Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

BTL Triết học Mác Lênin NEU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.89 KB, 11 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
------0O0------

BÀI TẬP LỚN

TRIẾT HỌC MÁC – LENIN

ĐỀ TÀI SỐ: 2
Chứng minh: Quan niệm về vật chất trong Triết học Mác – Lenin là
quan niệm hồn chỉnh và có giá trị nhất trong lịch sử chủ nghĩa duy vật.
Họ, tên SV: Trần Thị Ước
Lớp: KTTNTN

Mã SV: 11208365
Khóa: 62

LỜI NĨI ĐẦU
1

GĐ: D-307


Vật chất (VC) là một phạm trù nền tảng của chủ nghĩa duy vật triết học
có nền tảng khoảng 2500 năm, xuất hiện cùng với sự ra đời của triết học
trong lịch sử. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, xung quang vấn đề này
luôn diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy vật coi thực thể thế giới là VC tồn
tại vĩnh cửu, tạo nên mọi sự vật hiện tượng và các thuộc tính của chúng.
Chủ nghĩa duy tâm tìm mọi cách phủ nhận và làm sụp đổ phạm trù vật
chất của chủ nghĩa duy vật. Chúng cơng kích, xun tạc phạm trù vật
chất, cho rằng cơ sở tồn tại của thế giới là một bản nguyên tinh thần nào


đó. Có thể là do ý Chúa, do ý niệm tuyệt đối tạo nên. Vì vậy, họ cho rằng
vật chất chỉ là một phạm trù trống rỗng, phi hiện thực, một sự nhào nặn
chủ quan của các nhà duy vật. Phạm trù vật chất có q trình phát sinh
phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người và sự hiểu biết
của con người về thế giới tự nhiên. Việc tìm hiểu, khám phá về bản chất,
cấu trúc của thế giới xung quanh con người luôn luôn là một vấn đề được
quan tâm trong các trường phái triết học duy vật. Vào thời kỳ trước khi
có sự xuất hiện của triết học Mác thì người ta quan niệm, tìm mọi cách để
tìm hiểu, để giải thích nguyên thể cơ bản đầu tiên cấu tạo nên thế giới. Và
vì vậy, phạm trù vật chất được xuất hiện từ khá sớm và được đặc biệt
quan tâm.Tuy nhiên, mãi cho đến khi quan niệm về vật chất trong Triết
học Mác – Lenin ra đời thì đây được coi là quan niệm hồn chỉnh và có
giá trị nhất trong lịch sử chủ nghĩa duy vật. Để làm rõ cho quan điểm đó,
nội dung bài tiểu luận được chia thành các mục và tiểu mục như sau:
I. Cơ sở lý luận
1. Quan niệm về vật chất trong triết học trước Mác
1.1. Quan niệm về vật chất trong triết học trước Mác.
1.2. Tính đúng đắn và những sai lầm của những quan niệm về vật
chất trong triết học trước Mác.
2. Quan niệm về vật chất trong Triết học Mác – Lenin
2.1. Hoàn cảnh ra đời của định nghĩa.
2.2. Định nghĩa của Triết học Mác – Lenin về vật chất.
2


2.3. Phân tích định nghĩa của Triết học Mác – Lenin về vật chất.
2.4. Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của Triết
học Mác – Lenin.
II. Kết luận.
III. Tài liệu tham khảo.


