Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Sưu tầm những bài ca dao hay nhất pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.34 KB, 24 trang )





Sưu tầm những bài ca dao hay nhất

Nhất qủy nhì ma thứ ba học trò

Nhọc l?ng mà chẳng nên công cán gì

Thọc gậy bánh xe

Trưởng giả học làm sang

Thương cha chớ chọc ăn mày

Tiên học lễ hậu học văn

Tốt tóc nhọc cột nhà

Trẻ lên ba cả nhà học nói

Ưu đạo bất ưu bần
Lo không học được đạo nghĩa chứ không lo nghèo khổ

Vô học bất thuật

Con ơi siêng học kẻo thua ()
Mai mốt lên chùa giỗ Bụt, Bụt thương
Có bản khác: Vu Lan lên Chùa lạy Bụt thầy thương
Chồng khôn thì nổi cơ đồ


Chồng dại chồng tốn công phu, nhọc mình

Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân

Ai lên Hương Tích cảnh thiền
Dừng chân chiêm bái tôi khuyên đôi lời
Hãy tin tiềm lực con người
Đừng trông đừng đợi trên đời ngoài ta
Cũng đừng học thói kiêu sa
Khiêm cung cẩn trọng mới là chính tâm

Lơ thơ tơ liễu buông mành
Con oanh học nói trên cành líu lo
Em nghĩ mình em cái cúc bạc lưu ly tai
Cúc bạc tình chung thì có
Cái trâm cài vốn không
Cái tóc mây em vấn lộn khăn sồng
Quần lĩnh hâm đôi ba chiếc
Đôi má hồng em nhởn nhơ

Sáng trăng suông
Sáng cả vườn đào, sáng cả vườn chanh
Ba bốn cô đằng ấy có cô nào còn không
Có một cô thật đích cô chưa chồng
Có cho anh ghé chút làm chồng nên chăng
Cô mình về có nhớ chúng anh chăng
Ta về chỉ nhớ cái hàm răng cô mình cười

Mười quan anh chẳng tiếc, chỉ tiếc người răng đen
Cái răng đen ai khéo nhuộm cho mình
Để duyên cô mình đẹp
Cho cái tình chúng anh yêu
Trăm con như cái sợi chỉ đào
Trăm con cái sợi chỉ ấy
Nó cũng buộc vào cái tay anh (Còn tiếp)


Đất Quảng Nam rộng đà ra sức rộng
Đường ra kinh xa đã quá xa
Anh ra làm chi mỗi tháng mỗi ra ?
Anh ra một bữa cực ta ba, bốn ngày
Câu hát hò khoan của một cô gái xứ Quảng nam đóng vai gái Huế, không rõ giận
người tình thế nào, mà hát một câu độc, đáo để, không ai đối được Kể cả chàng
trai cùng các người tài cao học rộng. Câu hát như sau:
Học mà không nghĩ là lầm,
Nghĩ mà không học là nguy

Thư sinh trói gà không chặt
Người học hành không có sức lực đềm làm việc nặng

Ngó lên mây trắng trời hồng
Trai chưa vợ ghẹo gái có chồng được không
Ông Phật đồng ông nói rằng không
Trai chưa có vợ chọc gái có chồng mang gông

Nhắn ai viếng cảnh Nha Trang
Muốn tìm dấu cũ thì sang Tháp Bà
Muốn trong trời bể bao la

Con thuyền nho nho thì ra Hòn Chồng
Muốn xem cá lạ Biển Đông
Xuống tòa Hải Học trong vùng Trường Tây
Muốn vui với nước cùng mây
Mây tuôn suối ngỏ nước đầy Suối Tiên
Ba Hồ lắm thú thiên nhiên
Qua Sơn là chốn thần tiên đi về
Lòng mong nương bóng Bồ Đề
Lên Chùa Hải Đức gần kề Nha Trang

