Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Nghiên cứu biến đổi nồng độ IL-6, IL-10 huyết tương và mối liên quan với thời điểm phẫu thuật kết hợp xương ở bệnh nhân đa chấn thương có gãy xương lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.42 KB, 27 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đa chấn thương là vấn đề được quan tâm rất nhiều của cả hệ
thống y tế và toàn xã hội ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Điều trị gãy xương lớn ở bệnh nhân (BN) đa chấn thương vẫn
còn nhiều tranh cãi nhất là về thời điểm phẫu thuật và phương pháp
kết hợp xương (KHX) tối ưu liên quan diễn biến sinh lý bệnh ở BN
đa chấn thương.
Đáp ứng viêm hệ thống và phản ứng miễn dịch xảy ra khi cơ thể
giải phóng quá mức và mất cân bằng giữa các cytokine tiền viêm
Interleukin-6 (IL-6) và cytokine kháng viêm Interleukin-10 (IL-10)
do tổn thương nặng ở các cơ quan sau khi bị chấn thương và sau can
thiệp phẫu thuật.
Trên thế giới, đã có nhiều nghiên cứu (NC) tập trung nhiều vào
đánh giá vai trò IL-6, IL-10 huyết tương trong theo dõi, tiên lượng
BN chấn thương, mối liên quan với độ nặng tổn thương, thời điểm
phẫu thuật và giá trị tiên lượng biến chứng sau phẫu thuật KHX ở
BN đa chấn thương. Ở Việt Nam vấn đề này cần được tiếp tục NC bổ
sung.
Trên cơ sở đó, đề tài “Nghiên cứu biến đởi nồng độ
Interleukin 6, Interleukin 10 huyết tương và mối liên quan với
thời điểm phẫu thuật kết hợp xương ở bệnh nhân đa chấn
thương có gãy xương lớn” được thực hiện nhằm mục tiêu:
1. Khảo sát biến đổi nồng độ IL-6, IL-10 va tỷ lệ IL-6/IL-10
huyết tương, mối liên quan với đặc điểm, độ nặng tổn thương ở bệnh
nhân đa chấn thương có gãy xương lớn.
2. Xác định mối liên quan giữa nồng độ IL-6, IL-10 va tỷ lệ
IL-6/IL-10 huyết tương với thời điểm phẫu thuật, biến chứng toan


2


thân va tiên lượng sau phẫu thuật kết hợp xương ở bệnh nhân đa
chấn thương có gãy xương lớn.
Những điểm mới về khoa học và giá trị thực tiễn của đề tài
Với 2 mục tiêu, NC đã cung cấp thêm bằng chứng khoa học về
sự biến đổi nồng độ IL-6, IL-10, IL-6/IL-10 huyết tương tại các thời
điểm sau chấn thương, mối liên quan với độ nặng, đặc điểm tổn
thương và thời điểm phẫu thuật giá trị tiên lượng biến chứng sau
phẫu thuật KHX ở BN đa chấn thương có gãy xương lớn. Qua kết
quả NC thấy rằng xét nghiệm định lượng IL-6, IL-10 ở BN đa chấn
thương có gãy xương lớn nhằm giúp thầy thuốc tiên lượng đúng và
có thái độ xử trí phù hợp, hiệu quả trong cấp cứu, điều trị BN. KHX
thực thụ chỉ nên tiến hành từ ngày thứ 5 sau chấn thương trở đi.
CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Luận án gồm 127 trang không kể tài liệu tham khảo và phụ lục,
có 62 bảng, 8 hình ảnh và 19 biểu đồ. Đặt vấn đề 2 trang, tổng quan
35 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 20 trang, kết quả
nghiên cứu 32 trang, bàn luận 34 trang, kết luận 2 trang, kiến nghị 1
trang, hạn chế của đề tài 1 trang. Luận án có 147 tài liệu tham khảo
(20 tài liệu tiếng Việt, 127 tài liệu tiếng Anh)
Chương 1 TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về đa chấn thương
1.1.1. Khái niệm về đa chấn thương
Tại hội nghị ngoại khoa của Pháp năm 1971, lần đầu tiên Patel
A và Trillat A đã đưa ra định nghĩa về đa chấn thương được dùng để
chỉ những BN (BN) có từ hai tổn thương nặng trở lên ở ngoại vi hoặc
nội tạng có gây ảnh hưởng tới hơ hấp và tuần hồn.


3
1.1.2. Các bảng điểm phân loại và tiên lượng BN đa chấn thương

Lợi thế của các bảng điểm đánh giá độ nặng tổn thương chính là
sự thống nhất, đánh giá tổn thương theo một “ngôn ngữ” chung mà
không phụ thuộc những đặc riêng của từng nhóm BN như: cơ chế tổn
thương, tuổi, vùng địa lý, hệ thống điều trị: Bảng điểm chấn thương
sửa đổi RTS theo Champion và cs (1989), Thang điểm tổn thương rút
gọn AIS theo Hiệp hội an tồn giao thơng Mỹ (AIS-90), Bảng điểm
độ nặng tổn thương ISS theo Baker S.P và cs (1974). RTS, ISS là
những bảng điểm đã được sử dụng rộng rãi để phân loại độ nặng BN
chấn thương ở nhiều nước trên Thế giới và ở Việt Nam.
1.2. Điều trị gãy các xương lớn ở BN đa chấn thương
1.2.1. Điều trị toàn diện sớm
Điều trị toàn diện sớm theo tác giả Enninghorst và cs (2011) có
nghĩa là các thương tổn ở chi thể cũng được phẫu thuật điều trị triệt
để trong 24 giờ đầu sau tai nạn cùng với các tổn thương khác. Chỉ
định KHX sớm không căn cứ vào độ nặng tổn thương, gãy ít hay
nhiều xương và thậm chí kể cả BN cần hồi sức hay không. Theo
Nicola R (2013) cho rằng, phẫu thuật KHX sớm có nhiều ưu điểm
như giảm tỷ lệ biến chứng, di chứng và rút ngắn thời gian nằm viện.
1.2.2. Phẫu tḥt kiểm sốt tởn thương
Phẫu thuật kiểm soát thương tổn là những phẫu thuật tối thiểu,
thời gian ngắn, kỹ thuật đơn giản, có tác dụng khống chế các nguyên
nhân gây sốc, suy hô hấp, không cần sửa chữa tồn diện cơ quan tổn
thương, có thể sửa chữa bổ xung sau đó. Pape HC và cs (2002) NC
các BN đa chấn thương (điểm ISS ≥ 18) có gãy xương đùi được phẫu
thuật, kết quả NC cho thấy tỷ lệ biến chứng suy đa tạng giảm rõ rệt
khi phẫu thuật kiểm soát tổn thương so với điều trị toàn diện sớm.