I. Cơ sở lý luận.
3


1. Quan niệm về vật chất trong triết học trước Mác.
1.1. Quan niệm về vật chất trong triết học trước Mác.
* Chủ nghĩa duy tâm:
- Các nhà triết học duy tâm, cả chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa
duy tâm chủ quan, từ thời cổ đại đến hiện đại tuy buộc phải thừa nhận sự tồn tại
của các sự vật, hiện tượng của thế giới nhưng lại phủ nhận đặc trưng “tự thân tồn
tại” của chúng.
+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan thừa nhận sự tồn tại hiện thực của giới tự
nhiên, nhưng lại cho rằng nguồn gốc của nó là do “sự tha hố” của “tinh thần thế
giới”.
+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng đặc trưng cơ bản nhất của mọi sự
vật, hiện tượng là sự tồn tại lệ thuộc vào chủ quan, tức là một hình thức tồn tại
khác của ý thức.
- Do đó về mặt nhận thức luận, chủ nghĩa duy tâm cho rằng con người hoặc
là không thể, hoặc là chỉ nhận thức được cải bóng, cái bề ngồi của sự vật, hiện
tượng. Thậm chí q trình nhận thức của con người, theo họ, chẳng qua chỉ là quá
trình ý thức đi “tìm lại” chính bản thân mình dưới hình thức khác mà thôi.
- Như vậy, về thực chất, các nhà triết học duy tâm đã phủ nhận đặc tính tồn
tại khách quan của vật chất. Thế giới quan duy tâm rất gần với thế giới quan tôn
giáo và tất yếu dẫn họ đến với thần học.
* Chủ nghĩa duy vật trước Mác : Cho rằng vật chất( giới tự nhiên) là có trước,
là quyết định, cịn ý thức (tinh thần) có sau, bị quyết định. Quan điểm này phù hợp
với thực tiễn, tuy nhiên khi trả lời câu hỏi vật chất là gì thì các nhà duy vật trước
mác lại có những quan điểm khác nhau.
-


Chủ nghĩa duy vật thời Cổ đại:

+ Ở Hy Lạp nói riêng, ở phương Tây nói chung các nhà triết học duy vật
đã đồng nhất vật chất nói chung với các dạng cụ thể nào đó của nó.
+ Ở phương Đơng, quan niệm vật chất thể hiện qua một số trường phái
triết học Ân Độ và Trung hoa về thế giới. Ấn Độ có Trường phái Lokāyata cho
rằng tất cả được tạo ra bởi sự kết hợp trong 4 yếu tố Đất- Nước - Lửa - Khí. Những
yếu tố này có khả năng tự tồn tạI, tự vận động trong không gian và cấu thành vạn
4


vật. Tính đa dạng của vạn vật chính là do sự kết hợp khác nhâu của 4 yếu tố bản
nguyên đó. Phái Nyāya và Vaisésịka coi nguyên tử là thực thể của thế giới.
+ Trung Hoa có Thuyết Âm Dương cho rằng nguyên lý vận hành đầu
tiên và phổ biến của vạn vật là tương tác của những thế lực đối lập nhau đó
là Âm và Dương. Trong đó âm là phạm trù rất rộng phản ánh khái quát, phổ biến
của vạn vật như là nhu, tối, ẩm, phía dưới, bên phải, số chẵn. Dương cũng là phạm
trù rất rộng đối lập với âm. Phản ánh những thuộc tính như cương, sáng, khơ, phía
trên, số lẻ, bên trái. Hai thế lực này thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau tạo
thành vũ trụ và vạn vật. Thuyết Ngũ hành của Trung quốc có xu hướng phân tích
về cấu trúc của vạn vật để quy nó về yếu tố khởi nguyên với tính chất khác nhau.
Theo thuyết này có 5 nhân tố khởi nguyên là Kim- Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ.






Kim tượng trưng cho tính chất trắng, khơ, cay, ở phía Tây

Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua, ở phía Đơng.
Thủy tượng trưng cho tính chất đen, mặn, ở phía Bắc.
Hỏa tượng trưng cho tính chất đỏ, đắng, ở phía Nam.
Thổ tương trưng cho tính chất vàng, ngọt, ở giữa.

