung và học sinh nói riêng là
điều rất cần thiết. Nó trang bị đầy đủ những kĩ năng cho các em để các em có
được cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đồng thời giúp những em có thói quen
xấu và hành vi tiêu cực trở thành con ngoan, trị giỏi và là người có ích cho xã
hội sau này
2. Đề xuất và kiến nghị
Giáo viên: cần hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người. Vì thế,
bản thân ln cố gắng trau dồi sách vở, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như đúc kết
kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn. Bản
thân đã luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói,
được diễn đạt, bày tỏ thoải mái ở mọi nơi mọi lúc để các em có cơ hội phát triển
một cách tồn diện.
Về phía nhà trường: Theo phương châm giáo dục hiện nay là: “Học để
biết, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” nên: Nhà trường ln phát
động phong trào này hơn nữa dưới nhiều hình thức.
Về phía phụ huynh: Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn
luyện kĩ năng sống cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày
tỏ, luôn phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các
em, theo dõi mọi biểu hiện của trẻ để có sự giáo dục cho phù hợp.
Trên đây là những suy nghĩ của bản thân về việc nghiên cứu một số biện
pháp giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp 5. Tuy nhiên do năng lực
của bản thân còn hạn chế nên chắc chắn rằng sẽ không tránh khỏi những thiếu
sót. Tơi rất mong nhận được sự góp ý q báu của quý thầy cô để sáng kiến của
tôi được hoàn thiện hơn.
Hiệu trưởng


Thuận Hưng Ngày 15 tháng 05 năm 2015
Người viết


19

Danh Thị Lài

Xác nhận của Phòng Giáo dục và Đào tạo
(Ký, đóng dấu)

Hội đồng khoa học (Hội đồng sáng kiến)

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Cẩm nang giáo dục kĩ năng sống cho học sinh lớp 5.

2.

Chỉ thị 40 về xây dựng trường học thân thiện học sinh tích

cực.
3.

Luật giáo dục 2005.

4.


Giáo trình tâm lí học dành cho giáo viên tiểu học hệ cao

đẳng và đại học.


20



×