Tải bản đầy đủ (.doc) (195 trang)

Luận án đổi mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội hiện na

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 195 trang )

MỤC LỤC

Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.
Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi liên quan đến đề tài luận án
1.2.
Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài luận án
1.3.
Giá trị của các cơng trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề
luận án tập trung nghiên cứu
Chương 2 CÔNG TÁC VĂN HĨA QUẦN CHÚNG VÀ ĐỔI MỚI
CƠNG TÁC VĂN HĨA QUẦN CHÚNG Ở ĐƠN VỊ
QUẢN LÝ HỌC VIÊN CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ
QUAN QUÂN ĐỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN
2.1.
Đơn vị quản lý học viên và những vấn đề cơ bản về cơng tác văn hóa quần
chúng ở đơn vị quản lý học viên các học viện, trường sĩ quan quân đội
2.2.
Quan niệm và những vấn đề có tính ngun tắc đổi mới cơng tác
văn hóa quần chúng ở đơn vị quản lý học viên các học viện, trường
sĩ quan qn đội
Chương 3 CƠNG TÁC VĂN HĨA QUẦN CHÚNG Ở ĐƠN VỊ


QUẢN LÝ HỌC VIÊN CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ
QUAN QUÂN ĐỘI - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH
NGHIỆM
3.1.
Thực trạng cơng tác văn hóa quần chúng ở đơn vị quản lý học viên
các học viện, trường sĩ quan quân đội
3.2.
Nguyên nhân của thực trạng và một số kinh nghiệm tiến hành cơng
tác văn hóa quần chúng ở đơn vị quản lý học viên các học viện,
trường sĩ quan quân đội
Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CƠNG TÁC
VĂN HĨA QUẦN CHÚNG Ở ĐƠN VỊ QUẢN LÝ HỌC
VIÊN CÁC HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
HIỆN NAY
4.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu đổi mới cơng tác văn hóa quần
chúng ở đơn vị quản lý học viên các học viện, trường sĩ quan quân
đội hiện nay
4.2.
Những giải pháp đổi mới cơng tác văn hóa quần chúng ở đơn vị quản
lý học viên các học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN

5
10
10
15
24


29
29
62

75
75
103

114
114
122
168
170


2
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

172
189


3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT


Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

1

Cơng tác đảng, cơng tác chính trị

CTĐ, CTCT

2

Học viện, trường sĩ quan

HV,TSQ

3

Quản lý học viên

QLHV

4

Quân đội nhân dân

QĐND

5


Quân ủy Trung ương

QUTW

6

Tổng cục Chính trị

TCCT

7

Văn hóa quần chúng

VHQC

8

Vững mạnh tồn diện

VMTD

9

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


4


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 3.1. Kết quả khảo sát về việc bảo đảm tiêu chuẩn
1

định mức đời sống văn hóa tinh thần ở đơn vị QLHV các
HV,TSQ quân đội.

88

Biểu đồ 3.2. Kết quả khảo sát năng lực lãnh đạo của cấp ủy và
2

trách nhiệm của đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp với cơng tác
VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.

94


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Công tác văn hóa quần chúng (VHQC) là một bộ phận hữu cơ của cơng

tác văn hóa, văn nghệ của Đảng, một hình thức cơ bản của cơng tác tư tưởng
trong Qn đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, có vai trị quan trọng, đưa các
giá trị văn hóa đáp ứng nhu cầu văn hóa - tinh thần của cán bộ, chiến sĩ; đồng
thời tổ chức, hướng dẫn bộ đội hoạt động sáng tạo và hưởng thụ các giá trị
văn hóa; góp phần hình thành và phát triển phẩm chất nhân cách người qn
nhân cách mạng, xây dựng mơi trường văn hóa quân sự lành mạnh, tạo động
lực thôi thúc cán bộ, chiến sĩ hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Các học viện, trường sĩ quan (HV,TSQ) quân đội là nơi tập trung lực
lượng cán bộ khoa học và giảng viên có trình độ học vấn cao; đối tượng học
viên đều được tuyển chọn chặt chẽ; là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, sĩ
quan cho quân đội và quốc gia, trung tâm nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực
hoạt động quân sự, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đơn vị quản lý học viên (QLHV) là đơn vị
thuộc biên chế của các HV,TSQ, nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện học
viên theo mơ hình, mục tiêu, yêu cầu đào tạo của mỗi nhà trường quân đội.
Công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội góp phần giáo
dục, cổ vũ, động viên cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ thực hiện chức trách,
nhiệm vụ; bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hướng họ đến các giá trị chân
- thiện - mỹ; nâng cao đời sống văn hóa - tinh thần, xây dựng mơi trường văn
hóa sư phạm qn sự lành mạnh; ngăn ngừa, lọc bỏ những tác động tiêu cực vào
đơn vị. Đồng thời, còn là bài học mẫu sinh động, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
tổ chức các hoạt động VHQC cho học viên, đáp ứng chức trách, nhiệm vụ sau
khi tốt nghiệp ra trường.
Nhận thức đúng vị trí, vai trị của cơng tác VHQC ở đơn vị QLHV, đảng ủy,
ban giám đốc (ban giám hiệu), cấp ủy, cán bộ chủ trì đơn vị QLHV, cơ quan chính trị
đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác VHQC ở các đơn vị QLHV. Công tác VHQC


6


từng bước được đổi mới, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu về đời sống văn hóa tinh thần của cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ, góp phần xây dựng con người, tổ
chức, thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của các HV,TSQ quân đội.
Tuy nhiên, công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội vẫn
còn những hạn chế, khuyết điểm: Nhận thức, trách nhiệm của một số cấp ủy,
cán bộ, đảng viên, học viên về cơng tác VHQC có mặt cịn hạn chế, chưa thật
sự đầy đủ, sâu sắc; nội dung, hình thức cơng tác VHQC chậm đổi mới, vẫn cịn
biểu hiện khô cứng, thiếu hấp dẫn, chưa khơi dậy và phát huy tốt năng lực sáng
tạo và nhu cầu hưởng thụ các giá trị văn hóa của bộ đội; hoạt động lãnh đạo,
chỉ đạo, quản lý, điều hành công tác VHQC của một số cấp ủy, cán bộ chủ trì
cịn lúng túng, thiếu khoa học; kết quả công tác VHQC trên một số nội dung
còn hạn chế, bất cập, chưa thực sự tạo động lực cho các tổ chức, lực lượng
trong thực hiện nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ có
biểu hiện suy thối về đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật
quân đội, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện nhiệm vụ của đơn vị.
Hiện nay, trong xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự giao lưu, kết
nối giữa các nền văn hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu. Bên cạnh
việc tiếp thu có chọn lọc các giá trị văn hóa của các nước trên thế giới cũng đang
diễn ra xu hướng du nhập sản phẩm văn hóa lai căng, thậm chí những sản phẩm
phi văn hóa, phản văn hóa, gây nên nhiễu loạn về giá trị văn hóa ở nước ta. Đồng
thời, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác
động tới việc tiếp cận, cập nhật, kiểm sốt thơng tin và nhu cầu sáng tạo, hưởng
thụ các giá trị văn hóa của cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ. Trong bối cảnh
đó, các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị, bất đồng quan điểm triệt để
khai thác Internet, mạng xã hội để tuyên truyền chống phá sự nghiệp cách mạng
nước ta, truyền bá văn hóa, đạo đức, lối sống phương Tây vào Việt Nam. Mặt
khác, các tiêu cực và tệ nạn xã hội nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường đã
và đang tác động trực tiếp đến lĩnh vực văn học, nghệ thuật, các hoạt động văn
hóa trong xã hội nói chung, trong quân đội nói riêng.



