Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

ĐỀ THI VÀ ĐÁP ÁN MÔN BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.46 KB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HCM
ĐỀ THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
NĂM 2020
LỚP HÌNH SỰ: 09
MƠN: BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Thời gian làm bài 75 phút

Sinh viên chỉ được sửa dụng VBQPPL khi làm bài
Câu I nhận định đúng sai (4 điểm)
1. Sự kiện bất ngờ là tình tiết loại trừ yếu tố lỗi của hành vi phạm tội.
=> Nhận định này Đúng. Vì:
Căn cứ vào Điều 20 BLHS 2015 thì “Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại
cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước
hậu quả của hành vi đó, thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự”. Theo đó, trong
trường hợp sự kiện bất ngờ thì người có hành vi gây thiệt hại được xem là khơng có
lỗi vì họ khơng thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả. Do đó, họ
khơng phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Mọi trường hợp biểu lộ ý định phạm tội đều khơng bị xử lý theo pháp luật
hình sự.
=> Nhận định này Sai. Vì:
Về nguyên tắc, biểu lộ ý định phạm tội không phải là 1 giai đoạn thực hiện tội phạm,
cho nên khơng phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
đặc biệt, việc biểu lộ ý định tội phạm đã có tính nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, trong
các trường hợp này, luật hình sự quy định việc biểu lộ ý định phạm tội thành 1 tội
độc lập và người biểu lộ ý định vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự như bình thường.
Ví dụ: Điều 133 BLHS quy định về tội đe dọa giết người.
3. Hành vi khách quan của các tội phạm quy định trong Chương các tôi xâm
phạm sở hữu chỉ là hành vi chiếm đoạt tài sản.
=> Nhận định này Sai. Vì hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu rất đa dạng, không
phải chỉ duy nhất hành vi chiếm đoạt tài sản mới là hành vi khách quan của các tội
1




phạm này. Ngồi hành vi chiếm đoạt tài sản, cịn có các nhóm hành vi khách quan
khác như:
+ Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản. (Điều 176 BLHS).
+ Hành vi sử dụng trái phép tài sản. (Điều 177 BLHS).
+ Hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. (Điều 178 BLHS).
+ Hành vi vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản.(Điều 180 BLHS).
4. Mọi trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh đều
cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều
125).
=> Nhận định này Sai. Vì khơng phải mọi trường hợp giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh đều cấu thành Tội giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh (Điều 125).
Để bị cấu thành tội Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thì
hành vi phải thỏa mãn 02 yếu tố sau:
Thứ nhất, đối với người bị giết phải là người có hành vi phạm tội nghiêm trọng:
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân, trước hết bao gồm nhưng hành vi
vi phạm pháp luật hình sự xâm phạm đến lợi ích của người phạm tội hoặc đối với
những người thân thích của người phạm tội. Thơng thường những hành vi trái pháp
luật của nạn nhân xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của
người phạm tội và những người thân thích của người phạm tội.
Thứ hai, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là nguyên nhân dẫn tới
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người phạm tội:
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật với tinh thần bị kích động mạnh là
mối quan hệ tất yếu nội tại có cái này thì ắt có cái kia. Khơng có hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng của nạn nhân thì khơng có tinh thần bị kích động mạnh của người
phạm tội và vì thế nếu người phạm tội khơng bị kích động bởi hành vi trái pháp luật
của người khác thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
Câu II (3 điểm)

Vào khoảng 19h ngày 26/03/2003 4 tên A, B, C và D ngồi quán uống rượu. Tại đây,
B có rút dao mang theo cho A mượn xem. Đây là loại dao có lưỡi xếp vào cán dao,
cán dao bằng mủ màu vàng dài khoảng 10cm, rộng khoảng 2-3cm, mũi dao hình
2


