Bài 7: HỌA TIẾT HÌNH THÚ –
CON PHỤNG
Hình CLXIV cho một ý tưởng về các phẩm chất của một con chim phụng, bức hình
này được thể hiện ít nhiều hoàn hảo trên tấm bình phong của các ngôi đền[1] thờ nữ
thần: đúng theo mô tả của P. Corentin Pétillon “mỏ gà, cổ rắn, trán én, lưng rùa và
đuôi cá”. Hình phụng được thể hiện trên sóng cồn ngoài biển, nhưng là một trong tứ
linh nên phụng có quyền năng siêu nhiên cỡi trên sóng biển. Ở đây nói qua về
truyền thuyết nói về sức mạnh chim phụng: “Tung cánh bay lên từ phương đông,
vượt khỏi ngọn núi Côn Lôn, ghé uống nước nơi thác Đế Trụ, rũ cánh tắm ở biển
Nhược Thủy, cuối cùng nghỉ cánh ở núi Đơn Huyệt.” Một lần tung cánh của chim
phụng xa ngần ấy.
Cánh nó vươn rộng với những cọng lông cứng mà người ta nói cứng như thép, lông
đuôi rực rỡ như ngọn lửa, đôi chân vững trãi; đó là biểu tượng cho thao lược và
nhân hậu, kiêu hãnh và tôn quý. Phụng ngậm một dải lụa khi thì treo vào đó cuộn
giấy, khi thì là cái hộp vuông hay thẻ bài; theo một số người đó là ‘cổ đồ’ huyền
thoại của vua Phục Hi nhưng có người lại bảo đó là kinh thư thánh hiền; hình tượng
này có tên “Phụng hàm thư” (hình CXIV và các hình kế tiếp). Tôi chẳng rõ ai nói
đúng.
Theo truyền thuyết Trung Hoa, chim phụng có nhiều phẩm hạnh cao đẹp: “tiếng hót
ngân khắp ngũ âm, lông trang điểm ngũ sắc, thân thể biểu tượng cho sáu thứ: đầu
tượng trời, mắt tượng thái dương (mặt trời), lưng tượng thái âm (mặt trăng), cánh
tượng gió, chân tượng đất và đuôi tượng tinh tú.” Các vẻ đẹp và phẩm hạnh đó xứng
là vua các loài chim, nó thường đậu trên cây ngô đồng. Chim phụng chỉ xuất hiện
vào thời thái bình và ẩn mình khi thời loạn lạc. Nên phụng là biểu tượng cho thái
bình.
Những tín ngưỡng đó xa lạ đối với người An Nam; họ chỉ biết duy nhất một điều:
chim phụng là biểu tượng cho sự kết hợp giữa người nam và người nữ, tức hôn
nhân. Chuyện kể có hai người nam và người nữ xinh đẹp tuyệt trần, tâm đầu ý hợp
với nhau ; người nam là một vị tiên và người nữ vốn là phụng. Vị tiên từ trời bay
xuống hòa duyên cùng phụng.
Hay là tích long phụng hòa duyên[2]; trong bức vẽ long là người chồng và phụng là
người vợ. Hình vẽ con rồng và con phụng vờn quanh chữ song hỉ, cũng là biểu
tượng của hôn nhân, của hạnh phúc lứa đôi.
Trong ca dao cũng thường thấy biểu tượng này:
“Anh như cột mít chạm rồng; Em như kèo phụng gác trong đình chùa” Đẹp tuyệt.
Hay là lời cao ngạo, khinh rẻ:
“Trúc xinh không mọc cùng tre; Gà nòi lớn xác chẳng tề phụng loan”
Hình ảnh chim phụng dành chỉ người phụ nữ. Chính vì vậy phụng thường trang trí
ở các gờ mái những đền thờ nữ thần, và nơi này các bình phong cũng chạm vẽ hình
chim phụng thay vì con rồng. Hình phụng cũng thấy trang trí trên trán bia hay viền
khung bia mộ của các công chúa, rồi lại thấy ở giường chạm hay hộp đựng ấn của
nữ giới (hình CLXVI, CLXVII, CLXVIII). Nhưng cũng chẳng gì ngăn cấm được
người nghệ sĩ dùng mô-típ này trang trí đồ gỗ hay dinh thự bình thường như hình
trang trí phụ. Nhìn chung khi thấy chim phụng dùng làm họa tiết chính trên đồ vật
thì biết đó là món dành cho phụ nữ.
