Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bệnh xuất huyết do virus ở cá chép -Spring virus disease ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.14 KB, 6 trang )

Bệnh xuất huyết do virus ở cá chép
Spring virus disease
Nguyên nhân
Bệnh xuất huyết (đốm đỏ) có tác nhân gây bệnh là virus và
điều tra sự biến đổi của môi trường và sự kết hợp giữa 2 tác
nhân virus và vi khuẩn.
Từ 2 dạng bệnh xuất huyết cấp tính điển hình vμ dạng bệnh
mãn tính lở loét. Fijan và CTV, 1971 đã phân lập được tác
nhân gây bệnh là virus Rhabdovirus carpio. Tiếp theo là hàng
loạt các nhà khoa học Châu Âu, Mỹ, Nhật và đi sâu nghiên
cứu tác nhân gây bệnh xuất huyết (bệnh virus mùa xuân) ở cá
chép và nhiều loài cá trong họ cá chép; cá mè trắng.

R. carpio, cấu trúc acid nhân là ARN và lớp vỏ là protein
(Gupta vμ Roy, 1980, 1981; Kiuchi vμ Roy, 1984; Roy, 1981;
Roy và CTV, 1984) hình que một đầu tròn như viên đạn, chiều
dài 90-180nm, rộng 60-90nm, nó có 450 lớp mμng, trạng thái
xốp kích thước 200nm nhưng thường giữ lớp màng 100nm.
Việc chẩn đoán bằng kháng huyết thanh đã xác định
được Rhabodovirus ở nhiều cá khác nhau. Thei Hill và CTV,
1975 đã thừa nhận virus gây bệnh viêm bóng hơi cá chép đều
là virus gây bệnh xuất huyết ở cá chép.
Triệu chứng
- Trạng thái: Dấu hiệu đầu tiên cá ngạt thở, bơi ở tầng mặt, cá
chết chìm ở tầng đáy, cá mất thăng bằng bơi không định
h−ớng (bệnh viêm bóng hơi)
- Dấu hiệu bên ngoài: mang và da xuất huyết có thể ở cả mắt.
Da có màu tối, những chỗ viêm có nhiều chất nhầy, mắt lồi
nhẹ, mang nhợt nhạt, các tơ mang dính kết lại. Máu loãng
chảy ra từ hậu môn.
- Nội tạng; Bụng chướng to, trong xoang bụng xuất huyết có


dấu hiệu tích nước (phù), bóng hơi xuất huyết và teo dần một
ngăn, lá lách sưng to, tim, gan, thận, ruột xuất huyết, xoang
bụng có chứa nhiều dịch nhờn.

Dựa vào các dấu hiệu bệnh lý và bệnh thường xuất hiện vào
mùa xuân và mùa thu. Bệnh phát rất nhanh (bệnh cấp tính), tỷ
lệ chết cao. Khi phân lập không có vi khuẩn và có các dấu
hiệu bệnh bên ngoài thì xác định dễ dàng là virus.
Phân bố
Bệnh chủ yếu gặp ở cá chép, chúng gây bệnh từ cá giống đến
cá thịt.
Phòng trị
Một biện pháp sinh học cơ bản để phòng bệnh là nhiệt độ bằng
cách nuôi cá ở nhiệt độ cao hơn 20
0
C. Vì những dấu hiệu thay
đổi mùa vụ là đặc trưng giới hạn của bệnh phát triển (bệnh
virus mùa xuân). Do đó khi phòng bệnh cho cá, chúng ta có
thể nuôi cá ở những vùng nước ấm vì tác nhân gây bệnh ít
xuất hiện.
Biện pháp phòng bệnh bằng cách chọn giống những cá có sức
đề kháng với bệnh xuất huyết do virus có thể áp dụng đựoc,
nhưng thực hiện biện pháp này không đại trà được. Từ năm
1962 Liên Xô cũ đã có chương trình chọn giống cá chép có
sức đề kháng với bệnh xuất huyết do virus đã xác nhận rằng tỷ
lệ sống khi nuôi cá chép giữa cá có sức đề kháng với bệnh và
cá dễ mắc bệnh chênh nhau khoảng 30% (Kirpichnikov và
Faktorovich, 1972; Kirpichnikov và CTV, 1972). ở V−ơng
quốc Anh đã tìm đ−ợc dòng cá chép nuôi nội địa có sức đề
kháng hơn cá chép hoang dại. Tỷ lệ chết của cá chép hoang

dại là 60-90% trong khi đó cá chép nuôi (nhà) tỷ lệ chết không
đáng kể (Hill, 1977).
Qua thực tế việc chữa và phòng bệnh đối với bất kỳ một bệnh
virus ở cá thì biện pháp phòng bằng hoá chất không cho kết
quả cao (gần như không có tác dụng). Biện pháp phòng bệnh
bằng miễn dịch có thể cho kết quả tốt hơn và đã thực hiện cho
bệnh xuất huyết do virus ở cá chép. Sự phát triển ngày càng
mạnh về biện pháp phòng bệnh bằng miễn dịch cho người và
động vật nhưng đối với cá nó cũng bị giới hạn như khả năng
miễn dịch theo tuổi của cá và nhiệt độ (cao hơn 20
0
C) thuận
lợi cho phản ứng miễn dịch của cá. Nhưng vacxin xét về mặt
kinh tế chưa đáp ứng cho nghề nuôi cá nh− giá thành cao.
Trong ao nuôi cá giống khó thực hiện được phòng bệnh bằng
vacxin.
Áp dụng theo phương pháp phòng chung.

×