dạng hơi bầu, lưỡi dao có một bên sắc bén, một bên bằng. Ra khỏi quán, B đòi A trả
lại dao và cất vào túi quần. Cả bọn gặp 2 anh T và H đi ngược chiều. Do có quen
biết, A và C dừng lại nói chuyện với H, cịn B và D đi trước. A rủ H đi uống rượu
tiếp nhưng H từ chối, A liền nắm tay H kéo đi thì T ngăn cản kéo H trở lại. Thấy
vậy, A quay sang cãi nhau với T và dùng tay đẩy vào ngực T làm T bị mất thăng
bằng ngã ngồi. T và A xô xát, ẩu đả với nhau. H dùng tay ơm ngăn A, cịn C can T.
A nhiều lần la lớn chửi T với nội dung “Chúng mày đánh chết nó cho tao”. Nghe
tiếng A la chửi, B đi trước quay trở lại nhìn thấy A và T đang đứng đối diện nhau, B
cho rằng A bị T đánh nên đã lấy con dao trong túi quần ra đâm nhiều nhát vào bụng
và ngực T. Do C đang can T nên cũng bị một vết đâm vào tay trái. C bị đâm đau nên
chửi. Thấy vậy, B ngừng đâm và cầm dao bỏ đi. H buông tay giữ A ra thì thấy T
đang nằm ngửa, máu ra nhiều. H gọi C đưa T đi cấp cứu. Trên đường đi T đã tử
vong.

B gọi điện thoại cho bạn là K kể về việc B vừa đâm T và nói kế hoạch trốn của B. K
bảo B về nhà K chờ để K đi cầm điện thoại giùm B lấy tiền cho B đi trốn. B trốn ra
Hải Phịng đến ngày 09/4/2003 về đầu thú tại Cơng an huyện D.
Tại Bản kết luận giám định pháp y số 46/GĐPY ngày 03/04/2003 của Tổ chức giám
định pháp y tỉnh kết luận: Nạn nhân T bị tử vong do xuất huyết nội, gây giảm thể
tích máu cấp tính sau các vết thương thủng gan và thủng bàng quang.
Câu hỏi:
a. A có bị coi là đồng phạm với B khơng? Giải thích rõ tại sao? (1 điểm)
b. K có phải chịu trách nhiệm hình sự khơng? Nếu có thì về tội gì? (1 điểm)
c. Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản

2 Điều 173 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần phạm tội này của B
là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm? (1 điểm)
Trả lời:
a. A có bị coi là đồng phạm với B khơng? Giải thích rõ tại sao?
A có bị coi là đồng phạm với B.
Theo khoản 1 Điều 17 BLHS quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở
lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.”.
3


Đồng phạm đòi hỏi những dấu hiệu sau:
* Những dấu hiệu về mặt khách quan: Một là, đòi hỏi phải có hai người trở lên và
những người này có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm. Do đề bài không nêu rõ
nên t coi A đủ 18 tuổi và có đủ năng lực TNHS.
Hai là, những người này phải cùng thực hiện tội phạm (cố ý); phải tham gia vào tội
phạm với một trong bốn hành vi: hành vi thực hiện tội phạm, hành vi tổ chức thực
hiện tội phạm, hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm, hành vi giúp sức
người khác thực hiện tội phạm.
– Trong tình huống trên, A là người xúi giục. A có hành vi xúi giục B giết T. Khoản
2 Điều 20 BLHS quy định: “Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy
người khác thực hiện tội phạm”. Ở đây ta thấy A là người kích động tinh thần, trực
tiếp thúc đẩy B phạm tội khi A nhiều lần la lớn chửi T với nội dung “Chúng mày
đánh chết nó cho tao” khiến B đi trước đã nghe thấy và quay trở lại. Lời nói này trực
tiếp hướng vào T với mục đích muốn đánh chết T, đã kích động B thực hiện hành vi
giết T. Hơn nữa, A không hề can ngăn khi thấy B đâm nhiều nhát vào bụng và ngực
T chứng tỏ A cũng đồng tình với hành vi phạm tội của B. Như vậy, ta thấy A thỏa
mãn là người xúi giục B thực hiện tội phạm.
– B là người thực hành tội phạm bởi B là người trực tiếp thực hiện hành vi giết
người, dùng dao đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T. Hung khí này đã được B giấu
sẵn trong người từ trước. Hành vi của B đã xâm phạm đến tính mạng, thân thể của