Năm ngoái anh mới sang Tây, (Câu )
Đồn rằng buôn bán năm nay phát tài.
Lòng anh muốn lấy vợ hai,
Rằng: "Nhà có thuận, nay mai nó về?
Rồi ra một quán đôi quê,
Tôi muốn nó về làm bạn sớm hôm.
Trước là sinh tử sinh tôn,
Sau nữa thờ phụng công môn ông bà.
Trước con nhà sau ra con nó,
Xin nhà rồi chớ có ghen tuông.
Chợ rộng thì làm gái buôn,
Sông rộng lắm nước trong nguồn chảy ra.
Lòng anh ăn ở thật thà,
Coi nó mười tám, coi nhà hai mươi;
Lòng anh chàng có như người,
Có mới nới cũ, tội trời ai mang;
Lòng anh ăn ở bằng ngang,
Nó giàu bằng mấy cũng nàng thứ hai".
- "Thôi thôi, tôi biết anh rồi,
Bụng anh nông nổi giếng khơi không bằng!

Bây giờ anh khéo khôn ngoan,
Sau anh tư túi, tôi làm chi anh? (Còn Tiếp)

Năm ngoái anh mới sang Tây (Câu )
Anh mà bắt chước Thúc Sinh,
Thì anh đừng trách vợ mình Hoạn Thư!"
Tiếp Theo câu Xem Giải Thích tại: Bắt Chước Thúc Sinh, Học Đòi Hoạn Thư
Anh đứng ở Nha Trang
Trông sang Xóm Bóng
Ánh trăng lờ mờ, lượn sóng lăn tăn.
Gần nhau chưa kịp nói năng,
Bây giờ sông cách, biển ngăn ngại ngùng?
Biển sâu con cá vẫy vùng
Sông sâu không dễ mượn dòng đưa thư
Anh nguyền cùng em:
Bao giờ Hòn Chữ bể tư
Biển Nha Trang cạn nước
Anh mới từ duyên em
Hòn Chữ : Một hòn đá rất to như một ngôi nhà nằm nơi bãi sông Cù, trên có khắc
chữ Chăm cô (qua thời gian nét chữ bị mòn, mất đi nhiều nét). Các nhà khảo cổ
học ngờ rằng hòn đá xưa kia nằm trên núi Tháp Bà do đất lở, lăn xuống dòng sông.
Em hỏi anh xưa kia
Ai "xạ" chín mặt trời ?
Ai dạo chơi âm phủ ?
Ai nằm ngủ quên ăn ?
Ai khóc cho măng mọc ?
Ai dạy học trò thi ?
Trai nam nhơn đối đặng, gái nữ nhi xin kết nguyền.
- Ớ em ơi! buổi xưa kia
ông Hậu Nghệ "xạ" chín mặt trời,

Ông Phạm Công dạo chơi âm phủ,
Ông Địch Nhi nằm ngủ quên ăn,
Nàng Mạnh Tông khóc cho măng mọc,
Đức Không Tử dạy học trò thi
Trai nam nhơn anh đối đặng, gái nữ nhi hãy kết nguyền.

Một nhánh tra, năm ba nhánh trảy,
Một nhánh trảy, năm bảy nhành nho,
Em tới đây, có đủ quan văn, quan võ, trẻ nhỏ, học trò.
Ai mà đối đặng tôi gả em chị em cho,
Ai mà đối không đặng, tôi bắt chăn bò ba năm.
- Một nhánh trảy, năm bảy nhánh mai
Một nhánh mai trăm hai nhánh thị
Chữ văn, chữ sĩ, anh đối hết trăm câu
Đối rồi anh hỏi chị em đâu
Nếu chị không có, anh bắt em hầu ngàn năm
Có bản khác: Trò nào đối đặng, em gả chi em cho, Trò nào không đối đặng em bắt
chăn bò suốt năm
Chẳng ai xấu bằng anh chồng tôi
Cái râu rễ gộc, cái tóc rễ tre
Cái bụng bè bè, hình như bụng cóc
Học hành thời dốt, chữ nghĩa chẳng biết
Nó bắt nó lèn, nó nêm như chạch
Nó thở ành ạch, như cái ễnh ương

Chị hai buông áo tôi ra
Để tôi đi học kẻo đà bị trưa
Bao giờ chiếm bảng khôi khoa
Yêu nhau hãy cứ đợ chờ vội chi.