7

Trong khi đó, yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc có sự phát
triển mới, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, xây dựng chính
quy, rèn luyện kỷ luật, xây dựng mơi trường văn hóa sư phạm quân sự lành
mạnh, xây dựng các HV,TSQ quân đội vững mạnh tồn diện (VMTD) địi hỏi
phải đổi mới cơng tác VHQC đáp ứng sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ
cách mạng, nhiệm vụ xây dựng, chiến đấu của quân đội, phù hợp với đặc
điểm, điều kiện của các HV,TSQ quân đội.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Đổi mới công tác VHQC ở
đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội hiện nay" làm luận án tiến sĩ Khoa học
Chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn công tác VHQC, đổi
mới công tác VHQC và đề xuất những giải pháp đổi mới công tác VHQC ở
đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, xác định
những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu.
Luận giải làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về công tác VHQC và
đổi mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.
Đánh giá đúng thực trạng công tác VHQC, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một
số kinh nghiệm tiến hành công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.
Phân tích những yếu tố tác động, xác định yêu cầu và đề xuất những giải
pháp đổi mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.



8

Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu vấn đề lý luận, thực tiễn về công tác
VHQC và đổi mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội. Tập
trung khảo sát thực tế tại: Học viện Chính trị, Học viện Hậu cần, Học viện
Phịng khơng - Khơng qn, Học viện Hải qn, Học viện Biên phịng, Học
viện Quân y, Học viện Kỹ thuật quân sự, Trường Sĩ quan Chính trị, Trường Sĩ
quan Lục quân 1, Trường Sĩ quan Lục quân 2, Trường Sĩ quan Tăng thiết
giáp... Các tư liệu và số liệu điều tra, khảo sát phục vụ cho nghiên cứu luận án
được giới hạn từ năm 2015 đến nay. Các giải pháp đổi mới công tác VHQC ở
đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội có giá trị vận dụng đến năm 2030.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về cơng tác
tư tưởng, văn hóa, CTĐ, CTCT và cơng tác VHQC trong quân đội.
Cơ sở thực tiễn
Hiện thực công tác VHQC và đổi mới công tác VHQC ở các đơn vị
QLHV các HV,TSQ quân đội; các số liệu, tài liệu, báo cáo, tổng kết của cấp
ủy, đơn vị, cơ quan chính trị về giáo dục, đào tạo, xây dựng chính quy, rèn
luyện kỷ luật, CTĐ, CTCT, công tác tư tưởng, cơng tác VHQC, xây dựng mơi
trường văn hóa và các số liệu điều tra, khảo sát của tác giả.
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và
liên ngành; trong đó, chú trọng sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp;
lơgic, lịch sử; hệ thống, cấu trúc; thống kê, so sánh; khảo sát thực tế, điều tra
xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.



9

5. Những đóng góp mới của luận án
Xây dựng quan niệm và luận giải nội hàm quan niệm công tác VHQC
và đổi mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ qn đội; xác định
tiêu chí đánh giá cơng tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.
Khái quát một số kinh nghiệm tiến hành công tác VHQC ở đơn vị
QLHV các HV,TSQ quân đội.
Đề xuất một số nội dung, biện pháp mới, thiết thực, khả thi trong những giải
pháp đổi mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu luận án góp phần luận giải, làm sâu sắc hơn những
vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác VHQC và đổi mới công tác VHQC ở
đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.
Cung cấp thêm luận cứ khoa học phục vụ đảng ủy, ban giám đốc (ban
giám hiệu), cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị ở các
HV,TSQ quân đội tham khảo trong lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới công tác VHQC
ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.
Kết quả nghiên cứu luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo,
phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn CTĐ, CTCT ở các HV,TSQ
quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các cơng
trình khoa học của tác giả đã cơng bố có liên quan đến đề tài luận án, danh
mục tài liệu tham khảo và các phụ lục.


10


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về cơng tác tư tưởng, văn hóa của các
Đảng Cộng sản
X.I. Xu-Rơ-Ni-Tren-Cô (Chủ biên, 1982), Hoạt động tư tưởng của
Đảng Cộng sản Liên Xô [189]. Trong cuốn sách, các tác giả cho rằng: “Bộ
phận cấu thành hết sức quan trọng trong hoạt động của Đảng Cộng sản là công
tác tư tưởng” [189, tr. 11], đồng thời “công tác tư tưởng là vũ khí mạnh mẽ của
Đảng trong cuộc đấu tranh nhằm xây dựng xã hội mới” [189, tr. 11]. Đánh giá
thực trạng hoạt động văn hóa, tác giả cho rằng: “Hoạt động văn nghệ tự biên,
tự diễn đã có quy mơ lớn, đã trở thành phương tiện quan trọng để giáo dục chủ
nghĩa cộng sản cho nhân dân lao động... Các cơ quan Đảng đã thường xuyên
quan tâm phát triển hoạt động này, nâng cao trình độ tư tưởng và nghệ thuật
của nó, đẩy mạnh cơng tác đỡ đầu văn hóa” [189, tr. 284]. Muốn phát triển hoạt
động này, “cần thu hút hơn nữa công nhân, nông trang viên, đặc biệt là thanh
niên đang làm việc vào hoạt động nghệ thuật nghiệp dư” [189, tr. 285].
Mạnh Nhâm (1996), Cơng tác văn hóa của Trung Quốc năm 1995
[113]. Cơng trình đã khẳng định mối quan hệ giữa văn hóa chun nghiệp và
VHQC; làm rõ vai trị to lớn của công tác VHQC nhất là ở nông thôn và ở
các đơn vị quân đội. Để đẩy mạnh các hoạt động VHQC có chất lượng và
hiệu quả hơn nữa, tác giả khẳng định: “Đẩy mạnh sức hoạt động của các tổ
chức văn nghệ quần chúng. Khôi phục sự lãnh đạo đối với các tổ chức
VHQC. Quán triệt phương châm “phục vụ nhân dân, phục vụ chủ nghĩa xã
hội” và “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” hơn nữa” [113, tr. 6].
Ban Tuyên huấn Trung ương, Đảng Cộng sản Trung Quốc (2001), Công
tác tuyên truyền tư tưởng trong thời kỳ mới [6]. Cuốn sách đã tập trung làm rõ