T dẫn đến hậu quả T tử vong. B phạm tội giết người theo Điều 123 BLHS.
* Những dấu hiệu về mặt chủ quan:
– Dấu hiệu lỗi:
Về lí trí, mỗi người đều biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội và đều biết
người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng mình. Mỗi người đồng phạm
thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như thấy trước
hậu quả chung của tội phạm mà họ thực hiện. Trong tình huống trên, cả A và B đều
biết hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả sẽ xảy ra và đều biết
người khác cũng có hành vi gây nguy hiểm cho xã hội cùng mình. A biết rõ việc
mình xúi giục đánh chết T là gây nguy hiểm cho tính mạng của T và B cũng nhận
thức rõ việc mình đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T sẽ làm T chết. Hơn nữa, B
cũng hiểu rõ việc A mong muốn giết T thông qua việc A la lớn xúi giục giết T.
Ngược lại, A cũng biết việc B dùng dao đâm T nguy hiểm tới tính mạng của T.
4


Về ý chí, những người đồng phạm cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng
mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh. Trong tình huống
trên, A thể hiện mong muốn hậu quả chết người xảy ra đối với T khi nói: “Chúng
mày đánh chết nó cho tao”, đồng thời A cũng khơng ngăn cản khi B thực hiện hành
vi đâm nhiều nhát vào bụng và ngực T, khơng có phản ứng gì sau khi B bỏ đi chứng
tỏ giữa A và B có sự thống nhất về mặt ý chí khi thực hiện tội phạm.
– Dấu hiệu mục đích: Đồng phạm địi hỏi những người cùng thực hiện phải có cùng
mục đích phạm tội đó. Ở trường hợp này, mục đích mà cả A và B đều hướng tới là
giết T.
Như vậy, A có bị coi là đồng phạm với B; A tham gia vào tội phạm với vai trò là
người xúi giục.
b. K có phải chịu trách nhiệm hình sự khơng? Nếu có thì về tội gì?
K có phải chịu trách nhiệm về hình sự về tội che giấu tội phạm quy định ở Điều 313
BLHS.

Theo điều 18 BLHS về che giấu tội phạm: “Người nào không hứa hẹn trước, nhưng
sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, dấu vết, tang vật
của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm
tội, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội che giấu tội phạm trong những trường
hợp mà Bộ luật này quy định.”
Hành vi của K thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội che giấu tội phạm. Cụ thể:
– Măt khách quan:
+ Hành vi: Che giấu tội phạm là hành vi của một người không hứa hẹn trước nhưng
sau khi biết tội phạm được thực hiện đã che giấu người phạm tội, các dấu vết, tang
vật của tội phạm hoặc có hành vi khác cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người
phạm tội. Trong tình huống này, K biết rõ B đã thực hiện hành vi giết người nhưng
K đã “bảo B về nhà K chờ để K đi cầm điện thoại giùm B lấy tiền cho B đi trốn”; ta
thấy K đã có hành vi che giấu người phạm tội, chứa chấp nuôi giấu người phạm tội
trong nhà, giúp đỡ người phạm tội bỏ trốn cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý
người phạm tội.
+ Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội này.

5


+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả: Hành vi của K đã gây
hậu quả B trốn ra Hải Phịng; gây khó khăn, cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý
người phạm tội giết người là B.
+ Mục đích: Che giấu tội phạm.
– Mặt chủ quan: Lỗi của K là lỗi cố ý trực tiếp, dù K biết B đã phạm tội giết người
nhưng vẫn có hành vi che giấu tội phạm, tạo điểu kiện cho B trốn ra Hải Phòng, trốn
tránh sự trừng phạt của pháp luật.
– Chủ thể: Do đề bài không xác định rõ nên ta coi K là người đủ tuổi luật định và có
đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
– Khách thể: Hoạt động đúng đắn – theo đúng pháp luật của các cơ quan tư pháp.