Gặp đây xin hỏi Thúy Kiều
Có thương Kim Trọng ít nhiều chi không ?
Truyện Kiêu chàng biết mấy pho,
Hay là chàng chỉ học mò đôi câu ?

Gió nam non thối lòn hang dế,
Tiếng anh học trò mưu kế để dâu ?

Đưa em cho tới bến đò,
Kẻo em thơ dại học trò phỉnh em.

Ngó lên trên trời, mây giăng tứ hướng,
Ngó xuống dưới biển, đá dựng bốn bề.
Em làm sao cho đặng chữ phu thê
Đây chồng, đó vợ đề học trước sau.

Không ngon cũng bánh lá dong,
Dù có em có dại cũng dòng con quan.
- Không ngon cũng bánh lá gai,
Dù anh có dại cũng trai học trò.

Làm thơ mà dán gốc chanh,
Trai bỏ học hành, gái bỏ bán buôn.
Gái bỏ bán buôn vẫn còn tha thứ,
Trai bỏ học hành, một chữ năm roi.

Tiếng anh ăn học cũng thông,
Lại đây em hỏi làm bánh bò bông bột gì?
- Làm bánh bò bông bằng bột tàn mì
Trứng gà khuấy lộn nó quì bốn tai.


Tiếng anh ăn học cựu trào
Chị dâu té giếng, anh nắm chỗ nào kéo lên
- Nắm đầu thì sợ tội trời
Nắm ngang khúc giữa sợ lời thế gian
Giếng sâu anh phải thông thang
Kéo chị dâu lên đặng kẻo chết oan linh hồn
Câu đố nầy dựa vào quan điểm "nam nữ thụ thụ bất tương thân"
Trèo lên cây khế bẻ bông
Ngó vô trường học thấy đông dậm dầy
Nếu em không sợ ông thầy
Em vô cầm bút sửa chữ này cho anh

Kẻ ăn người ở trong nhà,
Sớm khuya công việc giúp ta nhọc nhằn.

Rủ nhau đi cấy đi cày,
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu.

Biển Đông có lúc vơi đầy,
Mối thù đế quốc biết ngày nào quên.
Cá bống kho với lá gừng,
Bà con mình đó, xin đừng quên nhau !
Càng ngày xâu nặng thuế cao,
Mất mùa nên phải lao đao, nhọc nhằn.
Xóm làng nhẫn chịu cắn răng,
Bán đìa nộp thuế cho bằng lòng quan.
Quan trên ơi hớt quan trên,
Hiếp dân, ăn chặn, chỉ biết tiên mà thôi !
Cây khô xuống nước cũng khô,

Phận nghèo đi tới chỗ mô cho giàu.
Nhớ chăng tình nghĩa trước sau,
Bỏ thây xứ lạ, làm giàu cho ai ?

Mưu con đĩ, trí học trò.

Hay chi chọc gái có chồng
Cơm chan nước lã mặn nống vào đâu
Có bản khác: Làm trai ghẹo gái có chồng
Cô kia má đỏ hồng hồng,
Cô không biết chữ nên chồng cô chê.

Cô ơi gian khổ chớ nề ,
Bình dân (l) đã mở, sao không hề tham gia ?
Bình dân: Tức Bình dân , một phong trào xóa nạn mù, chữ thời kháng chiến chống
Pháp ( - ). học vụ
Còn trời, còn nước, còn non,
Còn người mù chữ, ta còn phải lo.

Hò ơ (chớ) Hỏi anh anh nói học trò
Sao em lại thấy (ờ)
Hò ơ (chớ) Sao em lại thấy anh cỡi bò hôm qua

Ru con còn ngủ đi thôi,
Mẹ còn đi học kiếm đôi ba vần ().
Muốn tròn bổn phận công dân,
Mà không biết chữ trăm phần nhuốc nhơ.

Sông Nha Trang cát vàng, nước lục,
Thảnh thơi con cá đục lội dọc lội ngang.