4
1.2.3. Phẫu thuật kỳ 2

Phẫu thuật kỳ 2 (Secondary surgery) điều trị gãy xương lớn là
các phẫu thuật tiến hành nhằm cố định vững chắc xương gãy. Thời
điểm KHX phù hợp quyết định rất nhiều đến kết quả điều trị và phục
hồi chức năng. Độ nặng tổn thương là một trong những yếu tố quyết
định tới việc chỉ định và thời điểm phẫu thuật KHX ở BN đa chấn
thương đã được nhiều tác giả thừa nhận.
1.3. Đáp ứng viêm trong đa chấn thương
1.3.1. IL-6, IL-10 trong đa chấn thương
Interleukin-6: là một cytokin tiền viêm. Sự giải phóng của IL-6
vào trong máu ngoại vi dường như là một chất chỉ điểm sớm của tổn
thương nặng sau chấn thương. Thơng thường thì IL-6 tăng cao sau
chấn thương, phẫu thuật và có thể phát hiện sớm ngay sau chấn
thương khoảng 70 phút. Trong 24 giờ đầu, IL-6 có thể đạt mức cao
nhất sau đó trở về dần đến mức bình thường. IL-6 hiện diện và tồn
tại kéo dài trong máu có thể đến 10 ngày sau tổn thương nên thường
được sử dụng như thông số đầu tiên đánh giá mức độ phản ứng viêm.
Nồng độ IL-6 tăng cao phản ánh nguy cơ tử vong do suy tạng sau
chấn thương.
Interleukin-10: Là yếu tố kháng viêm mạnh mẽ và cũng là yếu
tố chống lại các phản ứng miễn dịch nói chung. IL-10 có thể có tác
dụng bảo vệ trong những tình trạng viêm nặng. Sự sản xuất quá mức
IL-10 làm cho BN dễ bị nhiễm trùng và có nguy cơ phát triển các
biến chứng nhiễm khuẩn huyết (NKH) nặng. IL-10 phản ánh mức độ
nặng tổn thương và tăng cao ở những BN bị NKH, MODS hoặc hội
chứng suy hô hấp cấp và IL-10 cũng tăng cao ở những BN tử vong.
IL-10 xuất hiện sớm, trong vòng 60 phút sau chấn thương. Theo NC


5
của Dekker và cs, IL-10 tăng lên liên quan đến sự phát triển của

nhiễm khuẩn huyết và MOF.
Mối liên quan IL-6, IL-10 với độ nặng của tổn thương
Nhiều NC cho thấy sự tăng sớm của nồng độ IL-6 sau chấn
thương và đáp ứng này tương ứng đầu tiên với hiện tượng cú tác
động đầu tiên (first-hit) từ các thương tổn do chấn thương gây ra.
Sau đó, phẫu thuật và các can thiệp có ảnh hưởng như cú tác động
thứ hai (second-hit) gây ra đáp ứng tăng IL-6 huyết tương. NC
Svoboda (1994) chỉ ra nồng độ IL-6 tại thời điểm nhập viện có mối
tương quan có ý nghĩa thống kê với độ nặng tổn thương theo thang
điểm ISS. Nồng độ IL-6 tăng sớm có liên quan biến chứng suy đa
tạng. NC của Tschoeke và cs (2007) nồng độ IL-10 huyết tương ở
các BN chấn thương đều tăng cao có ý nghĩa thống kê trong ngày
đầu tiên sau chấn thương và ngày đầu sau phẫu thuật.
Vai trò của IL-6, IL-10 và giá trị tiên lượng
Sự tăng cao nồng độ IL-6 huyết tương có giá trị tiên lượng tử
vong ở BN đa chấn thương đặc biệt trong 24h đầu sau chấn thương.
Ngược lại giá trị tiên lượng tử vong của nồng độ IL-10 lại rất thấp.
NC của Gebhard F và cs (2000) trên 94 BN có 19% tử vong và IL-6
tăng cao có ý nghĩa tại thời điểm 4,6,12 giờ sau chấn thương ở nhóm
tử vong. NC Lausevic Z. và cs cũng thấy nồng độ IL-10 tăng cao
trong suy đa tạng và tăng sớm sau chấn thương. Pape H-C và cs BN
đa chấn thương nặng nồng độ IL-6 vẫn còn tăng cao từ ngày thứ 5
sau chấn thương trở đi và có mối liên quan chặt chẽ với suy đa tạng.
Vai trò của IL-6, IL-10 và thời điểm phẫu thuật.
Theo NC của Pape H-C và cs cho thấy những BN phẫu thuật kỳ
hai từ ngày thứ 2 đến 4 sau chấn thương tăng đáng kể các phản ứng
viêm so với những BN phẫu thuật sau 6 đến 8 ngày. Kết quả còn cho


6

thấy những BN phẫu thuật kỳ hai từ ngày thứ 2 đến 4 nếu có tăng IL6 lúc vào viện tỷ lệ suy đa tạng sẽ rất cao. Stahel PF và cs cho rằng,
diễn biến của phản ứng viêm hệ thống và đáp ứng miễn dịch là yếu
tố quyết định đến thời điểm phẫu thuật kỳ hai. Theo đó từ 24 giờ sau
chấn thương căn cứ vào đáp ứng viêm hệ thống và đáp ứng miễn
dịch của BN có thể chia thành bốn giai đoạn: gđ tăng phản ứng viêm
hệ thống (từ ngày thứ 2 - 4), gđ cửa sổ (từ ngày thứ 5 - 10), gđ suy
giảm miễn dịch (tuần thứ 3) và gđ hồi phục (sau 3 tuần). Tác giả cho
rằng, phẫu thuật kỳ hai nên tiến hành vào gđ cửa sổ và gđ hồi phục
sau chấn thương. Ngược lại nếu phẫu thuật trong gđ tăng viêm hệ
thống và gđ suy giảm miễn dịch tỷ lệ biến chứng sau mổ sẽ rất cao.
1.4. Tình hình nghiên cứu về IL-6, IL-10 ở BN đa chấn thương
1.4.1. Trên thế giới
NC của Bogener V (2009) cho thấy nồng độ của IL-6, IL-8 và
IL-10 tăng cao hơn ở các BN nặng và ngược lại các BN nhẹ thì có
mức tăng IL ít hơn. Tác giả cho rằng sự tăng cao quá mức của IL-10
liên quan chặt chẽ tới những chấn thương nặng (ISS>35). Svoboda P
và cs cho rằng, tăng nồng độ IL-6 sau chấn thương có liên quan với
biến chứng suy đa tạng và mối tương quan chặt giữa mức tăng IL-6
và điểm ISS (r = 0,73). NC của Gouel-Cheron A và cs trên 100 BN
trong đó có 37% nhiễm khuẩn huyết lại thấy rằng IL-10 chỉ tăng ở
nhóm tử vong và khơng có liên quan đến tiên lượng. Theo Casey LC
và cs (1993) thì nồng độ IL-6 và IL-10 trong huyết tương được sử
dụng như một marker dự đốn cho tình trạng đáp ứng viêm hệ thống
(SIRS), sepsis và hội chứng rối loạn chức năng đa tạng (MODS).
1.4.2. Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, chưa được NC nhiều về sự biến đổi nồng độ và
vai trò của các cytokine trong bệnh cảnh đa chấn thương. Nguyễn