Đối tượng tác động ở đây là những hoạt động bảo vệ cơng lí, hoạt động đấu tranh
phịng chống tội phạm của các cơ quan tư pháp mà trong tình huống này K là người
đã che dấu tội phạm giết người – là B.
Như vậy, K phải chịu trách nhiệm về hình sự về tội che giấu tội phạm quy định tại
Điều 313 BLHS.
c. Giả sử B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài sản theo
khoản 2 Điều 173 BLHS và chưa được xóa án tích. Hãy xác định lần phạm tội
này của B là tái phạm hay tái phạm nguy hiểm?
Lần phạm tội này của B là tái phạm.
Điều 53. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành
vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố
ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Trong trường hợp trên, B vừa chấp hành xong bản án 3 năm tù về tội trộm cắp tài
sản theo khoản 2 Điều 173 BLHS và chưa được xóa án tích. Xét khoản 2 Điều 173
BLHS ta thấy, mức cao nhất của khung hình phạt quy định trong khoản này là bảy
6


năm tù. Đối chiếu theo quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS thì đây thuộc loại tội
phạm nghiêm trọng.
Hơn nữa, theo khoản 2 Điều 53, người phạm tội chỉ bị coi là tái phạm nguy hiểm khi
đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được
xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. Ta
thấy trường hợp phạm tội của B không thỏa mãn điểm a khoản 2 Điều 53. Đồng thời,

trường hợp này cũng không thỏa mãn điểm b khoản 2 Điều 53.
Do vậy, lần phạm tội này của B khơng là tái phạm nguy hiểm.
Như đã phân tích ở trên, B phạm tội giết người theo Điều 123 BLHS với tình tiết
tăng nặng định khung tại điểm n khoản 1 Điều 123. Xét khoản 1 Điều 123 BLHS ta
thấy mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình, đối chiếu theo quy định tại khoản
3 Điều 8 BLHS thì tội phạm mà B thực hiện thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Hơn nữa B thực hiện tội phạm với lỗi cố ý.
Câu III (3 điểm)
A, B và C bàn nhau trộm cắp tài sản của nhà ông H. Theo sự phân cơng của nhóm,
C mang theo một thanh sắt để cạy phá cửa. Chúng hẹn nhau 10 giờ đêm tập kết ở
địa điểm X. Đến giờ hẹn, C đem thanh sắt đến địa điểm X như đã thỏa thuận nhưng
chờ mãi không thấy A và B đến nên bỏ về nhà ngủ. A và B đến chỗ hẹn quá muộn
nên không gặp được C, nhưng vẫn quyết định đi lấy tài sản theo kế hoạch và đã lấy
được tài sản giá trị 80 triệu đồng. Do không đi lấy tài sản nên C chỉ được A và B
chia cho 5 triệu đồng, C chê ít khơng lấy và cũng khơng nói gì về vụ trộm với bất cứ
ai. Sau một tháng vụ việc bị phát hiện.

Hỏi:
a. Hành vi của C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không? Tại
sao? (1 điểm)
b. Sau khi lấy được tài sản của nhà ông H, A và B đã mang số tài sản đó bán cho K
và K đã mua lại số tài sản này. Vậy, K có phải chịu TNHS về hành vi của mình
khơng? Tại sao? (1 điểm)
c. Giả sử A, B và C mới trịn 15 tuổi thì A, B và C có phải chịu TNHS về hành vi
của mình khơng? Tại sao? (1 điểm)

7


Đáp án:

a. Hành vi của C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không?
Tại sao? (1 điểm)

Trả lời: Hành vi của C không được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm
tội.
Giải thích:
Điều 19 BLHS quy định “ Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình khơng
thực hiện tội phạm đến cùng, tuy khơng có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội
định phạm; nếu hành vi thực tế thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác,
thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.”
Theo quy định này thì hafnh vi được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
phải thỏa mãn những dấu hiệu sau:
– Đầu tiên là về mặt thời điểm phạm tội, tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội
chỉ xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn phạm tội chưa
đạt chưa hoàn thành.
Trong tình huống này ta thấy C đã đem thanh sắt đến địa điểm X để chuẩn bị cậy
cửa nhà ông H, nhưng vì A và B trễ hẹn nên C đã bỏ về nhà ngủ, do vậy C không
thực hiện hết các hành vi để trộm cắp như kế hoạch mà cả ba đã định ra, nên giai
đoạn phạm tội của C là chuẩn bị phạm tội. Bởi lẽ, C mới chỉ sửa soạn, chuẩn bị
phương tiện phạm tội là thanh sắt dùng để cạy cửa và mang tới địa điểm X, thời điểm
C “bỏ về” là thời điểm trước lúc C bắt đầu thực hiện hành vi khách quan được phản
ánh trong cấu thành tội phạm. Như vậy, hành vi của C thoả mãn dấu hiệu thứ nhất.
– Về tâm lý, việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải là tự nguyện và dứt
khoát. Tự nguyện là do bên trong thúc đẩy, do ý thức chủ quan của người đó, khơng
phải do những ngun nhân khách quan chi phối. Khi dừng lại, người phạm tội vẫn
tin rằng, hiện tại khơng có gì ngăn cản và vẫn có thể thực hiện được tội phạm. Sự
dứt khốt là phải chấm dứt hành vi một cách triệt để, không còn ý định tiếp tục thực
hiện nữa. Xét về yếu tố tự nguyện thì tự nguyện phải xuất phát từ ý thức chủ quan
của bản thân C. Nhưng ở đây C dừng hành vi phạm tội của mình là do đợi không