Đã nguyên cùng nhau hai chữ đá vàng,
Quí chi tách cà phê đen, ly sữa bò trắng
Anh nở phụ phàng nước non.
Đi học bình dân học vụ sau Cách mạng tháng Tám.
Hò ơ (chớ) Tiếng anh ăn học làu thông
Hỏi anh có biết (ờ)
Hò ơ (chớ) Hỏi anh có biết khăn lông mấy đường

Sáng mai xách dĩa mua tương
Gặp anh trong trường cầm viết ngó ra
Em về mua lụa mười ba
Cắt áo cổ giữa mà tra nút vàng
Hỏi thăm anh học trường nào?
Mua giấy mau viết gởi vào cho anh.

Anh về học lấy chữ nhu,
Chín trăng em đợi mười thu em chờ.

Thương thay cho kiếp dã tràng
Sông sâu biển rộng cho ngàn sóng xao
Tháng ngày cực nhọc xiết bao
Một mình quần quật lấp sao cho bằng

Anh về để áo lại đây,
Để khuya em đắp gió Tây lạnh lùng
- Lạnh lùng lấy mùng mà đắp,
Trả áo anh về đi học kẻo trưa.

Đi ngang cầu sắt nắm lấy cho chắc
Anh hỏi gắt cô bạn chung tình

Thương không thương phải nói cho thiệt
Để anh lên xuống nhọc nhằn tấm thân

Làng Nghè lập được trống quân
Ngoài Bưởi seo giấy cho dân học hành.

Bước cẳng xuống tàu, tàu khua rổn rổn
Tàu Nhựt Bổn lấy nước Châu Thành
Anh với em phải nói cho rành
Để anh lên xuống nhọc nhằn thân anh.

Anh về bỏ áo lại đây
Đêm khuya em đắp gió Tây lạnh lùng
Lạnh lùng anh đắp áo cho
Đành chi lòng giận dày vò năm canh
(Lạnh lùng lấy mùng mà đắp
Trả áo anh về đi học kẻo trưa)

Hát lên một tiếng cho thanh
Trai bỏ học hành, gái bỏ bán buôn
Gái bỏ bán buôn, gái còn lịch sự
Trai bỏ học hành một chữ năm roi

Những lời mình nói với ta ()
Sông có Nhị Hà, núi có Tản Viên
Còn bây giờ, nàng ở thế sao nên
Tôi khấn Nam Tào, Bắc Đẩu ghi tên rành rành
Đã yêu anh thời quyết lấy anh
Nhà tre, cột nứa, lợp tranh vững vàng
Chớ tham nhà gỗ bức bàn

Gỗ lim, chẳng có, làm xoàng gỗ vông
Chỉ nhọc mình, thôi lại uổng công
Phòng khi gỗ mục lại dùng nhà tre
Còn duyên anh bảo chẳng nghe.

Tiếng gà gáy giục năm canh
Chàng ơi dạy học còn nằm làm chi
Sang năm Chúa mở khoa thi
Tàn vàng choi chói rỡ thì tên anh.

Thoi đưa tay mỏi canh chày
Tiếng ai xin lửa là thày cống Sen
Thày rằng đang học tắt đèn
Cậy tình lân lí dám phiền đêm hôm

Lấy chồng Hòe Thị nhọc nhằn
Ngày mỏi quai búa, đêm nằm đau lưng
Lấy anh ăn trắng mặc trơn
Quai búa anh nhận, sướng hơn vợ người.

Ngòi sách, ruộng học là đây
Cho nên Phú Diễn, đất này lắm quan.

Đồn rằng anh học đã cao ()
Hỏi chị dâu rớt giếng, anh nắm chỗ nào kéo lên.
- Chị dâu mà rớt xuống giếng
Anh tìm miếng để cứu chị lên
Nắm đầu thì khổ
Nắm cổ thì không nên
Nắm chân tay thì lỗi niềm huynh đệ

Vậy thì anh cứ van làng là hơn!

Đồn rằng anh học đã cao
Hỏi chị dâu rớt giếng, anh nắm chỗ nào kéo lên.
- Chị dâu mà rớt xuống giếng
Anh tìm miếng để cứu chị lên
Nắm đầu thì sợ tội trời
Hai tay nâng đỡ, sợ lời thế gian
Nhanh tay liền bắc cái thang
Kéo chị dâu một thuở kẻo chết oan con người

Đồn đây có gái hát tài
Để ta đối địch một vài trống canh
Dẫu thua dẫu được cũng đành
Bõ công đèn sách học hành bấy lâu.