7

Viết Quang NC thấy rằng nhóm BN tử vong có nồng độ IL-6 cao
hơn BN sống sót và nồng độ IL-6 tương quan thuận với tuổi BN,
tương quan nghịch với thang điểm Glasgow. NC của Nguyễn Trường
Giang và cs (2018) thấy rằng nồng độ IL-6 và IL-10 tăng sớm sau
chấn thương; nồng độ IL-6, IL-6/IL-10 có mối tương quan với độ
nặng tổn thương đánh giá bằng điểm ISS, RTS và có giá trị tiên
lượng tử vong, suy đa tạng và nhiễm khuẩn huyết ở BN đa chấn
thương. NC của Nguyễn Lương Bằng và cs NC cho thấy IL-6 cao
nhất ở ngày đầu sau mổ, giảm dần qua các thời điểm NC. IL-6 ngày
đầu sau mổ có tương quan đồng biến rất chặt chẽ với điểm ISS.
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi đã tiến hành NC trên 59 BN được chẩn đoán đa chấn
thương có gãy xương lớn, được cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện
Quân Y 103, trong thời gian từ tháng 7/2015 đến tháng 01/2018.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn BN nghiên cứu
- BN được chẩn đốn đa chấn thương có đủ các tiêu chuẩn các
định nghĩa của Patel A (1971) và Trentz O (2000).
- BN vào cấp cứu tại Bệnh viện Quân Y 103 trong 6 giờ đầu kể
từ khi bị thương và chưa được điều trị thực thụ tại các tuyến trước
trước khi vào viện.
- BN đa chấn thương có kèm theo gãy xương lớn. Các xương
lớn bao gồm xương chậu, xương đùi, xương chày và xương cánh tay.
Ổ gãy xương cần được tiến hành can thiệp phẫu thuật KHX trong
thời gian nằm viện tại Bệnh viện Quân Y 103.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ BN nghiên cứu
- BN đã tử vong trước khi phẫu thuật KHX.



8
- BN được chuyển đến cơ sở điều trị khác trước khi phẫu thuật
xử trí KHX hoặc trước khi đạt tiêu chuẩn ra viện.
- BN không đủ thông tin theo mẫu NC.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
NC tiến cứu, mô tả lâm sàng, theo dõi dọc.
2.2.2. Cỡ mẫu
Thuận tiện, chúng tơi NC ở 59 BN, có đủ tiêu chuẩn lựa chọn.
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Lập hồ sơ bệnh án NC cho tất cả các BN khi vào viện và thu
thập các biến số NC theo bệnh án NC mẫu.
2.2.3.1. Các biến số về đặc điểm chung của BN nghiên cứu
- Tuổi, Giới tính, Nguyên nhân chấn thương, Cơ cấu tổn thương:
theo Baker SP và cộng sự (1974).
- Tỷ lệ theo số vùng tổn thương trên BN đa chấn thương.
- Tỷ lệ tử vong và sống sót theo số vùng tổn thương.
- Cơ cấu tổn thương kết hợp, tỷ lệ gãy xương lớn.
- Tỷ lệ tử vong, sốc chấn thương và suy hô hấp cấp.
- Tỷ lệ tử vong, sốc và suy hô hấp theo cơ cấu tổn thương.
- Thời gian đến viện
- BN sống và tử vong.
2.2.3.2. Đánh giá chức năng các cơ quan ở BN đa chấn thương
- Thời điểm đánh giá: trong quá trình điều trị.
- Các cơ quan đánh giá chức năng: Tuần hoàn, tri giác, ...
2.2.3.3. Đánh giá độ nặng tổn thương bằng bảng điểm RTS,
AIS và ISS.
- Thời điểm đánh giá: Khi BN vào viện
- Các bảng điểm đánh giá



9
+ Điểm chấn thương sửa đổi RTS (Revised Trauma Score) theo
Champion HR và cộng sự (1989)
+ Điểm AIS (Abbreviated Injury Scale): đánh giá bằng thang
điểm tổn thương rút gọn phiên bản 1990 và 1998 (AIS - 90 và AIS 98) của Hiệp hội Y học giao thông Mỹ
+ Điểm ISS (Injury Severity Score) theo Baker SP và cs (1974).
- NC thay đổi nồng độ IL-6, IL-10 và mối liên quan với độ nặng
tổn thương
+ Khảo sát thay đổi nồng độ IL-6, IL-10, tỷ lệ IL-6/IL-10 huyết
thanh tại các thời điểm .
+ Nồng độ IL-6, IL-10, tỷ lệ IL-6/IL-10 ở BN tử vong và còn sống.
+ Giá trị tiên lượng tử vong của IL-6, IL-10, tỷ lệ IL-6/IL-10.
+ Sự biến đổi nồng độ IL-6, IL-10, tỷ lệ IL-6/IL-10 tại các thời
điểm NC liên quan với điểm RTS. AIS, ISS
2.2.3.4. Nghiên cứu mối liên quan giữa sự thay đổi nồng độ IL6, IL-10 và thời điểm phẫu thuật kết hợp xương.
- Thời điểm phẫu thuật KHX: Từ ngày thứ 2 - 4 sau chấn
thương và từ ngày thứ 5 sau chấn thương trở đi.
- Chỉ định KHX: căn cứ vào tình trạng toàn thân theo Trentz O
(2000).
- Các phương tiện KHX: khung cố định ngồi, đinh nội tủy, nẹp vít.
- Biến chứng sau phẫu thuật KHX: Viêm phổi, Nhiễm trùng
huyết, Suy đa tạng.
- Kết quả điều trị:
- Số BN sống và BN tử vong.
- Liên quan, giá trị tiên lượng giữa nồng độ IL-6, IL-10 trước và
sau phẫu thuật với biến chứng sau mổ.
- Liên quan giữa thời điểm phẫu thuật và biến chứng.
- So sánh IL-6, IL-10 sau phẫu thuật và thời điểm phẫu thuật KHX.



10
2.2.3.5. Quá trình điều trị
Thực hiện theo quy trình chẩn đoán và điều trị của BV Quân Y 103.
- Hồi sức tích cực.
- Phẫu thuật xử lý tổn thương: theo Stahel PF (2005):
- Phẫu thuật KHX kỳ hai.
2.2.3.6. Xét nghiệm định lượng nồng độ IL-6, IL-10 huyết
thanh
- Thời điểm lấy máu xét nghiệm IL-6, IL-10: T0 lấy trong 6 giờ
đầu kể từ khi bị chấn thương, T1 12 giờ sau chấn thương, T2 24 giờ
sau chấn thương, T3 48 giờ sau chấn thương, T4 72 giờ sau chấn
thương, T5 ngay trước phẫu thuật KHX, T6 24 giờ sau phẫu thuật .
- Địa điểm xét nghiệm IL-6, IL-10: Trung tâm NC Y Dược
Quân sự, Học viện Quân Y.
- Xác định nồng độ các IL-6, IL-10 được định lượng bằng
phương pháp ELISA với bộ kít của hãng AviBion-Orgenium.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: Từ tháng 7/2015 đến tháng 01/2018
Địa điểm: Bệnh viện Quân Y 103, Trung tâm NC Y Dược Quân
sự, Học viện Quân Y.
2.4. Xử lý số liệu
Số liệu lưu giữ và xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 20.0.
2.5. Đạo đức nghiên cứu
NC thực hiện theo quy trình chẩn đốn và điều trị của Bệnh viện
Qn Y 103, khơng làm ảnh hưởng q trình điều trị cho BN, số liệu
chỉ thực hiện cho NC khơng vì mục đích khác, danh sách tên BN
được mã hóa theo quy định.