vị trí, vai trị, nội dung cơng tác tư tưởng, văn hóa. Trong cải cách, mở cửa,


11

Trung Quốc rất coi trọng đổi mới công tác tư tưởng trong Đảng, khẳng định:
“Tăng cường và cải tiến công tác chính trị, tư tưởng của Đảng trong tình hình
mới là một việc lớn của toàn Đảng, cũng là nhiệm vụ nặng nề về công tác
tuyên truyền tư tưởng” [6, tr. 86]. Thông qua công tác tuyên truyền tư tưởng,
nhất là hoạt động văn hóa nghệ thuật nhằm nâng cao nhận thức, xây dựng, bồi
đắp niềm tin, tình cảm cách mạng cho cán bộ và quần chúng, góp phần thực
hiện thắng lợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Giang Trạch Dân (2002), Bàn về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc
[23]. Bàn về văn hóa - nghệ thuật quần chúng, tác giả khẳng định: “Xây dựng
văn minh tinh thần xét cho cùng là phải nâng cao tố chất của toàn dân tộc, bồi
dưỡng con người mới xã hội chủ nghĩa có lý tưởng, có đạo đức, có văn hóa, có
kỷ luật” [23, tr. 55]; “hoạt động văn hóa - nghệ thuật quần chúng là mặt quan
trọng làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân” [23, tr. 77]. Để
phát triển hoạt động này, những người làm cơng tác văn hóa - nghệ thuật cần
“tích cực hướng dẫn, giúp đỡ, đồng thời cố gắng sáng tác những tác phẩm có lợi
cho việc triển khai mạnh mẽ hoạt động văn nghệ quần chúng” [23, tr. 77].
Vương Bột Chính (2006), “Một số vấn đề về công tác tư tưởng của
Đảng Cộng sản Trung Quốc” [16]. Bài báo đã đề cập tới các phương pháp tiến
hành công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhấn mạnh vai trò
của phương pháp truyền thống trong cơng tác tư tưởng. Tác giả cho rằng, cần
kiên trì phương pháp truyền thống trong công tác tư tưởng. Song, cần thường
xuyên đổi mới phương pháp này, tăng tính thích nghi với tình hình mới và
khơng ngừng sáng tạo, tìm tòi ra những phương pháp mới phù hợp, hiệu quả.
Đồng thời, phải “chú trọng điều hịa, hình thành nên “dàn hợp xướng” của
cơng tác tư tưởng có sự tham gia của xã hội” [16, tr. 40 - 41].

Vương Duy, Lưu Hiểu Đan (2012), “Khái lược những phát triển mới
trong xây dựng văn hóa quốc gia từ Đại hội XVII của Đảng Cộng sản Trung
Quốc” [28]. Bàn về kinh nghiệm của Trung Quốc trong sử dụng văn hóa để
xây dựng triết lý phát triển quốc gia, tác giả chỉ ra trong Văn kiện Đại hội


12

XVII, năm 2007, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã lần đầu nhấn mạnh: “Phải đề
cao sức mạnh mềm văn hóa của quốc gia; văn hóa là tinh thần và linh hồn của
một dân tộc, là lực lượng to lớn để phát triển quốc gia và hưng thịnh dân tộc”
[28, tr. 6]. Theo tác giả, để phát huy vai trò của văn hóa, cần thúc đẩy sự phát
triển phồn vinh của văn hóa, xây dựng trào lưu mới cho sự hưng thịnh của văn
hóa xã hội chủ nghĩa; nhận thức rõ ràng và đầy đủ quan niệm văn hóa là sức
mạnh mềm của quốc gia; tăng cường giao lưu, đối ngoại văn hóa, tiếp thu
thành quả văn hóa ưu tú của nhân loại.
Can Xuân Tùng (2021), Văn hóa Trung hoa: Lịch sử và hiện tại [178].
Trong cuốn sách, tác giả lấy bối cảnh là nền văn minh Trung Quốc và phương
Tây giao lưu học hỏi lẫn nhau để giải thích nội dung chính của văn hóa Trung
Quốc một cách vừa giản lược, vừa hệ thống từ các phương diện nguồn gốc, diễn
biến của văn minh Trung Hoa, chế độ, tư tưởng, giá trị, cũng như nghệ thuật và
thẩm mỹ trong lịch sử Trung Quốc. Tác giả cho rằng, cần phát huy vai trị của
các hoạt động VHQC và các hình thức nghệ thuật tổng hợp, “sử dụng ca, múa,
nhạc trong các hoạt động” [178, tr. 333].
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu về cơng tác tư tưởng, văn hóa, cơng tác văn
hóa quần chúng trong lực lượng vũ trang
A.A. Ê-Pi-Sép (Chủ biên, 1980), Công tác tư tưởng trong các lực lượng
vũ trang Xô - Viết [68]. Tác giả đã luận bàn về vai trị của cơng tác VHQC với
các hình thức khác nhau như “xem, nghe những buổi truyền hình, phát thanh
chuyên đề; thăm bảo tàng và phòng truyền thống chiến đấu; sinh hoạt văn học

và hội nghị bạn đọc, biểu diễn những tác phẩm nghệ thuật về đề tài chiến đấu
yêu nước và nhiều hình thức khác nhau giúp cho việc phát triển truyền thống
chiến đấu, để lại dấu vết sâu sắc trong ý thức quân nhân” [68, tr. 213]. Để phát
huy vai trò của nghệ thuật, đội ngũ cán bộ “phải dạy cho bộ đội không những
biết thưởng thức các tác phẩm nghệ thuật, mà còn biết cư xử và hành động theo
các quy luật của cái đẹp” [68, tr. 226].