Loài chim này có hai tên gọi: con trống gọi là phụng và con mái gọi làhoàng; gộp lại
gọi là phụng hoàng. Nhưng thông thường người An Nam gọi gọn là phụng mà thôi.
Chim mái còn có tên khác ‘loan’[3], nên gọi làphụng loan. Theo truyền thuyết
Trung Hoa và người An Nam đón nhận, tiếng kêu của loài chim này biểu lộ sự ứng
họa của cặp tình nhân, của hạnh phúc lứa đôi; cho nên hình ảnh chim phụng vừa là
lời cầu chúc vừa nói lên sự gắn bó vợ chồng.
Còn về tổng quan chom phụng là biểu tượng thái bình như đã nói ở trên. Nên trong
cung điện cũng có hình chim phụng để phỉnh nịnh ca tụng vua chúa đang sống thời
thái bình thịnh trị vì có chim phụng xuất thế.
Như tôi đã trình bày, trong kiến trúc hình ảnh chim phụng được dùng làm trang trí
dấu nhấn trên các gờ mái đền thờ nữ thần. Nhưng cũng thấy ở các đền khác và
trong cung điện nhưng chỉ là thứ yếu và nhường vị trí chính yếu cho con rồng,
phụng chỉ thấy ở đầu hồi. Hoe61m hơn, phụng được thay thế cho vị trí của con dơi
(hình CLIX). Ở lăng mộ các công chúa thay vì con rồng người ta dùng hình phụng
để trang trí trán bia hay viền quanh bia. Cuối cùng còn thấy vẽ hay chạm trên các
tấm chi tiết đồ gỗ, trên nắp hộp, trên bình phong lụa, trên thành bộ ván (hình
CLXXII); cũng như làm trang trí dấu nhấn ở đèn, giá đỡ chậu, … (hình CLXXI).
Phụng còn có những biến cách (hóa), thường nhất là đào hóa phụng, nhưng cũng
thấy hoa mẫu đơn hóa phụng (hình CLXXII). Hoặc nhánh cúc hay quả na, hoa lan
(hình CLXXIII) kết hợp với họa tiết phụng. Hình phụng ít dùng vì khó dát hơn
rồng, khó ngang với hình lân, dù rằng tính mảnh dẻ và nét trang trọng hết sức thích
hợp.
Ở Bắc Kỳ, trước các ngôi đền thường thấy bốn chim phụng không đuôi trên các
đỉnh cột. Rất mỹ thuật, nhưng tôi chẳng biết nó mang ý nghĩa gì đối với người An
Nam. Với công dụng trang trí tương tự, dĩ nhiên í trang trọng và nhẹ nhàng hơn,
người ta dùng họa tiết cụm lá ô-rô thay vào (hình CXVII, CXVIII).
Có một con chim tương tự khác gọi là hạc. Lưu ý là hình dáng hạc với phụng, cũng
như tính biểu tượng, khác xa nhau. Hạc luôn có đôi cánh xếp lại và tạc đứng
(thường đứng trên con rùa) dùng làm món đồ thờ. Miệng hạc ngậm một cánh hoa,
thường là một đôi trước bàn thờ thần hay bàn thờ tổ tiên. Hạc không thấy dùng làm
họa tiết trang trí.
Hình như theo người Trung Hoa có hạc đen, hạc vàng và hạc xanh nữa, nhưng
người An Nam chỉ dùng hạc trắng và màu lông trắng đó tượng trưng cho tuối thọ.
Người Trung Hoa cũng như người An Nam đều tin chim hạc có tuổi thọ cao, người
Trung Hoa cho rằng khi đến 160 tuổi lông hạc biến thành màu đen, lúc đó gọi là
huyền hạc. Để chỉ người già người ta hay dùng thành ngữ “da mồi tóc hạc”, nghĩa là
tóc bạc trắng như lông hạc và da nhăn nheo như vảy đồi mồi.
Thêm nữa, hạc là vật cưỡi của chư tiên, điều này được đánh đồng là chúng trường
sinh bất tử? Vì thế hạc còn có tên “tiên điểu” (chim của tiên) Ở Trung Hoa người ta
làm đồ vàng mã có những con hạc giấy để đốt cúng, với lời cầu mong người chết cỡi
nó bay lên trời. Rùa là một biểu tượng khác của sự trường thọ nên thường đi đôi với
hạc (hình CLXXIV). Chim hạc không có biến cách từ họa tiết khác, nhưng ở Trung
Hoa hạc đôi khi được nhân cách hóa thành Thọ Tinh và đi chung với chữ thọ.