11
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
3.1.1. T̉i, giới tính
- Tuổi: Phần lớn tuổi từ 20 đến 59 tuổi, trong đó từ 20-39 tuổi
(49,1%).
- Giới: Trong NC, số BN nam chiếm 76,3%, nữ chỉ chiếm 23,7%.
3.1.2. Nguyên nhân chấn thương
TNGT (74,6%), do ngã cao (22,0%); nguyên nhân khác (3,4%).
3.1.3. Đặc điểm tổn thương
- Số vùng tổn thương
Phần lớn BN (55,9%) với tổn thương ở 3 vùng cơ thể 23,7% BN
có tổn thương ở 2 vùng cơ thể; 20,4% BN có tổn thương ở 4 vùng cơ
thể và khơng có BN nào có tổn thương trên 4 vùng cơ thể.
- Liên quan giữa tỷ lệ tử vong và số vùng tổn thương
BN tổn thương ở 4 vùng cơ thể tỷ lệ tử vong (58,3%), tổn thương ở
3 vùng (21,2%), BN có tổn thương ở 2 vùng chỉ có 1 trường hợp tử
vong.
- Tổn thương kết hợp
Chấn thương sọ não (69,5%) Chấn thương ngực (45,8%), Chấn
thương bụng (33,9%), Chấn thương hàm mặt (30,5%) bỏng (18,6%).
- Đặc điểm gãy xương lớn
Trong NC; (69,5%) gãy 1 xương lớn, 20,3% có gãy 2 xương lớn
và 10,2% có gãy 3 xương lớn. Gãy xương đùi (71,2%) gãy xương
chậu (27,1%) cuối cùng là gãy xương chày và xương cánh tay.


12
3.1.4. Thời điểm nhập viện: Thời điểm nhập viện trung bình của

NC là 2,85 ± 1,08 giờ. Sớm nhất sau tai nạn 1 giờ và muộn nhất sau
6 giờ.
3.2. Sự biến đổi nồng độ IL-6 và IL-10 ở BN đa chấn thương
3.2.1. Sự biến đổi nồng độ IL-6 ở BN đa chấn thương
Bảng 3.7: Nồng độ IL-6 tại các thời điểm NC
IL-6
Thời điểm
T0

Thấp nhất
(ng/L)
2,99

Cao nhất
(ng/L)
215,25

Trung bình
(ng/L)
68,79 ± 59,52

T1

8,95

245,11

95,90 ± 69,72

T2


6,36

258,05

79,90 ± 62,89

T3

4,17

226,70

75,27 ± 62,56

T4

4,37

301,20

75,09 ± 60,99

T5

2,79

317,03

74,23 ± 63,61


T6

11,75

348,20

120,10 ± 76,85

Tổng
(n)
59
59
59
56
53
59
55

p
0,02
6
0,00
7
0,04
6
0,04
7
0,04
0,02

8

(* p < 0,05 so với thời điểm T0)
Nồng độ IL-6 đạt đỉnh sớm T1 và đạt đỉnh lần 2 sau tại T6.
3.2.2. Sự biến đổi nồng độ IL-10 ở BN đa chấn thương
Bảng 3.8: Nồng độ IL-10 tại các thời điểm NC
IL-10
Thời điểm
T0
T1
T2
T3
T4
T5
T6

Thấp nhất
(ng/L)
15,76
13,60
11,81
9,30
9,09
11,81
52,55

Cao nhất
(ng/L)
347,82
363,47

498,84
408,49
516,13
413,01
564,23

(* p < 0,05 so với thời điểm T0)

Trung bình
(ng/L)
128,02 ± 73,87
149,20 ± 80,89
180,09 ± 119,88
169,94 ± 96,34
215,79 ± 132,22
204,17 ± 96,97
264,12 ± 118,96

Tổng
(n)
59
59
59
56
53
59
55

p
0,036

0,047
0,039
0,045
0,043
0,034


13
Nồng độ IL-10 tăng cao tại tất cả các thời điểm và đạt đỉnh tại
72 giờ sau chấn thương và ngày đầu sau phẫu thuật.
3.2.3. Tỷ lệ IL-6/IL-10
Bảng 3.9: Tỷ lệ IL-6/ IL-10 tại các thời điểm NC
IL-6/IL-10
Thấp
Cao
Trung
Tởng
p
Thời điểm
nhất
nhất
bình
(n)
T0
0,03
2,26
0,58 ± 0,49
59
T1
0,09

6,48
0,77 ± 0,92
59
0,002
T2
0,07
1,99
0,52 ± 0,46
59
0,000
T3
0,07
1,82
0,52 ± 0,44
56
0,000
T4
0,04
2,11
0,44 ± 0,47
53
0,000
T5
0,04
1,88
0,41 ± 0,41
59
0,000
T6
0,13

1,82
0,48 ± 0,35
55
0,000
Tỷ lệ IL-6/IL-10 cao nhất tại T1 tương ứng với đạt đỉnh sớm IL-6.
3.3. Độ nặng tổn thương
3.3.1. Đánh giá độ nặng theo lâm sàng
- Tỷ lệ tử vong, sốc chấn thương và suy hô hấp cấp
BN suy hô hấp 61%; BN sốc chấn thương 50,8% BN tử vong 25,4%.
- Tỷ lệ tử vong, sốc chấn thương và suy hô hấp cấp theo cơ
cấu tổn thương:
Tỷ lệ sốc chấn thương cao ở BN có gãy khung chậu và xương đùi.
Chấn thương bụng có tỷ lệ tử vong và sốc cao nhất (40,0% và
85,0%), tổn thương ngực có tỷ lệ suy hô hấp cao nhất (88,9%).
3.3.2. Đánh giá độ nặng tởn thương theo thang điểm AIS
Điểm AIS trung bình là 3,69 ± 0,701 điểm. AIS3:44,1%, AIS4:
42,4%, AIS5:13,5%.
Bảng 3.12: Liên quan giữa điểm AIS va vị trí xương gãy (n=59)
Có gãy
Không gãy
Đặc điểm
n
n
p
X
X
Xương gãy
± SD
± SD
Khung chậu