13

Đ.A. Vôncôgônốp (1980), Phương pháp luận công tác giáo dục tư
tưởng [187]. Khi bàn về công tác tuyên truyền - văn hóa, tác giả cho đây “là
một dạng độc lập của cơng tác giáo dục tư tưởng... Văn hóa là phương thức
truyền bá chân lý, tri thức cần thiết cho sự hình thành những phẩm chất của
nhân cách xã hội chủ nghĩa” [187, tr. 122]. Để hoàn thiện hơn nữa cơng tác
tun truyền - văn hóa trong qn đội, cần “làm cho mọi quân nhân tiếp xúc
rộng rãi hơn nữa với sự sáng tạo nghệ thuật, hình thành cho họ nhu cầu sáng
tạo theo “quy luật của cái đẹp” [187, tr. 124]. Tác giả cũng cho rằng, cái quan
trọng của nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền - văn hóa khơng phải là
sản phẩm văn hóa mà là khả năng sáng tạo, hành động theo những lý tưởng
cao cả bằng những hình ảnh và tấm gương chói lọi.
Chương Tư Nghị (Chủ biên, 1987), Cơng tác đảng, cơng tác chính trị
của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, phần 1 [110]. Cơng trình đã làm
rõ vị trí, vai trị của cơng tác văn hóa là bộ phận quan trọng trong cơng tác
chính trị của qn đội và khẳng định: Cơng tác văn hóa qn đội có ý nghĩa
vơ cùng quan trọng đối với xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa,
tăng tốc độ xây dựng cách mạng hóa, hiện đại hóa, chính quy hóa qn đội.
Rằng “cơng tác văn hóa bao gồm hai bộ phận chính là chun nghiệp và
nghiệp dư. Bộ phận nghiệp dư chủ yếu là chỉ hoạt động văn hóa quần chúng
của bộ đội, cũng chính là cơng tác văn hóa cơ sở” [110, tr. 170]. Tổ chức hoạt

động VHQC theo hướng văn hóa quần thể nhỏ. Phạm vi hoạt động văn hóa
theo xu hướng cởi mở, xã hội hóa. Đưa ra 3 nhiệm vụ lớn của cơng tác
VHQC. Làm rõ hình thức của cơng tác văn hóa bao gồm: Hoạt động giải trí
cơng tác VHQC (tổ chức ca hát, tổ chức liên hoan văn nghệ, đọc sách, tổ chức
chơi trò chơi thi đấu, vui chơi giải trí và thi đấu trí lực); cơng tác văn học,
nghệ thuật; giáo dục thẩm mỹ; công tác điện ảnh, vơ tuyến, chiếu bóng, phát
thanh; cơng tác sách; hoạt động thể thao quần chúng và công tác câu lạc bộ.


14

Sỏnxay Chăn nha lạt (2013), Giáo dục chính trị, tư tưởng cho hạ sĩ
quan, binh sĩ Quân đội Nhân dân Lào hiện nay [15]. Luận án đã chỉ rõ hình
thức, phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng đối với hạ sĩ quan, binh sĩ
Quân đội Nhân dân Lào: Thứ nhất, giáo dục qua đào tạo tại các nhà
trường; Thứ hai, giáo dục theo chương trình ở các đơn vị; Thứ ba, sử dụng
các hoạt động CTĐ, CTCT khác để giáo dục như thông qua các phong trào thi đua
quyết thắng, hoạt động văn hóa, văn nghệ, giao lưu; Thứ tư, tự học tập, rèn luyện,
tu dưỡng của hạ sĩ quan, binh sĩ. Luận án đánh giá hình thức giáo dục chính trị tư
tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội Nhân dân Lào ngày càng đa dạng, phong
phú; có gần 90% cán bộ làm cơng tác tư tưởng - văn hóa các sư đồn chủ lực
được tham gia các lớp tập huấn tuyên truyền văn hóa, tiến hành cơng tác văn hóa
cơ sở. Tác giả luận án đã đề xuất 5 giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng giáo
dục chính trị, tư tưởng cho hạ sĩ quan, binh sĩ Lào hiện nay [15, tr. 120 - 150].
Học viện Khoa học Quân sự, Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc
(2013), Lý luận chiến lược quân sự Trung Quốc [85]. Khi bàn về văn hóa
trong lĩnh vực quân sự, cuốn sách khẳng định: “Văn hóa được xác định là tư
tưởng chiến lược, là lý luận chiến lược được hình thành trên cơ sở truyền
thống lịch sử văn hóa của một quốc gia, dân tộc” [85, tr. 30]. Khẳng định “đặc
tính của văn hóa, đặc biệt là các giá trị cốt lõi có ảnh hưởng đến chiến lược

của một quốc gia, dân tộc” [85, tr. 31]. Để xây dựng văn hóa trong chiến lược
qn sự, địi hỏi phải “kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc, Trung Quốc
cũng phải chọn lọc tinh hoa văn hóa các nước” [85, tr. 32]. Cuốn sách cũng đề
cập đến nội dung phát triển văn hóa trong hoạt động quân sự của bộ đội.
Savẻng Đen na mơn (2016), Phát huy giá trị văn hố truyền thống trong
phát triển đời sống văn hoá ở đơn vị cơ sở Quân đội Nhân dân Lào hiện nay [65].
Luận án đã chỉ ra quan niệm, vai trò của xây dựng và phát triển đời sống văn hoá
của cán bộ, chiến sĩ quân đội ở các đơn vị cơ sở. Tác giả đưa ra quan niệm: Đời
sống văn hoá là “một bộ phận của đời sống xã hội, thể hiện chất lượng cuộc sống
của con người” [65, tr. 47]. Tác giả cũng chỉ ra đời sống văn hoá của cán bộ, chiến


15

sĩ ở đơn vị cơ sở quân đội là kết quả hoạt động tương tác giữa cán bộ, chiến sĩ với
mơi trường văn hóa ở đơn vị, tạo nên diện mạo cũng như chiều sâu của đời sống
tinh thần cán bộ, chiến sĩ, góp phần hình thành các phẩm chất nhân cách người
quân nhân trong quân đội. Các yếu tố tạo nên đời sống văn hóa giữ vai trị quan
trọng như hoạt động văn hóa, hoạt động nghệ thuật, vui chơi, giải trí.
1.2. Các cơng trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đến đề tài luận án
1.2.1. Các công trình nghiên cứu về cơng tác tư tưởng, văn hóa của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Đào Duy Quát (Chủ biên, 2010), Công tác tư tưởng [115]. Trong cuốn sách,
tác giả cho rằng: Văn hóa, văn nghệ là một phương thức tác động tư tưởng có hiệu
quả, trực tiếp góp phần xây dựng con người, “tạo ra những phẩm giá, những giá trị
trong nhân cách con người” [115, tr. 372]. Tác giả khẳng định, “đối với loại hình văn
hóa, văn học, nghệ thuật, lĩnh vực tác động đến con người chủ yếu vào thế giới tình
cảm, tâm hồn, cảm xúc” [115, tr. 385], “văn hóa, văn học, nghệ thuật được khẳng
định là “binh chủng đặc biệt” của cơng tác tư tưởng, góp phần xây dựng, củng cố
vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng, trực tiếp bồi dưỡng, đào tạo con người mới,