Phủ Hoài Đức có làng Tây Mỗ
Đất phì nhiêu dân số cũng đông
Tám trăm tám tám đàn ông
Sáu trăm tám sáu mẫu đồng tốt tươi
Kiểu danh thắng lắm nơi đáng kể
Trước sóng đào sau kế ao sen
Bồ Đề, Cống Hạnh, Cầu Tiên
Đình trên lưng cá nằm nghiêng giữa làng.
Đồng cao thấy miên man gò đống
Làng tròn xoe, đất rộng của nhiều
Bán buôn thịnh nhất nghề thêu
Học hành ai cũng có điều đáng khen.

Chẳng thơm cũng ngát hoa chanh (Câu )

Chẳng giỏi cũng gái ngoại thành Thủ đô.
Ra tay chẳng phải tay vừa
Làm chiêm chiêm vượt, làm mùa mùa hơn.
Chăn nuôi vừa khéo vừa khôn
Quanh năm gà lợn xuất chuồng quanh năm.
Thao trường cũng gắng cũng chăm
Veo veo đường đạn thằng băng vòng mười.
Việc quân nào chịu thua người
Cũng tay súng thép giữ trời quê hương.
Điện về điện sáng làng thôn
Cũng tay điều khiển máy bơm máy nghiền.
Siêng làm thì học cũng siêng
Người vào lớp bảy, người lên lớp mười.
Mấy kỳ đấu kiếm, thi bơi
Chưa tài mà cũng khối người vỗ tay.
Đêm chèo giọng hát chưa hay
Vẳng qua sông Đuống đã say sông Hồng.
Bốn mùa tươi áo nâu sồng
Việc nhà việc nước gánh gồng đôi vai.
Trai tài gái đã kém ai
Chẳng thơm cũng ngát hoa nhài hoa chanh. (Còn tiếp Câu )
(Xem tiếp Câu số )
Trường Nghĩa Thục đứng đầu dạy dỗ
Khắp ba mươi sáu phố Hà Thành
Gái trai nô nức học hành
Giáo sư mấy lớp, học sinh mấy ngàn
Buổi diễn thuyết người xem như hội
Kỳ bình văn khách tới như mưa
Nôm quốc ngữ, chữ hán thư
Bài ca yêu nước, câu thơ hiệp đoàn

Trong chín tháng, sóng tràn gió đập
Tiếng Đông Kinh lừng khắp Đông Dương
Khắp đâu đâu cũng học trường
Cùng nhau đua bước lên đường văn minh…
Trời đang buổi nắng mưa tầm tã
Dấn thân mình đứng giữa cơn dông
Cả gan cho biết anh hùng
Hỏi xem mấy mặt trong vòng trần ai.

Muối đổ lòng ai, nấy xót.
Học ăn, học nói, học gói, học mở.

Ba năm bú mớm con thơ,
Kể công cha mẹ, biết cơ ngần nào.
Dạy rằng chín chữ cù lao, ()
Bể sâu không ví, trời cao không bì.
() Chín chữ cù lao: nói công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi dạy con cái.
Con ơi, mẹ bảo con này,
Học hành chăm chỉ, cho tày người ta
Con đừng học thói chua ngoa,
Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười,
Dù no, dù đói, cho tươi,
Khoan ăn, bớt ngủ, là người lo toan.

Hỏi thăm anh học trường nào.
Đặng em mua giấy gửi vào cho anh.

Dây tơ hồng không trồng mà mọc.
Thấy em chưa chồng anh chọc anh chơi.


Đèn Sài gòn ngọn xanh ngọn đỏ,
Đèn Mỹ tho ngọn tỏ ngọn lu,
Anh về học lấy chữ nhu.
Chín trăng em đợi mười thu em chờ,

Học trò trong Quảng ra thi,
Thấy cô gái Huế bỏ đi không đành.

Tay cầm cái kéo con dao.
Chọc trời, vạch đất lấy nhau phen này.

×