16
3,81 ± 0,750
43
3,65 ± 0,686
0,47
3
Xương đùi
42
3,57 ± 0,668
17
4,0 ± 0,707
0,03


14
Xương chày

13

3,62 ± 0,650

46

3,72 ± 0,720

Xương cánh tay

9

3,78 ± 0,667


50

3,68 ± 0,713

2
0,67
4
0,70
4

3.3.3. Đánh giá độ nặng tổn thương theo thang điểm RTS
Điểm RTS trung bình là 8,24 ± 1,92 điểm, thấp nhất là 5 điểm
và cao nhất là 12 điểm. Từ 8-10 điểm (49.1%).
Bảng 3.14: Phân loại độ nặng tổn thương theo điểm RTS (n=59)
BN sống
BN tử vong
Điểm RTS
n = 44
Tỷ lệ (%)
n = 15
Tỷ lệ (%)
Vừa hoặc nhẹ (>10) (1)
6
85,71
1
14,29
Nặng (8-10) (2)
27
93,1

2
6,9
Rất nặng (≤ 7) (3)
11
47,83
12
52,17
P
p2-3 = 0,01
p3-2 = 0,01
Bảng 3.15: Điểm RTS ở BN tử vong va sống sót
Nhóm tử
Nhóm NC
Nhóm sống sót
vong
p
Điểm RTS
n=44
n=15
Điểm RTS (điểm)
6,80 ± 1,521
8,73 ± 1,796
0,000
Điểm RTS trung bình nhóm tử vong thấp hơn nhóm sống sót
(p<0,05).
3.3.4. Đánh giá độ nặng tởn thương theo điểm ISS
Điểm ISS khi vào viện từ 17-68, điểm trung bình là 32,02 ± 11,91
Bảng 3.16: Kết quả khảo sát độ nặng của BN theo điểm ISS
Nhóm NC
BN sống

BN tử vong
Tổng
Tỷ lệ
Tỷ lệ
Tỷ lệ
n=44
n=15
n
Điểm ISS
(%)
(%)
(%)
Nặng (16 - 25) (1)
19
90,5
2
9,5
21
100
Rất nặng (26 - 40) (2)
18
78,3
5
21,7
23
100
Nguy kịch (> 40) (3)
7
46,7
8

53,3
15
100
(p2-3= 0,009)


15
Bảng 3.17: Điểm ISS trung bình của nhóm tử vong va sống sót
Nhóm NC Nhóm tử vong
Nhóm sống sót
p
Điểm ISS
n=15
n=44
Điểm ISS (điểm)
38,80 ± 11,85
29,70 ±11,14
0,009
3.4. Sự biến đổi của IL-6, IL-10 liên quan độ nặng tổn thương
3.4.1. Nồng độ IL-6, IL-10, IL-6/IL-10 ở BN tử vong và sống sót
Bảng 3.19: Nồng độ IL-6 ở nhóm tử vong va nhóm sống sót
Nhóm NC
Thời điểm

n

T0
T1
T2
T3

T4
T5
T6

15
15
15
12
9
15
11

Tử vong
X
± SD
136,81 ±53,00
155,38 ±48,22
136,20 ±49,15
138,21 ±48,41
120,66 ± 71,25
128,44 ± 79,33
191,43 ± 83,94

Sống sót
X
± SD
45,60 ± 41,24
75,63 ± 64,38
60,71 ± 55,38
53,81 ± 51,61

59,56 ± 48,93
55,75 ± 45,10
95,79 ± 57,37

n
44
44
44
44
44
44
44

Tổng
(n)

p

59
59
59
56
53
59
55

0,000
0,000
0,000
0,000

0,000
0,000
0,000

Bảng 3.20: Nồng độ IL-10 ở nhóm tử vong va nhóm sống sót
Nhóm NC
Thời điểm

n

T0
T1
T2
T3
T4
T5
T6

15
15
15
12
9
15
11

Tử vong
X
± SD
149,20 ± 83,44

175,33 ± 81,20
192,81 ± 99,02
199,46 ± 93,81
240,20 ± 132,51
243,69 ± 87,62
315,39 ± 99,56

Sống sót
X
± SD
120,79 ± 69,88
140,28 ± 79,75
175,75 ± 126,95
159,87 ± 96,16
207,47 ± 132,61
190,70 ± 97,23
246,64 ± 120,96

n
44
44
44
44
44
44
44

Tổng
(n)


p

59
59
59
56
53
59
55

0,201
0,149
0,638
0,171
0,412
0,067
0,052

Bảng 3.21: Tỷ lệ IL-6/IL10 ở nhóm tử vong va nhóm sống sót
Nhóm NC
Thời điểm
T0
T1
T2

Tử vong
X
± SD
15
1,07 ± 0,46

15
1,04 ± 0,44
15
0,88 ± 0,50
n

Sống sót
X
± SD
44
0,41 ± 0,38
44
0,68 ± 1,02
44
0,40 ± 0,38
n

Tổng
(n)

p

59
59
59

0,000
0,200
0,000



16
T3
T4
T5
T6

12
9
15
11

0,85 ± 0,47
0,66 ± 0,57
0,66 ± 0,57
0,71 ± 0,50

44
44
44
44

0,40 ± 0,37
0,36 ± 0,41
0,32 ± 0,30
0,40 ± 0,24

56
53
59

55

0,000
0,03
0,05
0,003

Tại các thời điểm NC ngoại trừ T1, đều có sự khác biệt về tỷ lệ IL6/IL-10 giữa BN tử vong và sống sót (p<0,05).
Bảng 3.22: Giá trị tiên lượng tử vong của IL-6, IL-10 va tỷ lệ
IL-6/IL10 tại các thời điểm
AUC
Thời điểm
T0
T1
T2
T3
T4
T5
T6

IL-6
AUC
p
0,920 0,000
0,836 0,000
0,848 0,000
0,894 0,000
0,772 0,002
0.818 0,000
0.848 0,000


IL-10
AUC
p
0,607 0,220
0,628 0,141
0,588 0,313
0,609 0,210
0,579 0,365
0,648 0,088
0,694 0,026

IL-6/IL-10
AUC
p
0,903
0,000
0,798
0,001
0,839
0,000
0,826
0,000
0,752
0,004
0,736
0,007
0,729
0,009


Tổng
(n)
59
59
59
56
53
59
55

3.4.2. Mối tương quan giữa IL-6, IL-10, IL-6/IL-10 với RTS và
ISS
Bảng 3.32: Hệ số tương quan giữa IL-6 va RTS, ISS
Thời điểm
T0
T1
T2
T3
T4
T5
T6

Với điểm
RTS
-0,378
-0,412
-0,338
-0,386
-0,272
-0,268

-0,331

p
0,003
0,001
0,009
0,003
0,037
0,040
0,011

Với điểm
ISS
0,171
0,087
0,161
0,245
0,203
0,338
0,277

p
0,195
0,511
0,223
0,062
0,123
0,009
0,033


Tởng
(n)
59
59
59
56
53
59
55

Nồng độ IL-6 có mối tương quan nghịch với điểm RTS (với
p<0,05). Điểm ISS có mối tương quan thuận với IL-6 tại T5, T6
Bảng 3.33: Hệ số tương quan giữa IL-10 va RTS, ISS
Thời điểm
T0
T1