nhân cách mới với những phẩm chất cao đẹp và được phát triển tồn diện về trí, đức,
thể , mỹ” [115, tr. 386]. Để phát huy vai trị của cơng tác văn hóa, văn nghệ cần sử
dụng có hiệu quả các chương trình biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp hoặc quần
chúng và “tổ chức các đội hoạt động văn hóa quần chúng” [115, tr. 388].
Tô Huy Rứa (2012), Một số vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và tổ
chức của Đảng trong thời kỳ đổi mới [120]. Khi bàn về lĩnh vực văn hóa, văn
học, nghệ thuật, tác giả làm rõ vị trí, vai trị của văn hóa trong tiến trình cách
mạng và trong cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, xây dựng văn hóa
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tác giả cho rằng, “văn
học, nghệ thuật của chúng ta không chỉ là nhu cầu thiết yếu của con người mà
chính là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền
tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”
[120, tr. 496]. Đồng thời, “văn học, nghệ thuật phải ra sức tham gia vào cuộc
đấu tranh lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực, lấy cái đẹp dẹp cái xấu” [120, tr. 513].


16

Nguyễn Mạnh Hưởng (2013), Một số vấn đề về “diễn biến hịa bình” và
chống “diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa [91]. Tác giả cho
rằng, đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế
lực thù địch trước lĩnh vực tư tưởng, văn hóa là một nhiệm vụ cấp bách hiện nay,
góp phần tích cực bảo vệ, phát triển tư tưởng của chủ nghĩa xã hội, bảo vệ nền
tảng, tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Trong giai đoạn hiện nay, theo tác giả
cần “không ngừng quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của mọi tầng lớp
nhân dân, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội” [91, tr. 257]; chú trọng “nâng
cao chất lượng bài viết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch” [91, tr.
259].
Nguyễn Hoàng Lân (Chủ nhiệm, 2013), Phát huy giá trị văn hóa quân

sự truyền thống của dân tộc Việt Nam trong bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
hiện nay [99]. Đề tài xây dựng và luận giải quan niệm “phát huy giá trị văn
hóa quân sự truyền thống của dân tộc Việt Nam” [99, tr. 42]; đưa ra 4 định
hướng giải pháp cơ bản, trong đó chú trọng “chuẩn hóa nội dung giáo dục giá
trị văn hóa quân sự truyền thống cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân” [99, tr. 84]; cần “đa dạng hóa các hình thức hưởng thụ, sáng tạo văn hóa
để cho tất cả mọi người dân Việt Nam được tham gia một cách sâu rộng vào
sự nghiệp giữ gìn, hồn thiện, phát huy các giá trị văn hóa quân sự truyền
thống trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [99, tr. 104].
Phạm Quang Nghị (Chủ biên, 2015), Một số vấn đề lý luận và nghiệp
vụ công tác tư tưởng [111]. Cuốn sách đã làm rõ mối quan hệ văn hóa, văn
nghệ và cơng tác tư tưởng; góp phần xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa. Đề cập những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa, văn nghệ; đặc
điểm của bối cảnh lịch sử và giải pháp lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn nghệ
hiện nay. Tác giả nhấn mạnh, văn học nghệ thuật cần “bám sát thực tiễn đời
sống văn hóa, văn nghệ để biết rõ chiều hướng vận động, các vấn đề nảy sinh


17

để giải quyết theo đúng các quy luật của đời sống văn hóa tinh thần, đúng
định hướng của Đảng, pháp luật của Nhà nước” [111, tr.178].
Nguyễn Thế Kỷ (2017), Lý luận văn hóa, văn nghệ Việt Nam - Nền
tảng và phát triển [96]. Cuốn sách đã khái quát về đường lối của Đảng ta
trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ cùng những vấn đề lý luận cơ bản; phản ánh
thành tựu cũng như các xu hướng văn học, nghệ thuật trong giai đoạn hiện
nay; an ninh văn hóa, an ninh tư tưởng và cuộc đấu tranh chống quan điểm,
luận điểm sai trái trong văn học, nghệ thuật, báo chí và xuất bản… Tác giả
cũng đã chỉ rõ thực trạng và những vấn đề bức thiết, cũng như những khiếm
khuyết, biểu hiện lệch lạc trong báo chí, văn hóa, văn nghệ: “Lý luận, phê

bình văn học, nghệ thuật cịn thụ động, chưa bắt kịp thực tiễn sáng tác, thiếu
định hướng, thiếu tính chiến đấu với những biểu hiện tiêu cực… Quản lý văn
nghệ còn nhiều lúng túng, bất cập....”[96, tr. 126].
Nguyễn Bá Dương (2018), Vấn đề phát triển lý luận phòng, chống
“diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới
[29]. Tác giả làm rõ những vấn đề mới về lý luận phòng, chống “diễn biến
hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Theo tác giả, trong điều kiện hiện
nay “cần chú trọng phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng chuyên sâu đấu
tranh trên mạng internet” [29, tr. 161]. Về định hướng phát triển lý luận
phịng, chống “diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, theo tác
giả cần “phát triển lý luận theo hướng bổ sung, hoàn thiện lý luận về nhận
diện bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược
“diễn biến hịa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa” [29, tr. 201].
Đặng Sỹ Lộc (2020), “Đổi mới nội dung, phương thức công tác tư
tưởng trong tình hình mới” [102]. Tác giả chỉ ra những vấn đề cơ bản để
đổi mới nội dung, phương thức công tác tư tưởng, tập trung vào: Nắm
vững, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời những
vấn đề tư tưởng, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao


18

trong xã hội; gắn nghiên cứu lý luận với định hướng chính sách, phát
triển, hồn thiện đường lối, chủ trương phát triển, bảo vệ Tổ quốc; tăng
cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phê phán
quan điểm sai trái, thù địch và đổi mới phương thức bảo đảm kinh phí,
phương tiện, cơ sở vật chất, từng bước hiện đại hóa trang thiết bị tiến
hành cơng tác tư tưởng của Đảng trong điều kiện mới. Tác giả còn khẳng
định, sự bổ sung, phát triển cả nội dung, phương thức tiến hành công tác
tư tưởng của Đại hội XIII là “vấn đề có tính quy luật, đồng thời cũng là

