Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Đề cương ôn tập lịch sử đảng cộng sản việt nam HCMUSSH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.98 MB, 42 trang )

LÊ HỒNG HẬU
CHƯƠNG 1:

MỤC LỤC

Câu 1: Vì sao trong q trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc lại
chọn con đường cách mạng vô sản?
(trang 2)
Câu 2: Bằng các sự kiện lịch sử có chọn lọc, chứng minh sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử?
(trang 4)
Câu 3: Tại sao nói Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc soạn
thảo là Cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo, là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
tính dân tộc tính giai cấp và tính Nhân văn?
(trang 8)
Câu 4: Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
(1930-1945)?
(trang 10)
Câu 5: Tính chất, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của cuộc Cách mạng
Tháng Tám 1945?
(trang 13)

CHƯƠNG 2:
Câu 1: Vì sao nói sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 Việt Nam rơi vào tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc"?
(trang 16)
Câu 2: Hãy chứng minh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp ( 1946 – 1954 ) là kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân: ‘’ toàn dân,
toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính’’
(trang 16)
Câu 3: Tại sao Đại hội III (1960) của Đảng được xem là đại hội hoàn chỉnh


Đường lối chiến lược cách mạng hai miền Nam - Bắc? (trang 19)
Câu 4: Hiệp định Paris (1973) là kết quả của quá trình “vừa đánh vừa đàm”
và là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi
hoàn toàn. Ý kiến của Anh/chị về nhận định trên? (trang 22)

CHƯƠNG 3:
Câu 1: Q trình tìm tịi khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế của Đảng
Cộng Sản Việt Nam?
(trang 26)
Câu 2: Tại sao phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là bước phát
triển mới về tư duy lý luận, sự vận dụng sáng tạo độc lập của Đảng?
(trang 29)
Câu 3: So sánh đường lối cơng nghiệp hố của Đảng thời kỳ trước đổi mới
và thời kỳ đổi mới.? (trang 31)
Câu 4: Quan điểm của Đảng về vị trí, vai trị của văn hóa trong phát triển bền
vững đất nước? (trang 36)
Câu 5: Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hoa-hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế?
(trang 38)

1


LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CHƯƠNG I:
Câu 1: Vì sao trong quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc
lại chọn con đường cách mạng vô sản?
Những năm đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đứng trước những thách thức
mới, đó là tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn. Con đường phong
kiến, khuynh hướng tư sản từng bước dẫn dắt phong trào cách mạng nước ta đi

lên nhưng cuối cùng đều thất bại. Đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra
con đường giải phóng cho dân tộc, đó là con đường cách mạng vơ sản.
Bằng những hoạt động thực tiễn của mình Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận
thức về cách mạng thế giới và những con đường cứu nước, từ đó Bác lựa chọn
con đường đúng đắn cho dân tộc ta.
Năm 1911, Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người dã bơn ba khắp
năm châu, và bước đầu có những nhận thức về bạn và thù(trích dẫn câu nói của
bác). Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga giành thắng lợi, chủ nghĩa Mác
– Lê nin đã trở thành hiện thực, đồng thời mở ra một thời đại mới “ thời đại
cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Cách mạng Tháng
Mười đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh
thức nhân dân Châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỷ nay”. Thắng lợi của cách mạng
xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và những chính sách tiến bộ của nó thực sự
đem lại lợi ích cho đơng đảo quần chúng nhân dân. Nó chứng tỏ được sự tiến
bộ của hình thức cách mạng này.
Trong khi đó, chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã để lại những hậu quả vơ
cùng nặng nề. Lồi người căm ghét chiến tranh. Trong khi đó cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Nga thực sự đem lại hịa bình tự do cho con người.
Từ những nhận thực đó Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu tin theo Cách mạng xã hội
chủ nghĩa Tháng Mười Nga. Người đã có những nhận thức hết sức đúng đắn:
Người đánh giá cao tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái và quyền con người của
các cuộc cách mạng tư sản tiêu biểu như Cách mạng Mỹ (1776), cách mạng
Pháp (1789)… nhưng cũng nhận thức rõ những hạn chế của các cuộc cách
mạng tư sản. Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng tư sản không
thể đưa lại độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói chung,
nhân dân Việt Nam nói riêng.(trích dẫn câu nói). Nguyễn Ái Quốc đặc biệt
quan tâm tìm hiểu cách mạng tháng mười nga 1917. Người rút ra kết luận:
“ trong thế giới bấy giờ chỉ có Cách mệnh Nga là thành công, và thành công


2


đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
Việc Bác lựa chọn con đường cách mạng vơ sản cũng xuất phát từ tình hình
của cách mạng nước ta lúc đó, cũng như từ yêu cầu của cách mạng
Là nước thuộc địa nửa phong kiến, chịu ách áp bức bóc lột của thực dân Pháp.
Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, đồng thời cấu kết với giai cấp địa chủ
trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam. Mặc
dù nền kinh tế có những chuyển nhưng về cơ bản vẫn là nền kinh tế lạc hậu,
nghèo nàn, què quặt, lệ thuộc vào Pháp. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp,
đời sống của nhân dân lao động hết sức khốn khổ. Xã hội phân hóa ngày càng
sâu sắc. Mâu thuẫn giữa tồn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và bọn
tay sai lên đến đỉnh điểm.
Yêu cầu của cách mạng lúc này là phải giải quyết hai nhiệm vụ cách mạng, đó
là: Nhiệm vụ dân tộc nhằm đánh đuổi thực dân pháp, giành lại độc lập cho dân
tộc. Và nhiệm vụ dân chủ nhằm đánh đổ chế độ phong kiến đem lại ruộng đất
cho nông dân. Trong hai nhiệm vụ trên, nhiệm vụ dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu,
quan trọng nhất. Con đường giải phóng dân tộc phải thực hiện được cả hai
nhiệm vụ đó.
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam càng thơi thúc Người tìm ra con
đường đấu tranh mới. Trước sự xâm lược của thực dân pháp, phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra mạnh
mẽ. Tiêu biểu là phong trào cần vương theo con đường phong kiến, hoạt động
của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh theo khuynh hướng tư sản. Các hoạt
động yêu nước diễn ra manh mẽ nhưng cuối cùng đều thất bại. Những con
đường đó khơng đáp ứng được u cẩu của cuộc cách mạng, yêu cầu cần có
con đường giải phóng dân tộc mới
Vào tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê nin đăng trên báo nhân đạo. người tìm

thấy trong luận cương của Lê Nin lời giải đáp về con đường giải phóng cho
nhân dân Việt Nam;về vấn đề thuộc địa trong mối quan hệ với phong trào cách
mạng thế giới… Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Tại Đại Hội Đảng Xã hội Pháp ( tháng 2 – 1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu
tán thành việc gia nhập quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng Sản
Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của người – từ người yêu nước trở thành người cộng sản và tìm thấy con đường
cứu nước đúng đắn: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con
đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”.
Việc lựa chọn con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc cũng xuất phát từ
tấm lòng yêu quê hương, đất nước vơ bờ, với sự quyết tâm tìm ra con đường
cứu nước cao cả, tất cả trở thành động lực, hun đún thành ngọn lửa cứu nước,

3


và bằng tài năng mẫn cảm chính trị của mình cũng như những hoạt động miệt
mài, Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường giải phóng cho cả dân tộc.
Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc cho nhân
dân Việt Nam. Và thực tế lịch sử đã chứng minh sự lựa chọn đúng đắn đó.
Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam thành lập, đánh dấu sự thắng lợi của
khuynh hướng cách mạng vô sản. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945,
thắng lợi cuộc kháng chiến chống pháp (1954) và kháng chiến chống Mỹ (1975)
cũng như thắng lợi của công cuộc Đổi mới hiện nay càng chứng tỏ hướng đi
đúng đắn của dân tộc và người có vai trị quan trọng nhất trong việc tìm ra và
đặt nền tảng cho cách mạng Việt Nam khơng ai khác, đó là Nguyễn Ai Quốc –
Hồ Chí Minh vĩ đại.