Với điểm
RTS
-0,305
-0,172

p
0,019
0,192

Với điểm
ISS
-0,098
-0,185


p
0,460
0,161

Tổng
(n)
59
59


17
T2
T3
T4
T5
T6

-0,110
-0,187
-0,070
-0,059
-0,169

0,405
0,156
0,600
0,655
0,201


-0,226
-0,110
-0,192
-0,100
-0,076

0,085
0,406
0,145
0,449
0,570

59
56
53
59
55

Nồng độ IL-10 chỉ có mối tương quan nghịch RTS tại T0.
Bảng 3.34: Hệ số tương quan giữa tỷ lệ IL-6/IL-10 với RTS, ISS
Thời điểm
T0
T1
T2
T3
T4
T5
T6

Với điểm

RTS
-0,257
-0,163
-0,279
-0,366
-0,110
-0,256
-0,230

p
0,050
0,217
0,032
0,004
0,405
0,051
0,080

Với điểm
ISS
0,267
0,149
0,409
0,415
0,386
0,474
0,417

p
0,041

0,259
0,001
0,001
0,003
0,000
0,001

Tổng
(n)
59
59
59
56
53
59
55

3.5. Phẫu thuật kết hợp xương kỳ 2
3.5.1. Thời điểm và phương pháp kết hợp xương
- Thời điểm kết hợp xương kỳ 2: Có 24 BN được phẫu
thuật KHX từ ngày thứ 2-4 và 35 BN được phẫu thuật
KHX từ ngày thứ 5 trở đi.
- Phương pháp kết hợp xương kỳ 2: Đinh nội tủy 66,1%,
khung cố định ngồi 20,3%, nẹp vít (13,6%)
3.5.2. Liên quan giữa nồng độ IL-6, IL-10, tỷ lệ IL-6/IL-10 với
thời điểm phẫu thuật và biến chứng sau phẫu thuật KHX.
Bảng 3.37: Nồng độ các IL-6, IL-10 va tỷ lệ IL-6/IL-10 ngay trước

Nồng độ
IL-6 (ng/L)

IL-10 (ng/L)
IL-6/IL-10

va sau phẫu thuật (n=59)
Ngày đầu sau
Trước phẫu thuật
phẫu thuật
(n = 59)
(n = 55)
74,23 ± 63,61
120,10 ± 76,85
204,17 ± 96,97
264,12 ± 118,96
0,41 ± 0,40
0,48 ± 0,35

p
0,000
0,000
0,05


18
Nồng độ IL-6, IL-10 sau KHX tăng cao hơn trước KHX
(p<0,05).


19
Bảng 3.38: Liên quan giữa nồng độ IL-6, IL-10 va tỷ lệ IL-6/IL-10
huyết tương va biến chứng sau phẫu thuật kết hợp xương


IL-6 (ng/L)

123,45 71,24

Không có
biến chứng
(n=37)
44,97 34,61

IL-10 (ng/L)
IL-6/IL10
IL-6 (ng/L)
IL10 (ng/L)
IL-6/IL10

223,72 99,93
0,71 0,52
186,31 79,85
311,44 125,20
0,70 0,46

192,55 94,62
0,23 0,13
80,74 39,04
235,99 107,11
0,35 0,15

Nồng độ
Trước

phẫu thuật
(T5)
Sau
phẫu thuật
(T6)

Có biến chứng
(n=22)

p
0,000
0,236
0,000
0,000
0,017
0,000

- Giá trị tiên lượng của IL-6, IL-10, IL-6/IL-10 với biến chứng.
Bảng 3.39: Giá trị tiên lượng biến chứng sau phẫu thuật kết hợp
xương của nồng độ IL-6, IL-10 va tỷ lệ IL-6/IL-10 (n=59)
Suy đa
tạng
(n=14)

Biến chứng
Cytokine
IL-6
Trước
phẫu thuật
(T5)


IL-10
IL-6/IL10
IL-6

Sau
phẫu thuật
(T6)

IL10
IL-6/IL10

AUC
0,84
3
0,86
5
0,71
9
0,76
3
0,73
0
0,70
0

p
0,000
0,000
0,01

0,003
0,047
0,05

Nhiễm
khuẩn huyết
(n=13)
AUC
0,85
1
0,95
0
0,58
0
0,67
8
0,79
1
0,79
9

Viêm
phổi
(n=12)

p

AUC

p


0,000

0,803

0.001

0,000

0,849

0.001

0,268

0,635

0,138

0,053

0,672

0,081

0,000

0,723

0,013


0,000

0,693

0,019

(* p<0,05). AUC:
- Liên quan giữa thời điểm phẫu thuật và nồng độ IL-6, IL-10, tỷ
lệ IL-6/IL-10 sau phẫu thuật


20
Bảng 3.46: Liên quan giữa thời điểm phẫu thuật với nồng độ IL-6,
IL-10, tỷ lệ IL-6/IL-10 sau phẫu thuật
Thời điểm PT
Từ ngày thứ 2-4
Từ ngày thứ 5
P
Nồng độ
IL-6 T6 (ng/L)
160,29 ± 75,45
92,55 ± 65,59
0,001
IL-10 T6 (ng/L)
332,26 ± 131,46
217,40 ± 83,22
0,000
IL-6/IL-10 T6
0,55 ± 0,41

0,44 ± 0,30
0,241
BN KHX từ ngày thứ 2-4 có nồng độ IL-6 và IL-10 sau KHX
tăng cao hơn so với các BN được KHX ngày thứ 5 trở đi (p<0,05).
- Liên quan giữa thời điểm phẫu thuật và kết quả điều trị sớm
Bảng 3.47: Liên quan giữa thời điểm phẫu thuật kết hợp xương va
biến chứng sau phẫu thuật
Thời điểm PT

Biến chứng

Viêm phổi
Suy đa tạng
Nhiễm khuẩn huyết
Tử vong

Từ ngày thứ 2-4
(n = 24)
n
Tỷ lệ (%)
9
75%
11
78,6%
10
76,9%
9
60%

Từ ngày thứ 5

(n = 35)
n
Tỷ lệ (%)
3
25%
3
21,4%
3
23,1%
6
40%

Tổng
(n)

p

12
14
13
15

0,007
0,001
0,003
0,078

BN KHX từ ngày 2-4 biến chứng cao hơn so với các BN được
KHX từ ngày thứ 5 (với p<0,05).
Chương 4 BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
4.1.1. Đặc điểm t̉i, giới tính
Tuổi và giới tính trong NC tương dương với NC của Nguyễn
Trường Giang; nam 78,2% và nhóm tuổi dưới 50 tuổi chiếm đa số
(82,7%). Pape và cs (2014) tuổi trung bình 42,9 ± 20,2 (tuổi), nam
72%, nữ 28%.
4.1.2. Nguyên nhân chấn thương
Tai nạn giao thông cao nhất (74,6%), ngã cao 22%, còn lại các
nguyên nhân khác. Theo Trịnh Văn Đồng (2007) và cs, tai nạn giao
thông 71,7% và tai nạn lao động 21,7%, Hildebrand F và cs (2015)
tai nạn giao thông (69,1% tại Đức và 77,3% tại Anh)