đòi hỏi tất yếu khách quan trước sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới” [102, tr. 25].
Trần Thị Anh Đào (Chủ biên, 2020), Chất lượng lãnh đạo công tác tư
tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay [64]. Trong cuốn sách, các tác giả
cho rằng: Cơng tác văn hóa - văn nghệ là bộ phận quan trọng cấu thành công tác
tư tưởng của Đảng. Hoạt động văn hóa - văn nghệ “là hình thức giáo dục tác
động qua con đường tình cảm nên hiệu quả để lại dấu ấn sâu sắc, bền vững trong
nhận thức, tư tưởng con người” [64, tr. 16]. Đồng thời, khẳng định “nhu cầu
hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa của quần chúng nhân dân mang tính
khách quan” [64, tr. 19]; hiệu quả phát huy các giá trị văn hóa, tính tích cực của
q trình nhập thân văn hóa của quần chúng đến đâu cịn phụ thuộc vào nhận
thức, cách thức tổ chức hoạt động văn hóa của cơ quan chức năng.
Nguyễn Tiến Thư (2021), “Tác động của kinh tế thị trường đến sự phát
triển văn hóa - nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay” [126]. Tác giả cho rằng sự
phát triển của văn hóa, nghệ thuật ở Việt Nam chịu sự tác động của nhiều
nhân tố khác nhau như văn hóa truyền thống, bối cảnh của đất nước ta hiện
nay; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc
tế và tồn cầu hóa, cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư, những định hướng
chính trị của Đảng và Nhà nước ta... Tác giả cũng đề xuất những định hướng


19

phát triển văn hóa, nghệ thuật Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là “đẩy mạnh giáo dục thị hiếu văn hóa lành
mạnh cho người dân... vừa kế thừa mặt tích cực của truyền thống, vừa tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại như tôn trọng cộng đồng trên cơ sở khẳng định cá
nhân, lối sống tình nghĩa trên nền tảng pháp lý, pháp luật” [126, tr. 7].
Nguyễn Văn Hùng (2021), “Đẩy mạnh xây dựng văn hóa trong kinh tế
phù hợp với bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở nước ta hiện nay” [89]. Bài viết làm rõ những nội dung cơ bản để xây
dựng văn hóa trong kinh tế. Tác giả khẳng định mối quan hệ giữa kinh tế và văn
hóa: “Kinh tế càng phát triển thì văn hóa càng nở rộ; khi hoạt động văn hóa sơi
nổi, hiệu quả thì sẽ có sự tác động mạnh mẽ đến phát triển kinh tế” [89, tr. 21].
Đồng thời, cho rằng: “Xây dựng văn hóa trong kinh tế là để văn hóa thực sự trở
thành nguồn lực phát triển kinh tế hiệu quả, toàn diện hơn, bền vững hơn, và vì
con người hơn, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa” [89, tr. 25].
Nguyễn Phú Trọng (2021), “Phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức
mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam” [155]. Tác giả nhấn mạnh
vai trị và tầm quan trọng của văn hóa, coi văn hóa làm nên hồn cốt dân tộc, là
động lực quan trọng đối với sự nghiệp phát triển đất nước và khẳng định trọng
tâm của xây dựng văn hóa là xây dựng con người. Tác giả khẳng định Đảng ta
“đặc biệt quan tâm đến cơng tác văn hóa quần chúng, xây dựng các hoạt động và
các thiết chế văn hóa ở cơ sở, nâng cao dân trí, xây dựng đời sống văn hóa mới,
cải tạo các thói quen và nếp sống cũ, xây dựng thói quen và lối sống mới”.
Nguyễn Văn Hùng (2022), “Phát huy sức mạnh “mềm” của văn hóa Việt
Nam để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc hiện nay” [90]. Trong bài viết,
tác giả cho rằng: “Sức mạnh mềm của văn hóa là tổng hợp những giá trị văn hóa
tinh thần và vật chất được huy động, sử dụng vào mục đích khác nhau, có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển đi lên của đất nước một cách ổn định, bền vững” [90,
tr. 34]. Để phát huy sức mạnh mềm của văn hóa, theo tác giả cần “tăng cường


20

đầu tư, xây dựng các cơng trình văn hóa, các loại hình văn hóa, tổ chức các hoạt
động văn hóa vui tươi, lành mạnh trong các tầng lớp nhân dân” [90, tr. 37].
1.2.2. Các cơng trình nghiên cứu về cơng tác tư tưởng, văn hóa, cơng tác văn
hóa quần chúng trong qn đội
Đồn Mơ (Chủ nhiệm, 2004), Nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa ở

đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [109]. Đề tài cho rằng:
“Bản chất của văn hóa là sáng tạo và nhân văn. Bởi vậy, hoạt động văn hóa ở đơn
vị cơ sở cũng như tất cả các hoạt động văn hóa nói chung phải ln hướng về
chân, thiện, mỹ; bồi dưỡng và phát huy tiềm năng sáng tạo vô tận của quần
chúng” [109, tr. 13]. Theo các tác giả, cơng tác văn hóa ở đơn vị cơ sở với nội
dung, phương thức vô cùng phong phú, sinh động, bằng các tên khác nhau như:
Cơng tác giáo dục văn hóa, cơng tác văn hóa đại chúng hay cơng tác VHQC…
“Cơng tác văn hóa ở đơn vị cơ sở là cơng tác tổ chức, hướng dẫn cho quần chúng
tham gia các hoạt động hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa, là q trình giáo
dục tồn diện cho cán bộ, chiến sĩ” [109, tr. 19].
Nguyễn Đình Thảo (2009), Cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong ngày
nghỉ, giờ nghỉ ở đơn vị học viên trong các trường đào tạo sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay [123]. Luận án đã làm rõ đặc điểm đơn vị học viên và ngày
nghỉ, giờ nghỉ ở đơn vị học viên trong các trường đào tạo sĩ quan QĐND Việt Nam.
Tác giả đưa ra các hình thức, phương pháp tiến hành CTĐ, CTCT trong ngày nghỉ,
giờ nghỉ ở đơn vị học viên các trường đào tạo sĩ quan, trong đó tiến hành hoạt động
văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao là một hình thức phổ biến. Tác giả khẳng định
“Hoạt động thư viện đọc sách, báo, hoạt động văn nghệ quần chúng trong ngày
nghỉ, giờ nghỉ là bộ phận rất quan trọng trong cơng tác VHQC, nhằm góp phần
nâng cao hiểu biết, xây dựng tư tưởng, tình cảm cách mạng và thỏa mãn nhu cầu
văn hóa tinh thần của cán bộ, học viên trong đơn vị” [123, tr. 147].
Lê Sơn (2013), “Một số biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa
ở đơn vị cơ sở quân đội” [121]. Trong bài viết, tác giả cho rằng sự bùng nổ của
thơng tin và sự phát triển của các loại hình văn hóa, nghệ thuật trong xã hội đã có