Câu 2: Bằng các sự kiện lịch sử có chọn lọc, chứng minh sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu lịch sử?

Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử hào hung nhất,
oanh liệt nhất và vẻ vang nhất. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời mở ra một
bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam. Với cương lĩnh đúng đắn, Đảng ra
đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta, là
nhân tố quyết định phương hướng phát triển và đưa đến thắng lợi trong sự
nghiệp giành độc lập, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Kể từ khi có Đảng, nhân dân
ta đã thốt khỏi ách nơ lệ đứng lên làm chủ đất nước từ thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hồ; tiếp đó
là thành cơng của cơng cuộc đổi mới đất nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra
đời, cách mạng Việt Nam thật sự trở thành một bộ phận khăng khít của cách
mạng thế giới. Kể từ đây, cách mạng Việt Nam nhận được sự ủng hộ của cách
mạng thế giới, đồng thời cũng đóng góp to lớn cho cách mạng thế giới. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã và đang khẳng định được uy tín ngày càng
vững chắc trên trường quốc tế. (THÍCH THÌ GHI)
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời là kết quả của quá trình vận động hợp quy luật,
của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác – Lênin, phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; đã chấm dứt thời kỳ khủng
hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước ở nước ta từ cuối thế
kỷ XIX – đầu thế kỷ XX. Sự kiện đó chứng tỏ giai cấp cơng nhân nước ta đã
trưởng thành “đủ sức lãnh đạo cách mạng”. Từ đây, giai cấp cơng nhân Việt
Nam đã có một bộ tham mưu của giai cấp và dân tộc lãnh đạo, đánh dấu sự
chiến thắng của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với các trào lưu tư tưởng phi vô
sản.

4


Tính tất yếu lịch sử:
-


Từ hồn cảnh lịch sử thế giới (THÍCH THÌ GHI)
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh
tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Chính bước chuyển này đã làm
cho mâu thuẫn trong thế giới TBCN ngày càng trở nên gay gắt. Mâu
thuẫn này tạo ra tính tất yếu của cách mạng vô sản, phạm trù cách
mạng thế giới chuyển sang phạm trù cách mạng vô sản, cách mạng
XHCN. Cùng với mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi nước tư bản thì
thời điểm này cũng xuất hiện mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau
do tranh giành thuộc địa, phân chia thị trường và khu vực ảnh hưởng.
Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cuộc đại chiến thế giới lần thứ
nhất (1914- 1918). Đặc biệt là sự thống trị tàn bạo của CNĐQ làm cho
mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với CNĐQ thực dân ngày càng
trở nên gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại.
Cuộc cách mạng Tháng Mười Nga 1917 cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn
tới sự ra đời của hàng loạt các đảng cộng sản. Tình hình đó địi hỏi phải
có một tổ chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập trung sức mạnh của phong
trào ở tất cả các quốc gia, dân tộc (Quốc tế II đã khơng cịn vai trò tiên
phong kể từ sau khi Ăngghen qua đời năm 1895). Tháng 3- 1919, Quốc
tế Cộng sản được thành lập, với khẩu hiệu "Vô sản thế giới và các dân
tộc bị áp bức đoàn kết lại" đã đánh dấu một giai đoạn mới của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế. "Lần đầu tiên trong lịch sử, quốc tế
Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu, liên minh chiến đấu giữa giai
cấp vô sản và các dân tộc thuộc địa đang rên xiết dưới ách thống trị
thực dân".

-

Ảnh hưởng đến Việt Nam: (THÍCH THÌ GHI)
Những năm 50, 60 của TK XIX, Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược.

Sau khi hoàn thành việc xâm lược và bình định vũ trang, thực dân Pháp
đã thiết lập bộ máy chính trị trên khắp đất nước. Chúng đã ngang nhiên
tiến hành những cuộc khai thác thuộc địanhằm khai thác tài ngun,
bóc lột nhân cơng rẻ mạt. Chính sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và
Đông Dương là chuyên chế về chính trị, kìm hãm về kinh tế, cái được
chúng rêu rao là “sứ mạng khai hoá” thực chất là khai thác thuộc địa
bằng lưỡi lê, họng súng, giá treo cổ và hãm hiếp phụ nữ. Dưới ách
thống trị đó, mâu thuẫn cơ bản vốn có trong lịng xã hội Việt Nam
phong kiến cũ ngày càng sâu sắc và gay gắt thêm.

5


Tiền đề lý luận và thực tiễn:
– Về lý luận: Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân phát triển mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lí luận khoa học
với tư cách là vũ khí tư tưởng của giai cấp cơng nhân chống chủ nghĩa tư bản.
Trong hồn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển và
trở thành chủ nghĩa Mác -Lênin. Chủ nghĩa Mác -Lênin chỉ rõ, muốn giành
được thắng lợi trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai
cấp công nhân phải lập ra đảng cộng sản. Sự ra đời của đảng cộng sản là yêu
cầu khách quan đáp ứng cuộc dấu tranh của giai cấp công nhân chống áp bức,
bóc lột. Kể từ khi chủ nghĩa Mác -Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong
trào yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh theo khuynh hướng
cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -Lênin vào
thực tiễn cách mạng Việt Nam, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Về thực tiễn: Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Sau
khi tạm thời dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân
Pháp từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam. Dưới tác động của

chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã hội Việt
Nam diễn ra q trình phân hóa sâu sắc. Hình thành giai cấp địa chủ, giai cấp
nông dân, giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp tư sản Việt Nam, tầng lớp tiểu
tư sản Việt Nam. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ
đến xã hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong
đó đặc biệt là sự ra đời của hai giai cấp mới: Công nhân và tư sản Việt Nam.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận
người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân Pháp và
phong kiến tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu
thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ
phong kiến, trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể dân
tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Trước sự xâm luợc của thực dân
Pháp, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc theo khuynh hướng phong kiến
và tư sản diễn ra mạnh mẽ. Những phong trào tiêu biểu trong thời kì này là:

6


+ Cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) diễn ra từ năm 1884. Nghĩa quân Yên
Thế đã đánh thắng Pháp nhiều trận và gây cho chúng nhiều khó khăn, thiệt hại.
Cuộc chiến đấu của nghĩa quân Yên Thế kéo dài đến năm 1913 thì bị dập tắt.
+ Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), các cuộc khởi nghĩa vũ
trang chống Pháp của nhân dân Việt Nam vẫn tiếp diễn, nhưng đều không
thành công.
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư
tưởng phong kiến không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước giải
quyết thành công nhiệm vụ dân tộc ở Việt Nam.
Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa nêu trên, đầu thế kỉ XX, phong trào yêu nước
dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân

chủ tư sản diễn ra sôi nổi. Về mặt phương pháp, tầng lớp sĩ phu lãnh đạo phong
trào giải phóng dân tộc đầu thế kỉ XX có sự phân hóa thành hai xu hướng. Một
bộ phận chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, khôi phục
chủ quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động; một bộ phận khác lại coi cải
cách là giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập. Đại diện của xu hướng bạo
động là Phan Bội Châu, với chủ trương dùng biện pháp bạo lực để đánh đuổi
thực dân Pháp, khôi phục nền độc lập cho dân tộc. Đại biểu cho xu hướng cải
cách là Phan Châu Trinh, với chủ trương vận động cải cách văn hóa, xã hội;
động viên lịng u nước trong nhân dân; đả kích bọn vua quan phong kiến thối
nát, đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản; thực hiện khai dân trí, chấn dân khí, hậu
dân sinh, mở mang dân quyền; phản đối đấu tranh vũ trang và cầu viện nước
ngoài.
Ngoài ra, trong thời kì này ở Việt Nam cịn có nhiều phong trào đấu tranh khác
như: Phong trào Đông Kinh nghĩa thục (1907); Phong trào “tẩy chay Khách
trú” (1919); Phong trào chống độc quyền xuất nhập khẩu ở cảng Sài Gòn
(1923); đấu tranh trong các hội đồng quản hạt, hội đồng thành phố… đòi cải
cách tự do, dân chủ… Từ trong phong trào đấu tranh, các tổ chức đảng phái ra
đời: Đảng Lập hiến (năm 1923); Đảng Thanh niên (tháng 3/1926); Đảng Thanh
niên cao vọng (năm 1926); Việt Nam nghĩa đoàn (năm 1925), sau nhiều lần đổi
tên, tháng 7/1928 lấy tên là Tân Việt cách mạng Đảng; Việt Nam quốc dân
Đảng (tháng 12/1927). Các đảng phái chính trị tư sản và tiểu tư sản trên đây đã
góp phần thúc đẩy phong trào yêu nước chống Pháp, trong đó nổi bật là Tân
Việt cách mạng Đảng và Việt Nam quốc dân Đảng.
Tóm lại, trước yêu cầu lịch sử của xã hội Việt Nam, các phong trào đấu tranh
chống Pháp diễn ra sôi nổi. Mục tiêu của các cuộc đấu tranh ở thời kì này đều

7


hướng tới giành độc lập cho dân tộc, nhưng trên các lập trường giai cấp khác

nhau nhằm khôi phục chế độ phong kiến, hoặc thiết lập chế độ quân chủ lập
hiến, hoặc cao hơn là thiết lập chế độ công hoà tư sản. Các phong trào đấu
tranh diễn ra với các phương thức và biện pháp khác nhau: bạo động hoặc cải
cách; với quan điểm tập hợp lực lượng bên ngoài khác nhau: dựa vào Pháp để
thực hiện cải cách, hoặc dựa vào ngoại viện để đánh Pháp… nhưng cuối cùng
các cuộc đấu tranh đều thất bại. Một số tổ chức chính trị theo lập trường quốc
gia tư sản ra đời và đã thể hiện vai trị của mình trong cuộc đấu tranh giành độc
lập và dân chủ. Nhưng các phong trào và tổ chức trên, do những hạn chế về
giai cấp, về đường lối chính trị; hệ thống tổ chức thiếu chặt chẽ; chưa tập hợp
được rộng rãi lực lượng của dân tộc, nhất là chưa tập hợp được hai lực lượng
xã hội cơ bản (công nhân và nông dân) nên cuối cùng đã không thành công. Sự
thất bại của các phong trào yêu nước theo lập trường quốc gia tư sản ở Việt
Nam đầu thế kỉ XX đã phản ánh địa vị kinh tế và chính trị yếu kém của giai cấp
tư sản trong tiến trình cách mạng dân tộc, phản ánh sự bất lực của họ trước
những nhiệm vụ do lịch sử dân tộc Việt Nam đặt ra.Mặc dù thất bại nhưng sự
phát triển mạnh mẽ của phòng trào yêu nước cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX có
ý nghĩa rất quan trọng. Nó là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, kiên cường,
bất khuất vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, và chính sự phát triển của
phong trào yêu nước đã tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa
Mác – Lênin, quan điểm cách mạng Hồ Chí Minh. Phong trào yêu nước trở
thành một trong ba nhân tố dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp cuối thế kỉ XIX,
đầu thế kỉ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và
hệ tư tưởng tư sản đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình trạng khủng
hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là
phải tìm một con đường cách mạng mới, với một giai cấp có đủ tư cách đại
biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín và năng lực để lãnh
đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành cơng.

Câu 3: Tại sao nói Cương lĩnh chính trị đầu tiên do Nguyễn Ái Quốc

soạn thảo là Cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo, là sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa tính dân tộc tính giai cấp và tính Nhân văn?
Đường lối lãnh đạo là một trong những vấn đề chiến lược của mỗi Đảng cầm
quyền. Xác định được điều đó,ngay từ khi ra đời,tại hội nghị thành lập
Đảng,các đại biểu đã thơng qua Chính cương vắn tắt,sách lược vắn tắt,điều lệ
tóm tắt,đó được coi như là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta.Mặc dù
cịn sơ lược,vắn tắt nhưng nó đã khẳng định tính đúng đắn sáng tạo khoa học và

8


trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta trong mọi thời kì cách
mạng và đặc biệt có giá trị trong thời đại ngày nay.
a/Tại thời điểm năm 1930: Tính đúng đắn, sáng tạo của Cương lĩnh được thể
hiện ở những vấn đề sau:
*Về cơ sở lí luận: Cương lĩnh đã dựa trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa
Mác-Lênin, một hệ thống lí luận tiến bộ đúng đắn và khoa học.
Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách
mạng tư sản dân quyền và Cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách
mạng này kế tiếp nhau, khơng có bức tường nào ngăn cách. Cương lĩnh chủ
trương: "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản". Qua đó, ta thấy rằng: ngay từ đầu, Đảng ta đã nhận thức rõ con
đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là kết hợp và gương cao hai
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là điều hồn tồn đúng đắn vì
nó phù hợp với hồn cảnh cụ thể của lịch sử nước ta. Đồng thời, chúng ta cũng
thấy được sự vận dụng sáng tạo và hợp lí lí luận cách mạng khơng ngừng của
chủ nghĩa Mác-Lênin, Cương lĩnh khẳng định, nhiệm vụ của cách mạng tư sản
dân quyền ở nước ta là chống đế quốc và chống phong kiến. Điều này cũng thể
hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Tính đúng đắn và sáng tạo thể
hiện ở chỗ Cương lĩnh đã giải quyết đúng hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt

Nam và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt
Nam. Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là: Mâu thuẫn giữa toàn
thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược; mâu thuẫn giữa nông dân
với địa chủ phong kiến. Cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi phải giải
quyết thành cơng hai mâu thuẫn đó, nghĩa là phải hoàn thành hai nhiệm vụ mà
Cương lĩnh đã đề ra.
*Về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ trên: Cương lĩnh đã đề cao vấn đề dân tộc
hơn vấn đề đấu tranh giai cấp và chống phong kiến là đúng đắn và sáng tạo. Vì:
Xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn như vừa nêu trên, nhưng mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp là mâu thuẫn bao trùm, chi phối việc
giải quyết các mâu thuẫn khác, vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề bức xúc
nhất.
*Về lực lượng cách mạng: Cương lĩnh xác định, ngồi giai cấp cơng nhân, thì
cách mạng "phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức và trung nơng...để kéo
họ về phe vơ sản giai cấp. Cịn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản
An Nam mà chưa lộ rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm
cho trung lập". Như vậy, ngồi cơng nhân và nơng dân là hai lực lượng chính
của cách mạng, Cương lĩnh chủ trương phải tranh thủ các lực lượng khác: tư
sản dân tộc, tiểu tư sản, trung tiểu địa chủ các loại. Điều đó hồn toàn phù hợp

9


với thực tế của lịch sử Việt Nam. Vì các giai cấp khác ngồi cơng nhân và nơng
dân, có một số bộ phận khác cũng có tinh thần yêu nước, như: Tư sản dân tộc,
tiểu tư sản, địa chủ yêu nước..., vì thế, cần phải tranh thủ kéo họ về phe cách
mạng. Đó cũng là vấn đề thể hiện sự ưu tiên hơn cho nhiệm vụ giải phóng dân
tộc của Cương lĩnh, đều hồn tồn hợp lí và đúng đắn.
Cương lĩnh đã xác định đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng:
Cách mạng muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một

chính đảng của giai cấp cơng nhân. Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt
Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Đây cũng là một nội dung thể
hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Vì: giai cấp tư sản ở các nước,
trong thực tế đã cấu kết với nhau để đàn áp phong trào đấu tranh của giai cấp
cơng nhân ở chính quốc và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa. Cho nên cách mạng ở các nước thuộc địa muốn thắng lợi thì nhân
dân các nước thuộc địa phải đoàn kết với nhau và đoàn kết với giai cấp vơ sản
trên thế giới. Tóm lại Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta là một cương
lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về
quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc.