21
4.1.3. Đặc điểm tởn thương
BN có chấn thương sọ não cao nhất (69,5%). Tỷ lệ tử vong ở
BN có 4 vùng tổn thương lên tới 58,3%, BN có 3 vùng tổn thương
(21,2%) và 2 vùng tổn thương (7,1%). NC của Nguyễn Trường
Giang (2007), tỷ lệ tử vong tăng khi số vùng tổn thương tăng lên, có
tới 45,3% tử vong ở những BN tổn thương 4 vùng so với 18,2% tổn
thương 2 vùng,
4.1.4. Thời điểm nhập viện
Trong NC thời điểm nhập viện trung bình là 2,85 ± 1,08 giờ.
Theo NC của Lê Tiến Dũng là 2,7 ± 0,9 giờ (từ 1-5 giờ). NC của
Sauaia A và cs là 1,4 giờ sau tai nạn (1,4 ± 3,4).
4.2. Biến đổi nồng độ IL-6, IL-10 ở BN đa chấn thương.
4.2.1. Biến đổi nồng độ IL-6
Nồng độ IL-6 huyết tương của BN tăng sớm ngay sau chấn
thương và tăng cao tại tất cả thời điểm NC, đạt đỉnh sớm (95,90 ±
69,72ng/L) tại thời điểm 12 giờ sau chấn thương. Thời điểm ngày

đầu tiên sau phẫu thuật thì nồng độ IL-6 huyết tương lại tăng cao và
đạt đỉnh lần 2 (120,10 ± 76,85 ng/L) và đỉnh lần 2 còn cao hơn đỉnh
lần 1. Theo Billeter A và cs (2009) nồng độ IL-6 đạt đỉnh điểm vào
ngày đầu tiên sau khi chấn thương và giảm dần, đạt ngưỡng thấp gần
bằng 0 vào ngày thứ 14 sau chấn thương
4.2.2. Biến đổi nồng độ IL-10
Nồng độ IL-10 huyết tương cũng tăng sớm sau chấn thương và
cũng tăng cao tại tất cả các thời điểm khi làm xét nghiệm. Tuy nhiên,
nồng độ IL-10 tăng từ từ và đạt đỉnh muộn hơn so với IL-6 ở thời
điểm 72 giờ sau chấn thương với nồng độ (215,79 ± 132,22 ng/L) và
nồng độ IL-10 huyết tương tăng cao trở lại và đạt đỉnh lần 2 ngày
đầu tiên sau phẫu thuật KHX (264,12 ± 118,96 ng/L). NC của
Nguyễn Trường Giang và cs (2018) cho thấy nồng độ IL-10 tăng
muộn hơn IL-6, tăng cao nhất tại thời điểm ngày thứ 3 sau chấn
thương.


22
4.2.3. Tỷ lệ IL-6/IL-10
Tỷ lệ IL-6/IL-10 tăng cao nhất tại thời điểm 12 giờ sau chấn
thương. Ngày đầu tiên sau phẫu thuật, tỷ lệ IL-6/IL-10 thay đổi
không nhiều so với trước phẫu thuật.
4.3. Độ nặng tổn thương
4.3.1. Độ nặng tổn thương theo lâm sàng
Trong NC tỷ lệ BN suy hô hấp là 61,0% và sốc là 50,8%.
Nguyễn Trường Giang và cs (2018) sốc là 66,7 % và suy hô hấp lên
tới 70%. NC của Schroeder và cs (2008) ở Đức có tới 49% có suy hơ
hấp cấp.
4.3.2. Độ nặng tởn thương theo thang điểm AIS
Bệnh nhân NC đều có điểm AIS ≥ 3. Trong đó nhóm BN có

AIS3:44,1%, AIS4: 42,4% và cuối cùng là nhóm BN AIS5:13,5%.
4.3.3. Độ nặng tởn thương theo thang điểm RTS
Điểm RTS từ 5 đến 12 điểm, trung bình là 8,24 ± 1,92 điểm. Đa
số các BN có điểm RTS từ 8-10 điểm (49,1%). Một BN tử vong trong
nhóm có điểm RTS >10, 2 BN tử vong có điểm RTS từ 8-10, tỷ lệ tử
vong ở nhóm có điểm RTS ≤ 7 lên đến 52,7 %. Điểm RTS ở nhóm
BN tử vong (6,80 ± 1,521 điểm) thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm sống sót (8,73 ± 1,796 điểm).
4.3.4. Độ nặng tởn thương theo thang điểm ISS
Kết quả trên 70% BN có mức điểm ISS > 25. BN ở mức độ
nguy kịch có nguy cơ tử vong cao chiếm đa số (39,0%) tiếp theo có
35,6% BN rất nặng và 25,4 % BN nặng, khơng gặp BN nhóm ISS
trung bình. Theo Nguyễn Lương Bằng điểm ISS trung bình là 25,95,
thấp nhất là 17, cao nhất là 42 điểm. Nhóm tử vong có điểm ISS
30,27 ± 6,75 cao hơn so với nhóm sống sót 25,46 ± 6,19 (p < 0,05).
NC của Hildebrand và cs điểm ISS trung bình ở BN đa chấn thương
là 26,5 ± 6,8 tại Đức và 28,7 ± 10,7 tại Anh.


23
4.4. Mối liên quan giữa độ nặng tổn thương và IL-6 và IL-10
4.4.1. Nồng độ IL-6 và IL-10 và tỷ lệ IL-6/IL-10 ở BN tử vong
Kết quả NC nồng độ IL-6 tăng sớm sau chấn thương và tăng cao
hơn ở nhóm BN tử vong so với nhóm BN cịn sống tại tất cả các thời
điểm (với p<0,05). Nồng độ IL-6 tại thời điểm 6 giờ sau chấn thương
có giá trị tiên lượng tử vong với AUC=0,92 (p<0,05), nếu nồng độ
IL-6 ≥ 201,59 ng/L thì tiên lượng tử vong với độ đặc hiệu
100%.Trong khi đó nồng độ IL-10 ngày đầu sau phẫu thuật có giá trị
tiên lượng tử vong với AUC=0,69 (p<0,05). Tỷ lệ IL-6/IL-10 cao
hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm BN tử vong tại hầu hết các thời