21

những tác động tới thị hiếu, nhu cầu thưởng thức văn hóa của bộ đội. Do vậy,
việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa của bộ đội trở thành yêu

cầu cấp thiết. Tác giả đã đưa ra các biện pháp chính để nâng cao chất lượng hoạt
động này, như: “Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của các cấp lãnh đạo,
chỉ huy, đặc biệt là đội ngũ những người làm cơng tác văn hóa” [121, tr. 46];
“tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị của hoạt động văn hóa; tích cực đổi
mới nội dung, phương thức hoạt động văn hóa ở đơn vị cơ sở” [121, tr. 47]...
Bùi Xuân Quỳnh (2015), Phát huy giá trị nhân văn quân sự truyền
thống của dân tộc trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị
hiện nay [119]. Theo tác giả luận án, để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục
giá trị nhân văn quân sự truyền thống của dân tộc đáp ứng yêu cầu xây dựng
QĐND Việt Nam về chính trị hiện nay, cần chú trọng “đổi mới nội dung giáo
dục giá trị nhân văn quân sự truyền thống của dân tộc theo hướng đáp ứng yêu
cầu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị hiện nay” [119, tr. 123];
xây dựng và phát huy vai trị của mơi trường văn hóa qn sự gắn với mơi
trường chính trị qn sự, “đa dạng hình thức, quy mơ, nâng cao chất lượng các
hoạt động văn hóa gắn với các hoạt động chính trị” [119, tr. 139].
Bùi Mạnh Hùng (Chủ biên, 2016), Nâng cao chất lượng hoạt động của
hệ thống thiết chế văn hóa ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay [88]. Cuốn sách đã khẳng định hệ thống thiết chế văn hóa ở cơ sở
trong quân đội ln giữ vai trị quan trọng: Thứ nhất, “trực tiếp giáo dục văn
hóa, giáo dục chính trị cho cán bộ, chiến sĩ, góp phần xây dựng quân đội vững
mạnh về chính trị” [88, tr. 22]. Thứ hai, “trực tiếp góp phần bồi dưỡng, hồn
thiện nhân cách người qn nhân cách mạng và đấu tranh với sản phẩm, hành
vi phản văn hóa” [88, tr. 24]. Thứ ba, “trực tiếp góp phần thỏa mãn nhu cầu
sáng tạo, hưởng thụ, giữ gìn các giá trị văn hóa tốt đẹp” [88, tr. 29].
Đinh Xuân Dũng (Chủ biên, 2016), Công tác tư tưởng - văn hóa trong
xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam [27]. Các tác giả cho rằng: Văn nghệ


22


quân đội là bộ phận không thể tách rời của tồn bộ cơng tác văn nghệ của
Đảng. Tác giả cũng chỉ ra thiếu sót và nhược điểm của cơng tác văn hóa - văn
nghệ giai đoạn hiện nay là: Hiệu quả giáo dục và xây dựng con người mới
trong lực lượng vũ trang còn hạn chế; “nhiều nội dung và mảng hoạt động văn
hóa, văn nghệ cịn thiếu sự năng động sáng tạo, nếp tư duy và cách làm cũ còn
khá nặng nề trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện...” [27, tr. 104]. Theo tác giả,
lãnh đạo tư tưởng bộ đội hiện nay nếu chỉ có lên lớp, cấp trên giải thích, họp
Đảng, họp chính quyền thì khơng đủ nữa, mà cịn phải biết vận dụng nhiều
hình thức hoạt động câu lạc bộ phong phú, linh hoạt, được quần chúng ưa
thích.
Tổng cục Chính trị (2018), Văn hóa qn sự Việt Nam giá trị lý luận và
thực tiễn [149]. Cuốn sách gồm 4 phần, là tập hợp bài viết của nhiều tác giả.
Trong bài viết “Văn hóa, văn nghệ trong tình u và tầm nhìn của Đại tướng
Nguyễn Chí Thanh” của GS. TS Đinh Xuân Dũng đã dẫn lời của Đại tướng
Nguyễn Chí Thanh về vị trí, vai trị của văn hóa, văn nghệ với đời sống bộ đội, là
“vũ khí vơ cùng lợi hại”, góp phần cho sự nghiệp cách mạng cao cả của dân
tộc… Trong một loạt bài viết, bài nói của mình từ năm 1957 đến năm 1960, “Đại
tướng Nguyễn Chí Thanh đã phân tích, đánh giá cụ thể, thẳng thắn, dứt khoát
những ưu điểm và khuyết điểm của cơng tác văn hóa, văn nghệ (cả quần chúng
và chuyên nghiệp)” [149, tr. 380]. Trong bài viết “Còn sách báo là cịn cách
mạng” của TS Bùi Chí Trung, đã khẳng định vai trò to lớn của hoạt động sách
báo trong quân đội. Tác giả đã trích lại lời căn dặn của Đại tướng Nguyễn Chí
Thanh: “Cịn sách báo là còn cách mạng. Hãy cố mà giữ lấy” [149, tr. 422].
Trần Xuân Kỳ (2018), Chất lượng công tác tư tưởng ở đơn vị quản lý học
viên cấp phân đội trong các trường sĩ quan quân đội hiện nay [97]. Tác giả cuốn
sách đã đưa ra quan niệm đơn vị cơ sở trong các trường sĩ quan quân đội là đại đội
và tiểu đoàn QLHV và tương đương. Trong đánh giá thực trạng, tác giả làm rõ
những hạn chế: Hoạt động văn hóa, văn nghệ hàng tuần ở một số đơn vị QLHV