Câu 4: Vai trị lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc
(1930-1945)?
Thời kỳ 1930-1945, cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong lãnh đạo là
ĐCS với cương lĩnh chính trị đúng đắn, đưa cách mạng nước ta phát triển theo
xu thế của thời đại đã đc mở ra từ Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Q
trình đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền đã diễn ra với 3 cao trào
cách mạng có ba ý nghĩa như 3 cuộc diễn tập chuẩn bị cho cuộc cách mạng
tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân. Trong sự nghiệp giải phóng dân
tộc giai đoạn 1930-1945, Đảng có những vai trị quan trọng cụ thể như sau:
Thứ nhất, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cứu nước, giải phóng
dân tộc, xác định đúng đắn đường lối cách mạng, đưa dân tộc bước vào kỷ
nguyên mới của độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Trước năm 1930 khi chưa có Đảng, đất nước ta chìm đắm dưới ách thống trị,
áp bức hơn 80 năm của chủ nghĩa thực dân Pháp và hàng trăm năm của chế độ
phong kiến thối nát. Biết bao cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân
dân ta đã liên tiếp nổ ra nhưng kết cục đều thất bại do thiếu một đường lối
chính trị đúng đắn soi đường. Phong trào đấu tranh dưới ngọn cờ "Cần Vương"
của các sĩ phu yêu nước lãnh đạo cùng với các cuộc khởi nghĩa nông dân lấy hệ

tư tưởng phong kiến làm nền tảng đã tỏ ra lỗi thời, bất lực trước các nhiệm vụ
lịch sử. Chỉ có phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân liên
minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác dưới ngọn
cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sáng lập, lấy chủ

10


nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam trong hành động cách
mạng, kiên trì mục tiêu đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã
hội là giành được những thắng lợi vẻ vang.
Ngay từ những năm đầu thập niên 20, thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã có sự lựa
chọn đúng đắn khẳng định con đường đi đến thắng lợi của cách mạng Việt
Nam: "khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Trải qua
thực tiễn cuộc sống, hoạt động cách mạng phong phú và tiếp thu chân lý khoa
học, Người đã đi đến kết luận chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu được nhân
loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do,
bình đẳng, bác ái, đồn kết, ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì
mọi người, niềm vui, hồ bình, hạnh phúc.
Từ khi có Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã trải qua những chặng đường
đấu tranh oanh liệt và thắng lợi vẻ vang, từng bước mang lại độc lập, tự do, ấm
no, hạnh phúc cho nhân dân, minh chứng ở đây chính là sự thành công của
cuộc cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
ra đời (2/9/1945) mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam - độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân được chuẩn bị
mọi mặt sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến.
Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cao trào cách mạng
1930 - 1931, đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho cách mạng tháng
Tám. Cao trào dân chủ 1936 - 1939, là cuộc tổng diễn tập thứ 2 chuẩn bị cho

cách mạng tháng tám. Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945 là cuộc
diễn tập thứ ba trực tiếp dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Đặc biệt,
trong thời kỳ cao trào kháng Nhật, cứu nước (thời kỳ tiền khởi nghĩa), sau chỉ
thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12/3/1945, Đảng
lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần, làn sóng khởi nghĩa phát
triển mau lẹ, kịp thời và dâng lên gần như đồng thời ở nhiều nơi... Trong thời
kỳ tiền khởi nghĩa, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt. Nhân dân
Việt Nam, nhất là quần chúng trong các tổ chức Cứu quốc, từ lâu đã sẵn sàng
hy sinh để giành độc lập, quyết tâm chiến đấu.
Thứ ba, Đảng tích cực vận động, lơi kéo tầng lớp trung gian đứng về phía
cách mạng.
Trong hệ thống lý luận của giai cấp vô sản, vấn đề tranh thủ tầng lớp trung gian
có tầm quan trọng lớn mặc dù về cơ bản tầng lớp trung gian khơng đóng vai trị
đầu tàu quyết định trong những bước ngoặt của lịch sử. Nhưng khi các tầng lớp
trung gian ngả về phía cách mạng thì nó tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cách
mạng thành công. Trái lại, nếu Đảng lãnh đạo cách mạnh không tranh thủ được
tầng lớp trung gian, thì nhiều khi thời cơ đã chín muồi mà vẫn khơng thể làm
cách mạng thắng lợi nhanh chóng được.

11


Tình cảnh khó khăn của tầng lớp trung gian là tiền đề tạo ra khả năng lôi cuốn
họ vào con đường đấu tranh chống Pháp - Nhật. Nhưng từ khả năng đến hiện
thực là cả một quá trình vận động. Chính sách của Đảng với tầng lớp trung gian
trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám là: phê bình, uốn nắn, vạch đường lối,
chân thành đoàn kết cùng nhau đưa cách mạng đến thành cơng. Chẳng những
thẳng thắn phê bình mà Đảng cịn chân thành đồn kết trong hành động thực tế.
Đảng giúp đỡ các tầng lớp trung gian lập ra tổ chức của mình để phát huy năng
lực phục vụ Tổ quốc.

Tuy vậy, cho đến cuộc đảo chính của Nhật ngày 9/3/1945 các tầng lớp trung
gian tham gia phong trào cách mạng chống Nhật - Pháp vẫn chưa đông đảo.
Sau đảo chính, nhiều nhân vật trung gian vẫn trải qua một bước dao động ngắn
rồi với mạnh dạn tham gia phong trào cứu quốc một cách đông đảo. Một số
đông quần chúng trung gian thoạt đầu còn bị mắc lừa Nhật và bọn tay sai Đại
Việt quốc gia liên minh vì tưởng rằng Nhật đã ban cho mình độc lập thật, cứ
thế mà hưởng. Một số nhân vật trung gian khác, tuy hiểu rằng Nhật chẳng tốt
đẹp gì, nhưng thiếu quan điểm đấu tranh cách mạng nên lập lờ chủ trương lợi
dụng Nhật hoặc lợi dụng chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim để xây dựng lực
lượng cho Việt Nam để sau này Nhật thua có thể chống Pháp nếu Pháp quay
trở lại xâm lược lần nữa, điển hình là tổ chứcTân Việt Nam hội. Hơn nữa, bộ
mặt có vẻ trung gian của nội các bù nhìn Trần Trọng Kim cũng làm cho nhiều
người mắc lừa…
Trước tình hình đó, Đảng chủ trương phải vạch mặt chính phủ bù nhìn Trần
Trọng Kim “Thân phận bù nhìn của nó chỉ giữ được bù nhìn, phương châm của
nó hứa hẹn nhiều nhưng thực hành ít, hay thực hành trái với lời hứa. Nhiệm vụ
của nó là bọc nhung cho ách Nhật và hùa với giặc áp bức bóc lột nhân dân”, và
bóc dần cái vẻ độc lập giả hiệu của phát xít Nhật... Sự phê bình, giúp đỡ của
Đảng đã làm cho quần chúng trung gian dần dần tỉnh ngộ và đi theo cách mạng.
Mặt khác, thực tiễn chứng minh những điều phê bình chỉ dẫn của Đảng là đúng.
Ngày 13/8/1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng minh tầng lớp trung gian nói
chung đều theo cách mạng.
Thứ tư, Đảng luôn nhạy bén, bám sát tình hình thời cuộc để xác định đúng
đắn nhiệm vụ, phương pháp cách mạng phù hợp đưa đất nước tiến lên
giành nhiều thắng lợi to lớn.
Ngay từ năm 1930 tại Hội nghị thành lập Đảng, Chánh cương vắn tắt của Đảng
xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp
và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập". Đường lối
chiến lược và sách lược của Đảng đúng đắn ngay từ đầu và không ngừng được
bổ sung, phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.