Năm yếu tố này không tồn tại độc lập, tuyệt đối mà tác động lẫn nhau theo nguyên
tắc tương sinh, tương khắc với nhau tạo ra vạn vật. Những tư tưởng về âm, dương,
ngũ, hành, tuy có nhưng hạn chế nhất định nhưng đó là triết lý đặc sắc mang tính
duy vật và biện chứng nhằm lý giải về vật chất và cấu tạo của vũ trụ
+ Ở phương Tây, các nhà triết học quy thế giới vào một chỉnh thể thống
nhất từ đó đi tìm bản ngun vật chất đầu tiên cấu tạo nên thế giới đó, chẳng hạn
người ta cho rằng vật chất là nước, khơng khí, lửa......Một số quan điểm điển hình
thời kỳ này là: Thales coi vật chất là nước, Anaximenes coi vật chất là khơng khí,
Heraclitus coi vật chất là lửa, Anximangdo coi vật chất là hạt praton, đây là một
thực thể không xác định về chất. Đặc biệt đỉnh cao của quan niệm về vật chất của
thời kỳ Hy Lạp cổ đại là thuyết nguyên tử của Leucipe và Democritos. Theo thuyết
này thì thực thể tạo nên thế giới là nguyên tử và nó là phần tử nhỏ bé nhất và
khơng thể phân chia được, khôg thể xâm nhập và quan sát được, chỉ có thể nhận
biết được bằng tư duy. Các nguyên tử không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau
về hình dạng. Sự kết hợp các nguyên tử khác nhau theo một trật tự khác nhau sẽ
tạo nên vật thể khác nhau.
Chủ nghĩa duy vật thế ký XV – XVIII: Vào thế kỷ 17, thế kỷ 18 nền khoa
học tự nhiên, thực nghiệm ở châu âu có sự phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là trên lĩnh
5


vực vật lý học với phát minh của Newton, phương pháp nghiên cứu ở trong vật lý
đã xâm nhập ảnh hưởng rất lớn vào trong triết học. Chủ nghĩa duy vật nói chung và
phạm trù vật chất nói riêng đã có những bước phát triển mới chứa đựng nhiều yếu
tố biện chứng:

+ Nicolai Copernic chứng minh mặt trời là trung tâm đã làm đảo lộn
truyền thuyết của kinh thánh và quan điểm của thần học về thế giới.
+ Quan điểm của Francis Bacon: coi tg VC tồn tại kquan, VC là tổng
hợp các hạt. Ông coi tự hiên là tổng hợp của những VC có chất lượng ln màu,
mn vẻ.
+ Quan điểm của Pierre Gassendi: Phát triển học thuyết nguyên tử của
thời cổ đại cho rằng thế giới gồm những ngun tử có tính tuyệt đối như tính kien
cố và tính ko thể thơng qua.
+ Thế kỷ 18 các nhà triết học Pháp đã phát triển phạm trù vật chất lên
một tầm cao mới. Đitơro cho rằng vũ trụ trong con người, trong mọi sự vật chỉ có 1
thực thể duy nhất là vật chất. Sự sâm nhập ấy đã chi phối sự hiểu biết, nhận thức về
vật chất, mọi hiện tượng tự nhiên đã được giải thích là được tác động qua lại giữa
lực hút và lực đẩy, giữa các phần tử của vật chất, các phần tử ấy là bất biến. Sử
thây đổi của nó chỉ là mặt vị trí, hình thể trong khơng gian. Mọi sự phân biệt về
chất bị xem nhẹ và đều được quy giải chỉ sự khác nhau về lượng. Vì vậy, các nhà
triết học duy vật thờikỳ này đã đồng nhất vật chất với khối lượng và coi vận động
của vật chất chỉ là vận động cơ học và nguyên nhân của sự vận động đó là do tác
động từ bên ngồi.
+ Vào thế kỷ 19, trong nền triết học Đức cổ điển là Ludwig Feuerbach
(1804), ông chứng minh và khẳng định rằng thế giới này là vật chất và vật chất
theo ông là tồn bộ thế giới tự nhiên. Nó khơng sáng tạo ra mà nó tồn tại độc lập
với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ ý niệm, ý thức nào. Sự tồn tại của giới tự
nhiên năm ngay trong lòng của giới tự nhiên. tuy nhiên L.Feuerbach lại khôngthấy
đuợc mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, mối quan hệ giữa con người với xã hội,
con ngườivới giới tự nhiên. Ơng đã khơng xác định đuợc vật chất trong lĩnh vực xã
hội, cung như hoạt độngvật chất của con người là gì.
1.2. Tính đúng đắn và những sai lầm của những quan niệm về vật chất trong triết
học trước Mác.
6