thấy A và B nên bỏ về. Việc “chờ mãi không thấy A và B đến nên bỏ về” tức là nếu
8


A và B đến đúng giờ thì giữa thỏa thuận giữa chúng vẫn được thực hiện, chúng vẫn
tiếp tục thực hiện tội phạm, đồng nghĩa với việc C vẫn mong muốn cho hành vi phạm
tội được diễn ra. Hơn nữa, C biết là hành vi của A và B có gây nguy hiểm cho xã hội
nhưng C đã không ngăn cản hay tố giác hành vi đó và để mặc hậu quả xảy ra. Vì
vậy, hành vi của C khơng phải là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội.
b. Sau khi lấy được tài sản của nhà ông H, A và B đã mang số tài sản đó bán
cho K và K đã mua lại số tài sản này. Vậy, K có phải chịu TNHS về hành vi của
mình khơng? Tại sao? (1 điểm)
Trả lời :
Trường hợp 1: Ông K mua lại số tài sản của A, B mà không biết số tài sản mua
được là từ hành vi trộm cắp mà có thì khơng phải chịu TNHS do:
Thứ nhất, xét về nguyên tắc lỗi trong mặt chủ quan của tội phạm trong bộ luật hình
sự. Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của
mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý
hoặc vơ ý. Mà lỗi là dấu hiệu không thể thiếu trong bất cứ CTTP nào. Điều 27 BLHS
quy định “Hình phạt khơng chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ
trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của
cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới…”. Như vậy, một người
khơng có lỗi thì khơng cần thiết phải giáo dục để nhận ra lỗi lầm vì sự thực là họ
khơng có lỗi để nhận ra. Một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
không có lỗi thì sẽ khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của
mình.
Thứ hai, nếu ta liên hệ mở rộng thì K rơi vào tình huống được quy định trong điều
189 BLDS “…Người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình
là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là
khơng có căn cứ pháp luật.”. Nhưng bên cạnh đó cũng có thể có thêm một trường

hợp xảy ra đó là tài sản mà A và B bán cho ông K là động sản phải đăng kí quyền sở
hữu. Vậy thì dù có thỏa thuận, hứa hẹn trước hay khơng thì ơng K cũng buộc phải
biết được tài sản này là do A và B đi ăn trộm mà có được. Tuy nhiên, trong đề bài
chỉ nêu chung chung là tài sản chứ không nêu rõ là loại nào nên nhóm em coi rằng
tài sản ông K mua của A và B là động sản không phải đăng ký sở hữu theo BLDS.
Trường hợp 2: Ông K mua lại số tài sản của A, B mà biết số tài sản mua được là từ
hành vi trộm cắp mà có thì phải chịu TNHS do:

9


Hành vi của K thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của tội chứa chấp hoặc
tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Điều 250-BLHS quy định : “1.Người
nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác
phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải
tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Đó là các dấu hiệu về khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, mặt
chủ quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm. Cụ thể:
– Khách thể của tội phạm: Hành vi tiêu thụ tài sản của K trực tiếp xâm phạm an tồn
cơng cộng, ngồi ra hành vi này cịn cản trở hoạt động đúng đắn của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong việc điều tra, xử lí người phạm tội, gián tiếp người
khác phàm tội nhiều lần.
– Mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Ở đây, K biết rõ
tài sản có được do thực hiện hành vi phạm pháp nhưng vẫn tiêu thụ .
– Chủ thể của tội phạm: Do đề bài không đề cập đến tuổi và năng lực trách nhiệm
của K nên nhóm xin mặc định cho K là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và
đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Vì nếu là người chưa đủ năng lực
trách ngiệm hình sự và dưới 16 tuổi thì rất khó có thể thực hiện được hành vi này.
– Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Tài sản do người khác phạm tội mà có

được hiểu là tài sản đang được một người chiếm hữu khơng hợp pháp và tài sản đó
là đối tượng của tôi phạm mà họ đã thực hiện trước đó. Hành vi tiêu thụ tài sản được
hiểu là những hành vi có tính chất làm “ dịch chuyển” tài sản từ người có tài sản do
phạm tội sang người khác như hành vi mua tài sản đó, tạo điều kiện để bán trao đổi
tài sản .
Trong quy định về tội, điều luột khôn xác định chứa chấp, tiêu thụ tài sản có giá trị
bao nhiêu mà quy định “ ….. chứ chấp, tiêu thụ tài sản mà biết do người khác phạm
tội mà có….” . Qua quy định này có thể hiểu chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người
khác phạm tội mà có ( trừ đối tượng hàng cấm) luôn cấu thành tội phạm mà không
phụ thuộc vao mức đội. Cụ thể trong tình huống này K có hành vi mua lại tài sản
của A và B do hành vi trộm cắp mà có.
Như vậy , từ sự phân tích trên ta có thể thấy hành vi mua lại tài sản của A và B trộm
cắp được từ nhà ông H của K đã đủ các dấu hiệu cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu
thụ tài sản do người khác phạm tội mà có quy định tại Điều 250- BLHS.
10


c. Giả sử A, B và C mới tròn 15 tuổi thì A, B và C có phải chịu TNHS về hành
vi của mình khơng? Tại sao? (1 điểm)
Trả lời: Nếu theo đề bài cho là A,B và C mới trịn 15 tuổi thì A,B và C sẽ khơng
phải chịu TNHS về hành vi của mình.
Giải thích:
TNHS là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về
hành vi phạm tội của mình.
Theo đề bài cho thì A và B đã lấy được tài sản trị giá 80 triệu đồng.Trường hợp này
đã phạm tội trộm cắp tài sản theo điểm e khoản 2 Điều 138 BLHS:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm:
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.”
Vì A và B đã “ lấy được tài sản có giá trị 80 triệu đồng” nên sẽ phạm tội thuộc điểm

e khoản 2 Điều 138 BLHS. Mức phạt tù cao nhất đối với khoản này là “đến bảy năm
tù” nên trường hợp này thuộc trường hợp phạm tội nghiêm trọng.
Theo Khoản 3 Điều 8 BLHS quy định: “tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây
nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy
là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà
mức cao nhất là của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là
tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt
đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Điều luật căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà tội
phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm
rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Theo điều 12 BLHS quy định tuổi chịu TNHS :
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2 .Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

11


Đề bài cho độ tuổi của A, B và C “mới tròn 15 tuổi” nên sẽ thuộc khoản 2 Điều 12
BLHS thì sẽ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội đặc biệt
nghiêm trọng. Như đã phân tích ở trên thì A, B và C chỉ phạm tội nghiêm trọng (
“Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù”- theo khoản 3 Điều 8 BLHS).
Đới chiếu với Khoản 2 Điều 12 BLHS : “2.Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa
đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.” thì A, B và C sẽ khơm phạm tội vì tội phạm mà họ
thực hiện là tội nghiêm trọng, nên nếu theo giả thiết cả đề bài cho là tuổi của A, B

và C thì họ khơng phải chịu TNHS về hành vi của mình. Trong trường hợp này có
thể bị xử lý hành chính và bố mẹ hoặc người giám hộ của A, B và C sẽ chịu trách
nhiệm phải trả lại tài sản cho ông H, nếu khơng trả được lại tài sản thì phải trả số
tiền tương ứng và những yêu cầu khác nếu ông H yêu cầu.

12



×