Trong thực tiễn, Đảng ln kết hợp chặt chẽ giữa kiên trì chuẩn bị lực lượng
với nắm vững thời cơ, khi thời cơ đến đã biết chớp lấy, kịp thời tổ chức, động
viên nhân dân cả nước đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Hội nghị Trung

12


ương lần thứ tám của Đảng (10/5 - 19/5/1941) đã có quyết định chuyển hướng
chiến lược đấu tranh cách mạng kịp thời thành lập Mặt trận Việt minh, ra lời
kêu gọi toàn thể dân tộc Việt Nam đoàn kết, đứng lên chống phát-xít, giành lại
độc lập tự do cho dân tộc. Sau khi phát-xít Đức, Ý bại trận, phát-xít Nhật sửa
soạn đầu hàng (7/1945), Hồ Chí Minh vẫn rất sáng suốt nhận định thời cơ
cách mạng đang đến gần và nhắc nhở các đồng chí Trung ương: "Lúc này thời
cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn
cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập".
Ngay sau ngày giành được độc lập (02/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta đã khẩn trương lãnh đạo nhân dân cả nước bắt tay vào thực hiện đồng thời
hai nhiệm vụ chiến lược gắn xây d ựng với bảo vệ chính quyền cách mạng;
trong đó trọng tâm là xây dựng, lấy xây dựng làm điều kiện cho bảo vệ.
Tóm lại, ĐCS VN được xem là nhân tố quyết định hàng đầu trong việc thực
hiện sứ mệnh lãnh đạo nhân dân giải phóng dân tộc. Qua thực tiễn chỉ đạo cách
mạng từ năm 1930-1945, Đảng ta đã thể hiện nắm vững Chủ nghĩa Mác-Leenin,
không những vận dụng một các sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam mà
còn vận dụng một cách sáng tạo, khoa học trong những thời kỳ khác nhau: thời
kỳ cách mạng đi lên hoặc ngay trong cả những lúc cách mạng gặp khó khăn,
khơng nh ững trong việc đề ra đường lối chính sách mà cịn cả trong chỉ đạo
thực tiễn cuộc đấu tranh diễn ra từng giờ, từng ngày. Trên cơ sở nắm vững tình
hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, Đảng ta đã kịp thời cụ thể hóa
đường lối cách mạng của mình, đề ra nhiệm vụ thích hợp cho từng thời kỳ.


Câu 5: Tính chất, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của cuộc Cách
mạng Tháng Tám 1945?
Thứ nhất: Tính chất của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945:
Cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng mang tính chất dân
tộc dân chủ nhân dân
Khái niệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: là cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc, giải phóng đất nước thốt khỏi sự đơ hộ của các nước đế quốc, thực
dân. Cách mạng tháng 8 năm 1945: Tồn dân khơng phân biệt tầng lớp, giai
cấp, là cơng dân Việt Nam đều có quyền và nghĩa vụ đánh đuổi đế quốc giành
độc lập. Dân chủ nhân dân là sau khi giành được độc lập dân tộc thì quyền lợi,
nghĩa vụ của mọi công dân không phân biệt trí thức, cơng nhân, nơng dân đều
có quyền bình đẳng như nhau; Thực hiện nghĩa vụ công dân và pháp luật của
nhà nước như nhau, được hưởng phúc lợi xã hội như nhau. Nhà nước của dân,
do dân và vì dân.
Thứ hai: Ý nghĩa lịch sử

13


Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kiện vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, là điển hình của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cuộc cách mạng
đó đã đánh đổ chế độ thuộc địa của thực dân Pháp và phát xít Nhật áp đặt trên
đất nước ta kéo dài hơn 80 năm, lật nhào chế độ phong kiến hàng ngàn năm.
Nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập. Nhân dân ta từ thân
phận nô lệ trở thành người chủ đất nước. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã
mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự sụp đổ đầu tiên của chủ nghĩa thực dân
cũ trên thế giới, là thắng lợi đầu tiên của phong trào giải phóng dân tộc ở một
nước thuộc địa, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của

các nước thuộc địa trên thế giới.
Cách mạng Tháng Tám đã đánh dấu sự thắng lợi của đường lối cách mạng và
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân
dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp
bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách
mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã
lãnh đạo cách mạng thành cơng, đã nắm chính quyền tồn quốc”.
Kết luận Cách mạng tháng Tám giành thắng lợi được diễn ra trong hồn cảnh
quốc tế và trong nước có nhiều thuận lợi. Khi mà ở trên chiến trường quốc tế
Hồng Quân Liên Xô giành được những thắng lợi quan trọng, phát xít Đức gặp
nhiều khó khăn và nhận lấy thất bại trên chiến trường Châu Âu…
Trong bối cảnh các nước đế quốc đang lăm le xâm chiếm nước ta cùng với việc
Nhật đảo chính Pháp để độc chiếm Đơng Dương càng tạo điều kiện để Đảng ta
đưa ra những quyết định quan trọng để chớp lấy thời cơ làm cuộc Tổng khởi
nghĩa giành thắng lợi. Cuộc Tổng khởi nghĩa diễn ra với những chiến thắng
quan trọng ở các địa phương ở trên cả nước. Với chiến thắng của cuộc Tổng
khởi nghĩa đã tạo ra những ý nghĩa quan trọng đối với lịch sử dân tộc nước nhà,
mang lại những bài học kinh nghiệm quý báu về chiến lược, sách lược của
Đảng. Xin được trích câu nói: “ Dân tộc ta có lịng u nước nồng nàn. Đó là
một truyền thống quý báu của ta…” để chứng minh cho tinh thần yêu nước
nồng nàn đó.
Thứ ba: Bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945:
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu,
nổi bật là:
Bài học thứ nhất là có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ
nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn
cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có
phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng


14


lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.
Bài học thứ hai là vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo
xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút
được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa
ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành cơng. Để
giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên
sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài.
Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng
thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Bài học thứ ba là vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định
chính xác và kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng
lúc thể hiện cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945
“Nhật –
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban
khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13-8-1945.

15


CHƯƠNG 2:

Câu 1: Vì sao nói sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 Viêt Nam rơi vào
tình thế “ngàn cân treo sợi tóc"?
Sau Cach ma ng thang 8 ngan cân treo sơi toc la tinh hinh cua nươ c ta luc đo.