- Các nhà triết học trước Mác trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm
đã hết sức quan tâm giải quyết vấn đề cốt lõi là vật chất. Họ đưa ra những kiến
giải khác nhau về vật chất và qua đó đã có những đóng góp hết sức quan trọng đối
với lịch sử phát triển của triết học duy vật.
- Các nhà triết học trước Mác đã xác lập phương pháp luận tích cực cho sự
phát triển nhận thức một cách khoa học về thế giới, đặc biệt trong việc giải thích về
cấu tạo vật chất khách quan của các hiện tượng tự nhiên, làm tiền đề cho giải quyết
đúng đắn nhiều vấn đề trong việc ứng xử tích cực giữa con người và giới tự nhiên,
vì sự sinh tồn và phát triển của con người.
- Tuy nhiên, tất cả họ đều mắc phải những hạn chế lớn nhất là đồng nhất vật
chất với vật thế hoặc một thuộc tính nào đó của vật thể, chưa bao qt được mọi
tồn tại vật chất trong thế giới. Mặt khác, quan niệm này mới chỉ được tiếp cận từ
giác độ cấu tạo bản thể vật chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới, giác độ
nhận thức luận chưa được nghiên cứu đầy đủ; tức là chưa giải quyết được triệt để
phạm trù vật chất từ góc độ giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của triết học. Những
hạn chế này được khắc phục trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật
biện chứng.
2. Quan niệm về vật chất trong Triết học Mác – Lenin
2.1. Hoàn cảnh ra đời của định nghĩa.
- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX cuộc cánh mạng trong KHTN đã mở ra
nhiều phát minh có tính bước ngoặt làm đảo lộn những nguyên tắc cũ, xuất hiện
một loạt những phát minh khoa học mới góp phần bác bỏ những quan niệm cũ về
vật chất cụ thể là:
+ Năm 1895 tìm ra tia X (tia rơn ghen) chứng tỏ trong tự nhiên vật chất
khơng chỉ là chất (tức là những cái có khối lượng, có quảng tính và có cấu trúc
ngun tử) mà vật chất còn là trường (dạng vật chất mang tính liên tục, nó khơng
xác định về mặt khối lượng, khơng có cấu trúc ngun tử).
+


Năm 1896 phát hiện ra hiện tượng phóng xạ chứng tỏ nguyên tử cũng

tiêu tan.
+ Năm 1897 tìm ra electơron (điện tử) chứng tỏ nguyên tử cũng không
phải là kết cấu vật chất cuối cùng (cấu trúc này vẫn có thể phân chia được nữa). -