điểm NC.
4.4.2. Mối tương quan giữa IL-6, IL-10 và tỷ lệ IL-6/IL-10 với
điểm RTS và ISS
Trong NC nồng độ IL-6 có mối tương quan nghịch với điểm
RTS tại hầu hết các thời điểm nghiên cứu, tương quan thuận với
điểm ISS tại thời điểm phẫu thuật và ngày đầu sau phẫu thuật tuy
nhiên mức độ tương quan chưa cao. Tại thời điểm 6 giờ sau chấn
thương, nồng độ IL-10 huyết tương có tương quan nghịch với điểm
RTS, các thời điểm khác không thấy có mối tương quan với điểm
RTS cũng như ISS. Tỷ lệ IL-6/IL-10 cho thấy sự tương quan tốt hơn
với điểm ISS tại hầu hết các thời điểm NC so với IL-6 và IL-10. NC
của Mimasaka và cs (2006) cũng thấy rằng, IL-6 có liên quan với
điểm AIS và điểm ISS ở BN đa chấn thương với hệ số tương quan
r=0,45 và 0,33
4.5. Phẫu thuật kết hợp xương kỳ 2
4.5.1. Thời điểm và phương pháp kết hợp xương
Trong NC có 24 BN (40,6%) được thực hiện phẫu thuật KHX
trong khoảng thời gian từ ngày thứ 2 - 4 sau chấn thương và 35 BN
còn lại (59,4%) được KHX trong thời gian từ ngày thứ 5 sau chấn
thương trở đi.


24
4.5.2. Liên quan giữa nồng độ IL-6, IL-10 với thời điểm phẫu
thuật và tiên lượng biến chứng toàn thân sau phẫu thuật KHX.
Trong NC nồng độ IL-6 và IL-10 huyết tương ở BN tăng cao ở
ngày đầu tiên sau phẫu thuật KHX. Sự giảm đi của tỷ lệ IL-6/IL-10
phần nào có thể cho thấy mức thay đổi của nồng độ IL-10 sau phẫu
thuật là lớn hơn so với sự thay đổi của IL-6. Pape và cs (2002) cho
thấy nồng độ IL-6 huyết tương tăng cao sau phẫu thuật KHX kỳ 2.

Theo Bogner và cs (2009) IL-10 tăng cao sớm 24 h sau phẫu thuật.
NC cho thấy nồng độ IL-6 và tỷ lệ IL-6/IL-10 trước phẫu thuật
tăng cao hơn so ở những BN có biến chứng so với những BN khơng
có biến chứng (p<0,05). Ở ngày đầu tiên sau phẫu thuật, sự tăng cao
hơn của cả nồng độ IL-16, IL-10 cũng như tỷ lệ IL-6/IL-10 cũng
được ghi nhận ở những BN có biến chứng so với những BN khơng
có biến chứng. Nồng độ IL-6 trước phẫu thuật có giá trị tiên lượng
biến chứng sớm sau phẫu thuật KHX (AUC >0,8 và p<0,05). Cịn
nồng độ IL-10 trước phẫu thuật có giá trị tiên lượng suy đa tạng
(AUC= 0,72 và p<0,05). Với các biến chứng sớm sau mổ như
nhiễm trùng vết mổ, viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết hay suy đa tạng,
nồng độ IL-6 và tỷ lệ IL-6/IL-10 trước và ngày đầu sau phẫu thuật
đều có giá trị tiên lượng với AUC>0,7 và p<0,05). Nồng độ IL-6
ngày đầu sau phẫu thuật có giá trị tiên lượng biến chứng sớm sau
phẫu thuật KHX ( AUC>0,8 và p<0,05. Trong khi đó nồng độ IL10 ở thời điểm trước phẫu thuật và ngày đầu sau phẫu thuật chỉ có
giá trị tiên lượng về biến chứng suy đa tạng. Nồng độ IL-10 ngày đầu
sau phẫu thuật có giá trị tiên lượng suy đa tạng (AUC= 0,76 và
p<0,05. Vai trò của các cytokine trong tiên lượng BN đa chấn thương
cũng được nhiều NC chứng minh. Frink, M và cs (2009) cho thấy
nồng độ IL-6 có giá trị tiên lượng sự tiến triển của suy đa tạng với độ
đặc hiệu lên tới 98,3%. NC của Nguyễn Lương Bằng nồng độ IL-6
ngày thứ 1 sau phẫu thuật có hiệu lực tiên lượng suy đa tạng sớm tốt
với AUC = 0,814 (p < 0,05), cũng như hiệu lực tiên lượng nằm hồi sức
dài ngày ở mức trung bình với AUC = 0,702 (p < 0,05).


25
Trong NC tỷ lệ biến chứng sớm như nhiễm trùng vết mổ, viêm
phổi, nhiễm khuẩn huyết và suy đa tạng cao hơn ở nhóm được phẫu
thuật KHX từ ngày thứ 2 - 4 so với nhóm BN được KHX từ ngày thứ

5. Đồng thời nồng độ IL-6 và IL-10 sau phẫu thuật cũng cao hơn ở
những BN được phẫu thuật KHX từ ngày thứ 2 - 4 so với nhóm BN
được KHX từ ngày thứ 5.
Pape H.C và cs (2002) thấy rằng nếu tiến hành phẫu thuật KHX
kỳ 2 vào khoảng thời gian từ ngày thứ 2 - 4 đối với những BN có
nồng độ IL-6 lúc vào viện tăng cao thì tỷ lệ suy đa tạng sau mổ sẽ là
rất cao (46,5%), so với nhóm phẫu thuật từ ngày 5 - 8 (15,7%).
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu trên 59 BN đa chấn thương có gãy
xương lớn được cấp cứu điều trị tại Bệnh viện Quân Y 103 trong thời
gian từ tháng 7/2015 đến tháng 01/2018, chúng tôi rút ra một số kết
luận sau:
1. Sự biến đổi nồng độ IL-6, IL-10 và tỷ lệ IL-6/IL-10 huyết
tương, mối liên quan với đặc điểm, độ nặng tổn thương ở bệnh
nhân đa chấn thương có gãy xương lớn.
- Nồng độ IL-6 huyết tương tăng ngay sau chấn thương đạt
đỉnh sớm tại thời điểm 12 giờ sau chấn thương (95,90 ± 69,72 ng/L)
và đạt đỉnh lần 2 ở ngày đầu tiên sau phẫu thuật (120,10 ± 76,85
ng/L). Nồng độ IL-6 tại thời điểm 6 giờ sau chấn thương ≥ 201,59
ng/L thì tiên lượng tử vong với độ đặc hiệu 100%.
- Nồng độ IL-10 cũng tăng sớm sau chấn thương nhưng tăng
từ từ và đạt đỉnh ở thời điểm 72 giờ sau chấn thương (215,79 ±
132,22 ng/L) và ngày đầu sau phẫu thuật (264,12 ± 118,96 ng/L).
Nồng độ IL-10 ngày đầu sau phẫu thuật ≥ 539,19 ng/L thì tiên lượng
tử vong với độ đặc hiệu 100%.
- Tỷ lệ IL-6/IL-10 trong huyết tương của bệnh nhân đa chấn
thương có gãy xương lớn cao nhất tại thời điểm 12 giờ sau chấn



×