Chinh phu lâm thơi vưa thanh lâ p do Hô Chu tich
 đưng đâ u con non tre. Quân
Đô ng minh đang un un keo vao nươc ta vơi tư cach giai giap quân Phat xit
Nhâ t, nhưng thưc tê la Phap va Anh đang lăm le quay la i xâm chiê m. Trong
nươc, nhưng thanh phâ n phan cach ma n g vân ra sưc chô ng pha chinh quyê n
non tre. Phia Bă c, 20 va n quân Tương cung đang keo vao nươ c ta nhă m lât đô
cach ma ng. Ca thu trong, giă c ngoai đê u phai đô i pho.
Trong khi đo, ta vưa trai qua cuô c chiê n keo dai, tô n thâ t, thiê t ha i râ t lơn vê
kinh tê – xa hô i. Ngân sach trô ng rông, mâ t mua, đoi kem, cac tê  na n xa hô i
 mu chư… Kho khăn la i chô ng
tran lan, hơn 90% ngươ i dân trong tinh trang
châ t kho khăn.
Nhưng Chinh phu lâm thơi tuy mơi thanh lâ p cung đa to ro đươc sư khe o leo
cua minh trong viêc giai quyê t cac thach thưc lơn như vâ y. Ngay 6/1/1946, ta
tiê n hanh Tô ng tuyê n cư trên ca nươc, bâ u ra Quô c hô i va lâ p Hiê n phap, pha đi
âm mưu chia re va lâ t đô cu a ke thu. Tiê p đê n la chô ng la i “giă c đoi” va “giăc
 lâ p “Hu gao cư u đoi”, phat đô n g “Tuâ n lê
dô t”. Quyên gop tiê n, thưc ăn, gao,
vang”, tăng gia san xuâ t… Toan dân chung tay chia se, đum bo c nhau vươt qua
kho khăn. Chinh phu ky să c lê nh “Binh dân ho c vu ”, mơ cac lơp phô câ p giao
du c câ p tô c cho mo i ngươi, đâ y lui na n dô t.
Vơi giă c ngoa i xâm, ta chu trương hoa vơi Tương đê tâ p trung chô ng Phap ơ
miê n Nam, nhươ ng cho chung mô t sô quyê n lơi kinh tê , chinh tri. Đê n ngay
 sơ bô , chuyê n sang hoa vơi Phap đê đuô i
6/3/1946, ta ky vơ i Phap Hiê p đinh
Tương vê nươc. Đê n ngay 14/9, ta ky tiê p Ta m ươ c vơi Phap, nhươ ng tiê p mô t
sô quyê n lơi đê tâ p trung nguô n lưc chuâ n bi  khang chiê n chô ng Phap lâu dai.
Nhơ vâ y, ta co thê tranh đươc ca thu trong va giă c ngoai.
Co thê noi, nhưng thach thưc sau Cách mạng tháng 8 ngàn cân treo sợi tóc khi
â y thâ t sư vô cung kho khăn vơi mô t Chinh phu mơi, con non tre cua chung ta.

Thê nhưng, bă ng đươ ng lô i lanh đao kheo leo, đung đă n, cu ng sư đoan kê t toan
dân, chung ta đa vươt qua đươc tâ t ca va tiê p tu c giư vưng nê n đô c lâ p, tư do
cho dân tô c.

16


Câu 2: Hãy chứng minh thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp ( 1946 – 1954 ) là kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân: ‘’
toàn dân, tồn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính’’
Đề có thể chứng minh được thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp ( 1946 – 1954 ) là kết kết quả của cuộc chiến tranh nhân nhân thì đường
lối chiến tranh nhân dân là một minh chứng rỏ rang, đầy đủ nhất cho sự thắng
lợi vẻ vang này.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta (1946-1954)
là một điển hình về một dân tộc nhỏ bé có thể thắng một dân tộc lớn, một qn
đội trang bị vũ khí kém có thể thắng một đội qn xâm lược đơng có trang bị
tốt hơn. Đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngọn đuốc rực sáng đã dẫn dắt nhân dân ta
làm nên thắng lợi vẻ vang. Đường lối đó là một mẫu mực về tính kiên cường và
tinh thần sáng tạo, những đức tính thuộc bản chất của đảng Mác - Lênin chân
chính.
Đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh có những
quan điểm cơ bản là: Phát động và tổ chức toàn dân kháng chiến; kháng chiến
tồn diện trên tất cả các mặt trận: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại
giao; kháng chiến lâu dài; dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự
giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của cả loài người
tiến bộ. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về chiến tranh cách mạng với truyền thống và tinh hoa về nghệ thuật
đánh giặc, giữ nước của tổ tiên và những kinh nghiệm về nghệ thuật chỉ đạo
chiến tranh của các nước anh em và của thế giới.

Đường lối đó giải quyết được khó khăn lớn nhất mà nhân dân ta phải vượt qua
là: muốn giành thắng lợi thì phải có sức mạnh hơn địch mà trong thời kỳ đầu
của chiến tranh thì lực lượng vũ trang của ta so với đội quân xâm lược chỉ như
lạng với cân trên cán cân so sánh lực lượng. Chủ trương kháng chiến toàn dân;
kháng chiến tồn diện; đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính... là chủ trương
điều khiển chiến tranh bằng sự vận dụng sáng tạo các quy luật của chiến tranh
chính nghĩa và nắm vững các quy luật của chiến tranh phi nghĩa; những quan
điểm gốc về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Sức mạnh của một cuộc cách mạng, của chiến tranh cách mạng là sức mạnh
của nhân dân. Nhân dân tạo ra mọi sức mạnh. Cuộc chiến tranh chính nghĩa
chống xâm lược, giải phóng dân tộc, nhân dân đều đứng dậy chiến đấu để bảo
vệ quyền sống, quyền tự do của mình. Trong cuộc chiến tranh chống thực dân
Pháp, sức mạnh đó lại càng có tính quyết định. Vì Nhà nước ta vừa mới được
thành lập, còn rất non trẻ. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh có đường lối đúng
đắn nên đã tổ chức phát động được nhân dân đông đảo nhất, mạnh mẽ nhất
trong lịch sử dân tộc và có tính độc đáo sáng tạo của thời đại. Đó là cơ sở để cơ

17


quan lãnh đạo kháng chiến tổ chức chiến tranh nhân dân; huy động tồn dân
đánh giặc.
Tuy nhiên cũng có cuộc chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược, nhưng cơ
quan lãnh đạo chiến tranh khơng có đường lối chính trị, đường lối qn sự
đúng đắn và khơng có nghệ thuật qn sự tài giỏi thì cũng khơng giành được
thắng lợi. Nhân tố chính nghĩa trong thời đại ngày nay có ý nghĩa rất lớn.
Lênin đã nói: "Khơng bao giờ người ta có thể đánh bại được một dân tộc trong
đó bộ phận lớn công nhân và nông dân do kinh nghiệm đã hiểu rằng và đã
nghiệm thấy rằng họ bảo vệ chính quyền của họ...". Phát động và tổ chức tồn
dân đánh giặc là phát triển không ngừng cả về số lượng và chất lượng của lực

lượng, và từ đó có thể vận dụng nhiều phương thức đấu tranh vô cùng phong
phú, sinh động và có hiệu quả cao.
Q trình kháng chiến diễn ra đúng như lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
"Bất kỳ đàn ơng, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm
thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu
nước”. Đó là kết quả tuyệt vời về huy động lực lượng kháng chiến trong lịch sử
chống xâm lược của dân tộc ta.
Sức mạnh của nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo là sức mạnh dời non lấp
biển. Kháng chiến lâu dài nhưng tích cực tiến công tiêu diệt sinh lực địch, phá
âm mưu chiến lược của chúng, tranh thủ giành thắng lợi trong thời gian nhanh
nhất là tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thời gian dài,
ngắn phụ thuộc vào so sánh lực lượng hai bên và tuỳ thuộc vào tốc độ chuyển
hóa so sánh lực lượng do nỗ lực chủ quan của ta quyết định; nghệ thuật chỉ đạo
chiến tranh có vai trị to lớn. Sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta
trong suốt chín năm kháng chiến đã chứng minh điều đó.
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên
tồn dân tích cực tham gia kháng chiến. Xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của
cả nước, đánh địch ở mọi nơi, mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi
làng xã là một pháo đài, mỗi đường phố là một mặt trận”. Trong đó Quân đội
nhân dân làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc.