7


Sang đầu thế kỷ XX phát hiện ra hiện tượng thay đổi của khối lượng, quán tính và
thời gian trong sự phụ thuộc vào tốc độ vận động.
- Khoa học chứng minh rằng khơng có dạng vật chất đầu tiên. Từ những phát
minh khoa học trên đã làm xuất hiện sự khủng hoảng trong lập trường tư tưởng của
một số nhà khoa học, nhà triết học, từ đó làm khơi phục lại chủ nghĩa duy tâm và
thuyết bất khả tri, chống lại chủ nghĩa Mác. Trước bối cảnh đó Lenin đã viết tác
phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” xuất bản năm 1909
mà trong đó ông đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất (được thừa nhận như là
một định nghĩa chính thống của chủ nghĩa Mác).
2.2. Định nghĩa của Triết học Mác – Lenin về vật chất.
2.2.1. Phương pháp
- Để đưa ra một quan niệm thực sự khoa học về vật chất, V.I.Lenin đặc biệt
quan tâm đến việc tìm kiếm phương pháp định nghĩa cho phạm trù này. Thông
thường, để định nghĩa một khái niệm nào đó, người ta thực hiện theo cách quy khái
niệm cần định nghĩa vào khái niệm rộng hơn nó rồi chỉ ra dấu hiệu đặc trưng của
nó. Nhưng, theo V.I.Lenin, vật chất thuộc loại khái niệm rộng nhất, rộng đến cùng
cực, cho nên khơng thể có một khái niệm nào rộng hơn nữa. Do đó, khơng thể định
nghĩa khái niệm vật chất theo phương pháp thông thường mà phải dùng một
phương pháp đặc biệt – định nghĩa nó thơng qua khái niệm đối lập với nó trên
phương diện nhận thức luận cơ bản, nghĩa là phải định nghĩa vật chất thông qua ý
thức. V.I.Lenin viết: “Không thể đem lại cho hai khái niệm nhận thức luận này một

định nghĩa nào khác ngoài cách chỉ rõ rằng trong hai khái niệm đó, cái nào được
coi là có trước”.
2.2.2. Định nghĩa của Triết học Mác – Lenin về vật chất
- Tiếp thu tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen, trên cơ sở khái quát những
thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX về
mặt triết học, trên cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật
chất, V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm
trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong
cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
khơng lệ thuộc vào cảm giác”
2.3. Phân tích định nghĩa của Triết học Mác – Lenin về vật chất
Diễn đạt lại định nghĩa: Với tư cách là phạm trù triết học, khái niệm vật
chất dùng để chỉ thực tại khách quan; thực tại đó được đem lại cho con người trong
8


cảm giác; thực tại đó được cảm giác con người chép lại, chụp lại, phản ánh; thực
tại đó tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác.
-

Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau:



Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan.
+ Vật chất được coi là phạm trù triết học khi nó được xem xét dưới góc
độ của triết học, chứ khơng phải dưới góc độ của các khoa học cụ thể. Về
nội hàm, nó phải có giá trị khái quát nhất mọi thuộc tính tồn tại trong thế
giới. Khái niệm đó phải được xác lập trên cơ sở giải quyết 2 mặt vấn đề cơ
bản triết học.

+ Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan, Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu,
nhiều vẻ của các sự vật, hiện tượng, mà nêu bật đặc tính nhận thức luận cơ
bản nhất, phổ biến nhất có ở tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện
thực khách quan. Đó chính là “thực tại khách quan”. “Thực tại” là những gì
tồn tại có thật chứ không phải ảo. “Khách quan” là tất cả những gì tồn tại ở
bên ngồi và khơng lệ thuộc vào ý thức của con người. Đặc tính này là dấu
hiệu cơ bản để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì khơng phải là vật chất.
+
Phạm trù vật chất trong định nghĩa này, phải được hiểu bao gồm tất
cả những gì tồn tại và khơng lệ thuộc vào ý thức. Như vậy, vật chất với tư
cách là phạm trù triết học, nó chỉ thực tại khách quan nói chung, nó là vơ
hạn, vơ tận, khơng sinh ra, khơng mất đi. Còn vật chất với tư cách là phạm
trù khoa học cụ thể, đó là những dạng tồn tại cụ thể của vật chất, đều có giới
hạn, sinh ra, mất đi để chuyển hóa thành cái khác. Vì vậy, không thể quy vật
chất về vật thể, không thể đồng nhất vật chất với những dạng cụ thể của vật
chất giống như quan niệm của các nhà duy vật trước Mác.



Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác.
+ Điều đó khẳng định vật chất là cái có trước, cảm giác (ý thức) là cái
có sau, vật chất đóng vai trị quyết định nguồn gốc và nội dung khách quan
của ý thức. Bởi vì, thực tại khách quan (vật chất là thực tại khách quan) đưa
lại cảm giác cho con người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực
tại khách quan. Đến đây, định nghĩa đã giải quyết được mặt thứ nhất của
vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.




Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
9


- Điều này khẳng định rằng, con người có khả năng nhận thức được thế
giới hiện thực khách quan. Đến đây, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã
giải quyết được mặt thứ hai của vấn đề cơ bản triết học trên lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Vật chất khơng tồn tại một cách vơ hình, thần bí mà tồn tại một cách
hiện thực, được biểu hiện dưới dạng các sự vật, hiện tượng cụ thể mà giác
quan của chúng ta có thể nhận biết một cách trực tiếp hay gián tiếp, do đó
về ngun tắc, khơng có đối tượng vật chất khơng thể nhận thức được, mà
chỉ có những đối tượng vật chất chưa nhận thức được mà thôi.
+
Nguồn gốc của cảm giác là từ thế giới ở bên ngoài, khi sự vật tác
động vào giác quan của con người thì con người có cảm giác về chúng.
Bằng các phương thức nhận thức khác nhau (chép lại, chụp lại, phản ánh ...)
con người có thể nhận thức được thế giới vật chất.
- Như vậy, định nghĩa vật chất của V.I. Lênin đã bác bỏ thuyết bất khả tri,
đồng thời chỉ ra rằng, vật chất phải được hiểu tất cả những cái gì tồn tại
khách quan bên ngoài ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức
được hay chưa nhận thức được.
2.4. Ý nghĩa phương pháp luận của quan niệm vật chất của Triết học Mác – Lenin.
- Một là: Định nghĩa trên đã góp phần khắc phục được quan niệm siêu hình về
vật chất, đó là khơng quy vật chất về cái cụ thể mà đồng nhất nó với thực tại khách
quan nói chung (Cái thực tại khách quan ấy mới là vĩnh viễn, mới là cái vô cùng
tận).
- Hai là: Định nghĩa đã góp phần giải quyết được cả hai mặt vấn đề cơ bản của
triết học theo lập trường duy vật và theo lập trường khả tri luận (theo thuyết có thể

biết)
- Ba là: Định nghĩa góp phần đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, nhất là duy
tâm về xã hội. Vì theo định nghĩa này đưa vào thuộc tính tồn tại khách quan mà ta
có thể phân biệt trong xã hội xem đâu là vật chất, đâu là tinh thần.
Bốn là: Định nghĩa là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu về các dạng cấu
trúc vật chất của thế giới có liên quan đến dạng vật chất mới như là: hạt và phản
hạt; vật chất và phản vật chất.
II. Kết luận.
Tóm lại: Theo định nghĩa của LêNin vật chất được hiểu như sau:
10


Vật chất là tất cả những gì đang tồn tại khách quan bên ngồi đầu óc con
người, khơng phụ thuộc vào ý thức, cảm giác của con người.
- Vật chất là những cái mà khi tác động lên các giác quan của con người một
cách trực tiếp hay gián tiếp thì sẽ gây nên cho con người cảm giác.
- Vật chất là những cái mà trong quan hệ đối với chúng thì ý thức, cảm giác của
con người chẳng qua chỉ là sự phản ánh của chúng mà thôi.
III. Tài liệu tham khảo.
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Giáo trình Triết học Mác – Lenin ( Sử dụng trong các
trường đại học – hệ không chuyên lý luận chính trị ) ( Tài liệu dùng tập huấn giảng
dạy năm 2019 ).
2. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia - Giáo trình tư tưởng
Hồ Chí Minh - Nxb CTQG, H., 2003.
3. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia - Giáo trình triết học
Mác-Lênin - Nxb CTQG, H., 1999.

11




×