23

thiếu chặt chẽ, thậm chí bị cắt xén để thực hiện các nội dung sinh hoạt khác. “Hoạt
động của các thiết chế văn hóa ở đơn vị QLHV chưa tạo được hứng thú cho cán bộ,
học viên thói quen đam mê đọc sách” [97, tr. 65]. Để đổi mới nội dung công tác tư
tưởng ở đơn vị QLHV cấp phân đội trong các trường sĩ quan quân đội hiện nay
phải đổi mới nội dung xây dựng mơi trường văn hóa; đổi mới nâng cao chất lượng
hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao và các thiết chế văn hóa ở đơn vị QLHV.
Lương Cường (2019), Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh
về chính trị trong tình hình mới [22]. Theo tác giả cuốn sách, để xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị trong tình hình mới phải nâng cao
chất lượng, hiệu quả CTĐ, CTCT trong quân đội, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới;
tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp cơng tác tư tưởng. Trong đó,
chú trọng “đổi mới nội dung, phương pháp cơng tác văn hóa quần chúng bảo đảm
bám sát với thực tiễn của đơn vị, phù hợp với tâm lý bộ đội, đáp ứng kịp thời nhu
cầu, nguyện vọng, tâm tư tình cảm và nhận thức của cán bộ, chiến sĩ” [22, tr. 458].
Đồng thời, “tích cực đấu tranh với những nhận thức lệch lạc về văn hóa; kiên
quyết ngăn chặn sự xâm nhập của những sản phẩm văn hóa xấu độc, giữ cho các
đơn vị ln có đời sống văn hóa tinh thần tươi vui, lành mạnh” [22, tr. 458].
Nguyễn Thanh Hải (Chủ biên, 2019), Phát huy vai trò thanh niên
quân đội trong xây dựng mơi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở hiện nay [70].
Các tác giả đưa ra quan niệm: Xây dựng mơi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở
QĐND Việt Nam “là hoạt động tích cực, chủ động của các chủ thể trong tạo
lập, bảo tồn và phát triển giá trị của những yếu tố văn hóa vật chất và văn hóa
tinh thần đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đơn vị, phù hợp với điều kiện tự nhiên,
tạo cơ sở phát triển và hoàn thiện nhân cách quân nhân cách mạng trong từng
điều kiện lịch sử cụ thể” [70, tr. 17]. Cuốn sách đã làm rõ cơ sở lý luận, thực
tiễn, đồng thời đề xuất giải pháp cơ bản phát huy vai trị thanh niên qn đội
trong xây dựng mơi trường văn hóa ở đơn vị cơ sở hiện nay.



24

Nguyễn Vương Bình (2020), Định hướng giá trị văn hóa của học viên
đào tạo sĩ quan trong các nhà trường quân đội [7]. Tác giả đã làm rõ đặc
điểm văn hóa và đời sống văn hóa của các nhà trường quân đội. Tác giả cho
rằng, “chăm lo đời sống văn hóa của bộ đội là trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ
huy đơn vị” [7, tr. 17]. Đánh giá về đời sống văn hóa ở các trường quân đội, tác
giả nhận định, ở cấp tiểu đồn QLHV và tương đương có phịng Hồ Chí Minh
với hệ thống sách, báo, tạp chí rất đa dạng, cập nhật thường xuyên; “các hoạt
động văn hóa, nghệ thuật được tổ chức trong các trường quân đội có nội dung
phong phú, đa dạng, góp phần nâng cao tâm hồn, thể chất, khả năng định
hướng và hòa nhập với những giá trị văn hóa của học viên” [7, tr. 18]. Tác giả
làm rõ nội dung và phương thức định hướng giá trị văn hóa của học viên.
1.3. Giá trị của các cơng trình khoa học đã tổng quan và những vấn
đề luận án tập trung nghiên cứu
1.3.1. Giá trị của các cơng trình khoa học đã tổng quan
đối với đề tài luận án
Thứ nhất, giá trị về mặt lý luận: Các cơng trình ở nước ngồi và trong
nước đã góp phần làm sâu sắc và phát triển tồn diện hơn lý luận về cơng tác tư
tưởng, văn hóa, nhất là cách tiếp cận về cơng tác văn hóa và cơng tác VHQC
trong qn đội, là cơ sở khoa học để luận án có cách tiếp cận phù hợp với mục
đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các
cơng trình khoa học nghiên cứu ở nước ngoài và trong nước đã đi sâu nghiên
cứu, luận giải, làm sáng tỏ những vấn đề hết sức cơ bản về văn hóa và cơng tác
văn hóa. Dù tiếp cận dưới góc độ và phương pháp rất đa dạng, phong phú nhưng
các cơng trình đều khẳng định: Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh
thần của xã hội, mục tiêu, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước. Bản
chất của văn hóa là sáng tạo và nhân văn, ln hướng con người đến các giá trị
chân - thiện - mỹ, hoàn thiện năng lực tư duy, làm nảy sinh nhu cầu cảm thụ và



25

sáng tạo cái đẹp, hoàn thiện nhân cách con người. Đây là cơ sở, giá trị cho
hướng tiếp cận và luận giải những vấn đề cơ bản về văn hóa và công tác VHQC.
Giá trị trong việc khái quát, luận giải những vấn đề cơ bản về các
HV,TSQ quân đội và đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội. Nhiều công trình
nghiên cứu về cơng tác văn hóa, VHQC ở đơn vị cơ sở trong quân đội, ở các
HV,TSQ và đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội đã có cách tiếp cận và phản
ánh khá toàn diện bức tranh toàn cảnh về các HV,TSQ quân đội và đơn vị
QLHV các HV,TSQ quân đội, làm cơ sở cho nghiên cứu sinh tham khảo, kế
thừa trong khái quát, luận giải những vấn đề cơ bản về các HV,TSQ quân đội
và đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.
Với góc độ tiếp cận, phương pháp nghiên cứu khác nhau, nhiều cơng trình
đã làm rõ các bộ phận chính của cơng tác văn hóa đó là văn hóa chuyên nghiệp
và VHQC (văn hóa nghiệp dư). Đồng thời, khẳng định vai trị to lớn của cơng
tác VHQC với đời sống hàng ngày của bộ đội. Nhiều công trình đã đi sâu làm
rõ lý luận về cơng tác văn hóa và cơng tác VHQC trong qn đội: Ý nghĩa, sự
cần thiết, nguyên tắc, nội dung, hình thức, phương pháp và đặc điểm công tác
VHQC; lý luận về đổi mới, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác văn hóa, VHQC. Đây là những đóng góp hết sức quan trọng, góp phần
phát triển lý luận khoa học xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền.
Giá trị của các cơng trình khoa học đã tổng quan cung cấp thêm cơ sở lý luận
đáng tin cậy, giúp nghiên cứu sinh kế thừa, vận dụng vào xây dựng khung lý
luận của luận án, nhất là xây dựng và luận giải quan niệm công tác VHQC và
đổi mới công tác VHQC ở đơn vị QLHV các HV,TSQ quân đội.
Thứ hai, giá trị về mặt thực tiễn: Các cơng trình khoa học đã nghiệm thu
cơng bố ở nước ngồi và trong nước có giá trị thực tiễn hết sức to lớn. Hầu hết
cơng trình đã làm rõ bức tranh thực tiễn sinh động, rút ra kinh nghiệm xây dựng,

phát huy, phát triển các giá trị văn hóa của Đảng, dân tộc, đổi mới, tăng cường
hoặc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác văn hóa trong điều kiện mới. Đồng


×