Kháng chiến toàn diện là đánh địch trên mọi lĩnh vực, mọi mặt trận không
chỉ bằng quân sự mà cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, ngoại giao,
trong đó mặt trận quân sự, đấu tranh vũ trang giữ vai trị mũi nhọn, mang tính
quyết định. Động viên và phát huy cho được mọi tiềm năng, sức mạnh của dân
tộc, mọi nguồn lực vật chất, tinh thần trong nhân dân phục vụ kháng chiến

18



thắng lợi.

Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng. Trường kỳ
kháng chiến là một quá trình vừa đánh tiêu hao lực lượng địch vừa xây dựng,
phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến
trường có lợi cho ta; lấy thời gian là lực lượng vật chất để chuyển hóa yếu
thành mạnh. Kháng chiến lâu dài nhưng khơng có nghĩa là kéo dài vô thời hạn
mà phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước nhảy
vọt về chất, thắng từng bước để đi đến thắng lợi cuối cùng.

Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược
trong chỉ đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền của
lãnh tụ Hồ Chí Minh. Phải lấy nguồn nội lực của dân tộc, phát huy nguồn sức
mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn
lực chủ yếu của cuộc chiến tranh nhân dân. Trên cơ sở đó, để tìm kiếm, phát
huy cao độ và có hiệu quả sự ủng hộ, giúp đỡ tinh thần và vật chất của quốc tế
khi có điều kiện. Lấy độc lập, tự chủ về đường lối là yếu tố quan trọng hàng
đầu.

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và đường lối kháng chiến của Đảng là
hoàn toàn đúng đắn, trở thành ngọn cờ dẫn đường, chỉ lối, động viên toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta tiến lên. Đường lối đó được nhân dân ủng hộ, hưởng ứng
trong suốt quá trình kháng chiến và trở thành một nhân tố quan trọng hàng đầu
quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.

Từ đó có thể thấy rằng thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp ( 1946 – 1954 ) là kết quả của cuộc chiến tranh nhân dân: ‘’ toàn dân,
toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính’’


Câu 3: Tại sao Đại hội III (1960) của Đảng được xem là đại hội hoàn
chỉnh Đường lối chiến lược cách mạng hai miền Nam - Bắc?
Vì trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Đại hội
lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hồ bình
thống nhất nước nhà".

19


Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do
đồng chí Lê Duẩn trình bày, thảo luận và thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ và
đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, thông qua Nhiệm vụ và phương
hướng của kế hoạch 5 năm lấn thứ nhất (1961 - 1965).
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Nghị quyết do Đại
hội thông qua về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới gồm
những vấn để lớn sau:
*Về đường lối cách mạng chung trong cả nước:
Căn cứ vào tình hình và đặc điểm nước ta, Đại hội đã xác định cách mạng Việt
Nam bước vào giai đoạn mới cùng lúc thực hiện hai chiến lược cách mạng
khác nhau: chi ến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến lược
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai chiến lược đó có mối
quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Mỗi chiến lược
cách mạng ở mỗi miền của đất nước có vị trí và trách nhiệm riêng trong mục
tiêu chung là hịa bình thống nhất Tổ quốc.
Miền Bắc sau khi hồn tồn giải phóng đã trở thành căn cứ địa cách mạng
chung của cả nước. Tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc được tăng
cường về mọi mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng ở
miền Nam, bảo đảm sự phát triển của cách mạng trong cả nước.
Vì vậy, "cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rõ ràng là nhiệm vụ quyết

định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự
nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta". Trong sự nghiệp hoàn thành cách
mạng dân tộc , dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà,
cách mạng miền Nam "có tác dụng quyết định trực tiếp đối vời sự nghiệp giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai".
Trong khi giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền, cả hai chiến lược cách mạng
ở hai miền đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn
giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu
chung trước mắt là hịa bình thống nhất Tổ quốc.
Từ những nhiệm vụ trên đây, Đại hội vạch ra nhiệm vụ chung của cách mạng
Việt Nam trong thời ký mới là: ''Tăng cường đồn kết tồn dân, kiên quyết đấu
tranh giữ vững hịa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc,

20


đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân lộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực
hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước
Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp
phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hịa bình ở Đông Nam Á và
thế giới".
*Về đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và đấu
tranh thực hiện thống nhất nước nhà:
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách
thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có
ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh.
Đại hội đề ra "Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng ở miền Nam là đoàn kết
toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh
đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngơ Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập

một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam. thực hiện độc lập dân
tộc, các quyền tự do dân chu và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hịa bình,
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân dân chủ, tích cực góp
phần bảo vệ hịa bình ở Đơng Nam Á và thế giới".
Cuộc đấu tranh cách mạng nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là nhiệm vụ
thiêng liêng của nhân dân cả nước. Đó là q trình đấu tranh cách mạng gay go,
gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở
miền Nam.
*Về đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc:
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là vấn đề trung tâm thảo
luận tại Đại hội. Xuất phát từ các đặc điểm của miền Bắc, trong đó, đặc điểm
lớn nhất là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Đại hội xác định: cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là một quá trình cải biến cách mạng về
mọi mặt, là một quá trình đấu tranh gay go giữa con đường xã hội chủ nghĩa và
con đường tư bản chủ nghĩa trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng văn
hố và kỹ thuật.
Về đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Báo cáo chính trị khẳng định: 'Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. xây dựng đời sống ấm no hạnh phúc ở miền
Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện

21


hịa bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa bảo
vệ hịa bình ở Đơng Nam Á và thế giới".
Để thực hiện xây dựng chiến lược này, Nghị quyết Đại hội đã xác định: cải tạo
xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội là hai mặt của cách mạng xã hội
chủ nghĩa, cải tạo xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ cơ bản, trong đó, cải cạo

nơng nghiệp là khâu chính của tồn bộ cơng cuộc cải tạo nhằm tăng năng suất
lao lộng, phát triển sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp cơng nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa.
Cơng nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá
độ. nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội "Thực hiện
cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta là xây dựng một nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông
nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ, nhằm biến nước ta từ một nước nơng nghiệp lạc hậu thành một nước có
cơng nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại".
Đại hội xác định rằng, sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm mọi thắng lợi của cách
mạng, cho nên Đảng cần phải tăng cường sự lãnh đạo đối với công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đối với cuộc đấu tranh nhằm hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hịa bình thống
nhất Tổ quốc. Muốn thế, "phải nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo
của Đảng, cụ thể là phải tăng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên phong
của Đảng, phải củng cố sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đánh dấu một bước phát triển
mới của cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Đại hội đã đề ra được đường lối
tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và con đường giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Nghị quyết của Đại hội là nguồn ánh sáng mới, là cơ sở
để toàn Đảng và toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ thành một khối, tiến lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hồn thành sự nghiệp đấu tranh giải
phóng miền Nam, thực hiện hồ bình, thống nhất nước nhà.

Câu 4: Hiệp định Paris (1973) là kết quả của quá trình “vừa đánh vừa
đàm” và là cơ hội lớn cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến
thắng lợi hoàn toàn. Ý kiến của Anh/chị về nhận định trên?
Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hồ bình tại Việt Nam được ký

vào ngày này, cách đây 40 năm, là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của nhân dân

22


Việt nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Hiệp định buộc Hoa kỳ
phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam,
rút hết quân Mỹ và quân đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam, tạo tiền đề cho
đại thắng Mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hiệp định Paris năm 1973 do 4 bên Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, Mặt
trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam), Hoa Kỳ và Việt nam Cộng hoà ký, tại
Paris. Đây là kết quả của cuộc đàm phán kéo dài 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, với
hơn 200 phiên họp công khai và 24 đợt gặp riêng, là thắng lợi quan trọng, to lớn
về nhiều mặt của nhân dân Việt Nam.
Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh khẳng định: "Hội nghị và Hiệp định Paris
là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên các mặt trận quân sự, chính trị,
ngoại giao. Cuộc đàm phán ở Paris là cuộc đấu trí, đấu bản lĩnh lâu dài, gian khổ
nhưng rất hào hùng của ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; từ
quyết định mang ý nghĩa chiến lược mở ra cục diện vừa đánh vừa đàm đến những
sách lược của ta trong suốt q trình đàm phán cơng khai cũng như bí mật và đến
những nội dung của Hiệp định Paris đều thể hiện chính nghĩa sáng ngời của cuộc
đấu tranh giải phóng của dân tộc Việt Nam. Hiệp định Paris cũng là văn bản pháp
lý quốc tế lần đầu tiên trong đó Mỹ buộc phải cam kết tơn trọng độc lập, chủ
quyền và thống nhất của dân tộc Việt Nam”.
Với Hiệp định Paris, nhân dân Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu “đánh cho
Mỹ cút”, mở ra một giai đoạn mới, thuận lợi cho mục tiêu “đánh cho Ngụy nhào”,
là tiền đề tiến lên giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975.
Ông Trịnh Ngọc Thái, thành viên đồn đại biểu Việt Nam Dân chủ cộng hịa tại
Hội nghị Paris, cho biết: “Cuộc đàm phán Paris về Việt Nam đã trở thành trung

tâm chú ý của dư luận thế giới vì cuộc đấu tranh chính trị, qn sự và ngoại giao
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ là tâm điểm của những mâu thuẫn cơ bản của thời đại
lúc bấy giờ. Việc ký kết Hiệp định là sự tháo nút cho cuộc chiến tranh ác liệt và
lâu dài nhất trên thế giới sau chiến tranh thế giới lần thứ hai”.
Đàm phán Paris được đánh giá là cuộc đấu trí căng thẳng giữa 2 nền ngoại giao.
Đó là nền ngoại giao trên thế mạnh của Mỹ và nền ngoại giao nhân văn của Việt
nam.
Theo bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước, Trưởng đồn đàm phán
Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Hội nghị Paris,
phương châm ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến” mà Việt Nam áp dụng đã
phát huy hiệu quả.”Đối với đàm phán Hiệp định Paris, vấn đề Mỹ xâm lược miền
Nam Việt Nam thì Mỹ phải chấm dứt xâm lược là nguyên tắc bất biến. Theo đó,
Mỹ phải rút quân ra khỏi Việt Nam không điều kiện, để đảm bảo cho độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Dĩ bất biến tức là chúng ta ln giữ
ngun lập trường đó. Cịn “ứng vạn biến” là phải tuỳ thuộc tình hình. Lúc đầu
chúng ta nêu ra là phải giải quyết vấn đề quân sự, đồng thời giải quyết vấn đề về

23


chính trị. Nhưng tới một lúc nào đó chúng ta thấy rằng, vị thế của chúng ta trên
chiến trường thuận lợi, thì chúng ta có thể đi thêm nhiều bước khác. Đó chính là
ứng vạn biến”.
Khơng chỉ có ý nghĩa đối với Việt Nam, Hiệp định Paris cịn mang tính quốc tế
khi góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng đất nước của nhân dân Lào và
Campuchia. Hiệp định cũng góp phần mở ra một chương mới trong cục diện
Đông Nam Á: Mỹ rút lui về quân sự khỏi Đơng Dương và Đơng Nam Á; xu thế
hồ bình, trung lập phát triển mạnh trong khu vực, mở ra khả năng thiết lập một
khu vực hồ bình, hữu nghị ổn định.
Hiệp định Paris 1973 cho thấy Việt Nam tranh thủ được cả Liên Xô, Trung Quốc,

các nước Xã hội chủ nghĩa, các nước thành viên Phong trào không liên kết và cả
người dân Mỹ u chuộng hịa bình, để hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Điều này thể hiện phương châm kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế,
kết hợp ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân.
Ông Trịnh Ngọc Thái nhận định: "Trong lịch sử kháng chiến của các dân tộc,
hầu như chưa có 1 cuộc chiến đấu nào như ở Việt Nam lại có thể tạo dựng nên 1
phong trào, 1 mặt trận nhân dân thế giới mạnh mẽ đồn kết ủng hộ Việt Nam,
trong đó có phong trào phản chiến ở ngay nước Mỹ. Sức mạnh của dư luận đã trở
thành sức ép đối với chính sách xâm lược của Mỹ, là sự cổ vũ to lớn đối với nhân
dân Việt Nam. Đây là 1 trong những sáng tạo để hình thành một mặt trận nhân
dân thế giới đoàn kết ủng hộ Việt Nam".
Hội nghị Paris đã để lại nhiều bài học lớn, trong đó bài học về ý chí bảo vệ độc
lập chủ quyền dân tộc và tinh thần đồn kết quốc tế vẫn cịn nguyên giá trị thời sự
và thiết thực đối với các quốc gia trong một thế giới đầy biến động.
40 năm qua, những giá trị của Hiệp định Paris 1973, vẫn mãi là mốc son của nền
ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.

24


CHƯƠNG 3:
Câu 1: Q trình tìm tịi khảo nghiệm đường lối đổi mới về kinh tế
của Đảng Cộng Sản Việt Nam?
*Thời kì trước đổi mới:
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, nước ta bước vào
thời kỳ khơi phục kinh tế. Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế
đất nước: cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản
xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống và tích luỹ,…
Tại Đại hội IV,Đảng đã có sự chuyển hướng tương đối phù hợp với điều

kiện nước ta. Từ chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nặng được đề ra tại
Đại hội III, tới Đại hội IV Đảng đặt ra nhiệm vụ tập trung cao độ lực lượng cả
nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nơng
nghiệp… Sự chuyển hướng này có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết tình
trạng thiếu lương thực, khai thác một cách triệt để hơn các nguồn lực trong
nước, đồng thời sẽ tạo ra được những điều kiện và tiền đề cần thiết cho những
bước đi tiếp theo.
Trước sự yếu kém của nền kinh tế đất nước, tại Đại hội V năm 1982,
Đảng đã có nhiều chủ trương mới cả trong chiến lược phát triển kinh tế và cải
tạo quan hệ sản xuất. Từ Đại hội III năm 1960, Đảng ln khẳng định cơng
nghiệp hố là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ. Đến Đại hội V này, điều
mới và quan trọng là Đảng đã xác định cụ thể nội dung và hình thức cơng nghiệp
hóa trong chặng đường đầu tiên. Đó là “tập trung phát triển mạnh mẽ nông nghiệp,
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên xã hội chủ
nghĩa…”(7)
Sau hơn một thập kỷ nhận thấy rõ những hạn chế của cơ chế quản lý
hành chính quan liêu bao cấp, nhưng phải tới Đại hội V Đảng mới có một chủ
trương thực sự mang tính bước ngoặt để xác lập một cơ chế quản lý mới về
kinh tế thay cho cơ chế cũ. Đảng chủ trương “đổi mới chế độ quản lý và kế
hoạch hoá hiện hành, xố bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu, bao cấp,
khắc phục bằng được tình trạng bảo thủ, trì trệ, vô trách nhiệm, vô kỷ luật, phát
huy động lực làm chủ tập thể, nâng cao tính năng động sáng tạo, tinh thần trách
nhiệm và ý thức kỷ luật”.
Trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985, một số ngành và
nhiều địa phương đã tiến hành những cuộc thử nghiệm, tìm tịi về cách làm ăn
mới này nhằm khai thác khả năng tiềm tàng của nền kinh tế phát triển sản xuất,
cải tiến lưu thông, phân phối, đáp ứng nhu cầu của đời sống nhân dân. Song,

25



×